text
stringlengths 1
377k
|
---|
khoảng mười năm, hình như chủ trương đã dứt khoát: tôn hiền quan trọng hơn thân thân. Sách Trung Dung, chương XX có đoạn: “Trị thiên hạ và quốc gia, có chín phép quan trọng: sửa mình, trọng người hiền, yêu người thân, kính các đại thần… Sửa mình thì đạo thành, tôn trọng người hiền thì khỏi lầm lạc, yêu người thân thì cha chú anh em không oán, kính đại thần thì khỏi bị mờ tối…” ( Phàm vi thiên hạ, quốc hữu cửu kinh. Viết: tu thân, dã, tôn hiền dã, thân thân dã, kính đại thần dã… Tu thân tắc đạo lập, tôn hiền tắc bật hoặc, thân thân tắc chư phụ côn đệ ất oán, kính đại thần tắc bất huyễn…” Tử Tư đã đặt tôn hiền trước thân thân: tôn hiền để khỏi lầm lạc, cũng như kính đại thần để khỏi bị mờ tối, trong việc trị nước, còn thân thân chỉ để cho cha chú, anh em không oán. Vậy từ Khổng tử tới Tử Tử, Mặc tử, Ngô Khởi, Thương Ưởng, chủ trương tôn hiền mỗi ngày một thắng thế, giai cấp bình dân, tân địa chủ mỗi ngày một lên; đó là xu hướng tự nhiên của thời đại. Khổng tử phân biệt ba hạng bề tôi: hạng “đại thần” có tài đức[244] hạng “cụ thần”, bề tôi thường (cho đủ số để làm việc) (XI.23) và hạng “đấu sao”, khí độ nhỏ nhen như cái đấu, cái sao (một phần năm hay một nửa cái đấu) không đáng kể. (XIII.20). Gọi là đại thần thì cứ theo đạo lí mà thờ vua, không thi hành đạo lí được thì từ chức, như ông, hoặc như Cừ Bá Ngọc, bạn thân của ông: “nước có đạo thì làm quan, nước vô đạo thì lui về |
ở ẩn” (XV.6). Trong bài VIII.13, ông bảo: “Thiên hạ có đạo (vua tốt, chính trị tốt) thì ra làm quan, vô đạo thì ở ẩn… Nước nhà vô đạo mà mình phú quí (ra làm quan lớn) thì đáng xấu hổ” (Bang vô đạo, phú thả quí yên, sỉ dã). Cách thờ vua là phải kính vua, hết lòng (trung) với vua, nhưng không ngại xúc phạm vua (nghĩa là phải dám can gián – XIV.22). Khổng tử không nói Tử Du rằng can gián vua nhiều lần quá thì sẽ bị nhục (IV.26) nhưng tôi chắc ông cũng nghĩ vậy. Can một hai lần mà không được thì ông từ chức hoặc bỏ đi nước khác. Ông chê hai môn sinh thân tín của ông: Trọng Do và Nhiễm Cầu không đáng là đại thần, chỉ là cụ thần thôi; nhưng họ còn đủ tư cách không đến nỗi thờ kẻ giết cha, giết vua. (XI.23). Vậy quan niệm trung quân của ông không cố chấp, hủ lậu như đời sau: chết theo một hôn quân. Bề tôi phải trung với vua, nhưng ngược lại, vua phải giữ lễ với bề tôi (III.18). Nước được trị (có đạo) là nhờ có trật tự, trên dưới đều làm hết bổn phận của mình (quân quân, thần thần…), kẻ dưới không việt vị (bất tại kì vị bất mưu kì chính – VIII.14) nhà cầm quyền săn sóc cho dân đủ ăn, đủ mặc (túc thực), giáo hóa cho dân có lễ nghĩa, và muốn vậy vua phải có đức. Nhưng Khổng tử nhận rằng nếu vua biết dùng bề tôi hiền thì dù có nhiều tật xấu như hiếu sắc, dâm loạn, vẫn có thể giữ ngôi được. Khi Quí Khang tử hỏi ông Vệ Linh công vô đạo (mê nàng |
Nam tử) mà sao không mất ngôi, ông đáp: “Có Trọng Thúc Ngữ coi việc ngoại giao, Chúc Đà coi việc tế tự, Vương Tôn Giả coi việc quân. Dùng người như vậy, làm sao mất ngôi được?” (XIV.19). Trường hợp Tề Hoàn Công cũng vậy. Về lí thuyết, Khổng tử đòi hỏi ông vua phải có đức làm gương cho dân, nhưng trong thực tế, ông chỉ mong họ đừng bỏ bê việc nước mà biết trọng người hiền thôi. Ông thật hiểu người. Và vì nghĩ vậy nên ông mới bôn ba mười mấy năm để tìm một ông vua tầm thường miễn biết dùng ông, mà buồn thay, cũng không kiếm được. Nếu gặp được người biết dùng ông thì ông tin rằng chỉ một năm kỉ cương đã khá, ba năm sẽ thành công (XIII.10). Nhưng sự thành công đó chỉ có nghĩa là nước sẽ trị, không loạn lạc, dân đủ ăn, biết lễ nghĩa một chút. Công việc giáo hóa dân thì phải lâu hơn: vua vào bậc thánh nhân cũng phải mất trọn một đời (30 năm) dân mới có nhân đạo (XIII.12); còn hạng vua không phải là thánh, chỉ là thiện thôi, thì phải thay nhau trị nước liên tục một trăm năm mới khiến cho kẻ tàn bạo thuần phục, mà bỏ được hình phạt chém giết (XIII.11). Vậy Khổng tử nhận sự cải hóa bản tính con người rất khó, chứ không mau và dễ được. Hai bài XIII.11, 12 đó tỏ rằng Khổng tử rất sáng suốt, nhiều lương tri, hiểu người mà tôi chưa thấy một học giả nào để ý tới. Tôi nghĩ 100 năm còn là mau đấy. XÃ HỘI LÍ TƯỞNG CỦA KHỔNG TỬ Thời Xuân Thu và đầu thời Chiến Quốc, không một triết gia nào có ý viết sách để trình bày tư tưởng của mình thành một hệ |
thống; Khổng tử, Mặc tử, Mạnh tử đều vậy cả (Tăng tử, Tử Tư chỉ quảng diễn một vài tư tưởng Khổng tử trong một tập mỏng, không thành một triết thuyết). Nhưng những lời họ dạy môn sinh hoặc đối đáp với người ngoài mặc dầu tản mạn, cũng có liên lạc với nhau, nhờ họ có một chủ trương rõ rệt. Ít nhất là về đại cương, và đọc họ ta nhận thấy được một hệ thống trong tư tưởng của họ. Sau khi phân tích tư tưởng chính trị của Khổng tử, chúng ta có được một ý niệm về xã hội lí tưởng của ông. Xã hội đó là xã hội phong kiến, theo điển chế của Chu rất có trật tự, tôn ti, từ thiên tử tới các chư hầu lớn nhỏ, quí tộc, bình dân, ai có phận nấy, có quyền lợi và nhiệm vụ sống hòa hảo với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, giữ chữ tín với nhau, không xâm phạm nhau, ai cũng phải tu thân nhất là hạng vua chúa vì ngoài bổn phận dưỡng dân – lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, lão giả an chi, thiếu giả hoài chi – còn có bổn phận giáo dân nữa bằng cách làm gương cho họ, và bằng lễ, nhạc, văn, đức; bất đắc dĩ mới dùng hình pháp. Xã hội đó lấy gia đình làm cơ sở, trọng hiếu đễ, yêu trẻ, kính già, “thận chung truy viễn” đối với người khuất – không thấy Khổng tử bênh vực phụ nữ, đó là khuyết điểm của chế độ phụ quyền; ai nấy đều trọng tình cả và công bằng, không ai nghèo quá mà cũng không ai giàu quá, cấm ngặt sự tu liễm, người giàu thì khiêm tốn, giữ lễ, người nghèo thì lạc đạo (I.15) được như vậy thì các giai cấp hòa hợp với nhau, trên không hiếp dưới, dưới không oán trên. |
Có thể một nhà nho nào ở cuối thời Chiến Quốc đã tả xã hội đó, gọi nó là đời tiểu Khang, rồi thác là lời Khổng tử, cho vào thiên Lễ vận trong Kinh Lễ [245]: “Ngày nay đại đạo đã bỏ, người ta lấy thiên hạ làm của riêng; ai nấy đều riêng thân cha mẹ mình, đều riêng yêu con mình, cho của cải và sức lực là riêng của mình, vua quan thì cha truyền con nối, quốc gia thì dùng thành quách, hào trì mà giữ vững lấy, lấy lễ nghĩa làm kỉ cương, làm cho chính cái nghĩa vua tôi, hậu cái tình cha con, thuận cái tình anh em, hòa cái đạo vợ chồng, đặt chế độ, lập điển lí, tôn trọng kẻ trí dũng, lập công cho riêng mình. Cho nên sự dùng mưu chước mới sinh ra mà chiến tranh do đó dấy lên. Vua Vũ, vua Thang, vua Văn, vua Võ, Thành vương, Chu công bởi đó mà được chọn là bậc hơn cả. Sáu bậc quân tử ấy đều cẩn thận ở Lễ. Lễ là để làm cho rõ cái nghĩa, thành điều tín, rõ người có lỗi, lấy nhân làm phép giảng điều tôn nhượng, bảo dân theo phép thường. Ai không theo những điều ấy thì dẫu có quyền thế chức vị, dân chúng cũng cho là họa ác, bắt tội mà truất đi. Đó là đời Tiểu Khang”. Tác giả bài đó đã nắm được những điểm chính của đạo Khổng. Trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc (Cảo Thơm – 1966) quyển hạ, phần V chương XI, chúng tôi đã viết về quốc gia lí tưởng của Mặc tử, Lão tử và Pháp gia như sau: “Mặc tử muốn có một quốc gia thống nhất, quyền hành tập trung vào một người tài đức do dân cử lên[246], không có đảng phái, tư tưởng từ trên xuống dưới nhất loạt như nhau, ai cũng |
lo lợi chung của đồng bào, xã hội; dân đúc mà đủ ăn đủ mặc, cần và kiệm, không có sự xa hoa[247], tóm lại là muốn được “chính bình dân an”; cơ hồ ông còn lờ mờ nghĩ đến một thế giới đại đồng nữa”. Lão tử: có phác họa một quốc gia lí tưởng trong chương 80 cuốn Đạo đức kinh: “Nước nhỏ dân ít. Dù có khí cụ gấp chục gấp trăm sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi dâu xa. Có thuyền xe mà không ngồi, có binh khí mà không bày. (Bỏ hết văn tự) bắt dân dùng lại lối thắt dây thời thượng cổ. Thức ăn đạm bạc mà thấy ngon, quần áo tầm thường mà cho là đẹp, nhà ở thô sơ mà thích, phong tục giản phác mà lấy làm vui. (nghĩa là chỉ lo ăn no mặc ấm, ở yên, sống vui, ghé xa xỉ). Các nước gần gũi có thể trong thấy nhau, nước này nghe được tiếng gà tiếng chó của nước kia mà nhân dân các nước ấy đến già chết cũng không qua lại với nhau” . [248] Còn Pháp gia, Thương Ưởng và Hàn Phi, muốn có một quốc gia thống nhất (như Mặc tử) quyền hành tập trung vào một người là nhà vua (Không do dân cử mà cũng chẳng cần có đức chỉ cần biết thuật trị người); kinh tế phải khuếch trương để cho nước giàu và mạnh mà chiến thắng được những nước khác, không cần văn hóa cho cao, chỉ cần nông phẩm và binh khí cho nhiều; vua chẳng cần thi ân huệ, dạy dân, cứ ngất ngưởng ngồi trên mà điều khiển guồng máy bằng cách áp dụng pháp luật một cách nghiêm khắc và công bằng, không chút tư vị (dù là với người thân, vì vua không thân với ai hết, kể cả cha mẹ, vợ con)[249]. Lí tưởng đó là lí tưởng quốc cường quân tôn. |
Chỉ so sánh bốn quốc gia lí tưởng đó chúng ta cũng hiểu được tại sao từ đời Hán trở đi, suốt trên hai ngàn năm đạo Khổng được độc tôn, vua chúa đời nào cũng ráng áp dụng nó, mặc dầu không đúng. Nó thực tế hơn đạo Mặc, đạo Lão, nhân bản hơn thuyết của Pháp gia, trọng văn hóa hơn cả ba phái kia, hợp tình hợp lí. CHƯƠNG 7. ĐẠO LÀM NGƯỜI Suốt đời Khổng tử chỉ làm quan có mấy năm còn thì dạy học và bôn ba các nước chư hầu mà thuyết các nhà cầm quyền về việc trị nước. Làm chính trị thì ông chủ trương đức trị, dạy học thì ông cốt ý đào tạo người dân tốt, và những người có tài đức để sau này trị dân, cho nên không thể tách hai vai trò chính trị gia và luân lí gia của ông được. Sở dĩ chúng tôi đã viết tập m ỏng Nhà giáo họ Khổng, rồi trong cuốn này lại phân biệt những chương về chính trị, về luân lí là chỉ để cho dễ trình bày, tiện về mặt đó thì bất tiện về mặt khác: nhiều chỗ phải lặp lại những điều đã nói rồi. Chẳng hạn về đức Nhân. Chương V, mục Đức trị, tôi đã xét về đức đó, nhưng chỉ mới nhấn mạnh về phương diện chính trị. Thực ra nó là đức căn bản của Khổng học cả về xử thế lẫn tu thân nữa, vì nó gồm gần đủ các đức khác, cho nên chương này sẽ phân tích lại, kĩ hơn. Bài VI.28, Tử Cống hỏi: Nếu có người thi ân cho nhân dân và cứu giúp đại chúng thì người đó thế nào? Có thể gọi là nhân được không? |
Khổng tử đáp: Sao chỉ gọi là người nhân thôi? Phải gọi là bậc thánh chứ! Vua Nghiêu, vua Thuấn cũng chưa làm được vậy thay! Người nhân, mình muốn tự lập thì cũng thành lập cho người; mình muốn thành công thì cũng giúp người thành công. Biết từ bụng ta suy ra bụng người (năng cận thủ thí), đó là phương pháp thực hành của người nhân. Như vậy nhân có hai phần tích cực và tiêu cực. Tích cực là “kỉ dục lập nhi nhập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân” (đó là đức trung, yêu người, hết lòng với người); tiêu cực là “kỉ sở bất dục vật thi ư nhân” (đây là đức thứ. Chữ thứ gồm chữ như ở trên, c h ữ tâm ở dưới, nghĩa là suy lòng mình mà biết được lòng người, mình muốn cái gì thì người cũng muốn cái đó, vậy nên làm cho người những cái mà mình muốn và đừng làm cho người những ái mà mình không muốn). Nhân là trung, thứ, tức là đạo đối với người, nhưng đồng thời cũng là đạo đối với mình nữa: kỉ dục lập, kỉ dục đạt; mình phải muốn lập thân, thành công thì mới có thể giúp người lập thân, thành công được. Nhân vừa là tu thân vừa là ái nhân, vừa là xử kỉ vừa là tiếp vật. Nó là trung tâm của đạo đức theo Khổng tử, từ đó mà phát ra các đức khác, và các đức khác tụ cả về nó. Cho nên Phùng Hữu Lan gọi nó là “toàn đức”; Lâm Ngữ Đường gọi là nó là “sagesse idéale”. (sự minh triết lí tưởng). Nó gồm hiếu đễ: Có lòng kính yêu cha mẹ và người lớn trong |
nhà thì mới biết yêu người ngoài. (Hiếu đễ dã giả, kì vi nhân chi bản dư? I.2). Tể Dư bị Khổng tử mắng là bất hiếu, không nhớ công cha mẹ bồng bế ba năm, mà muốn rút thời gian để tang từ ba nắm xuống một năm. (XVII.21). Nó gồm trung với nước, như trường hợp Vi tử, Cơ tử, Tỉ Can. Vua Trụ dâm loạn, khiến dân khốn khổ, sự nghiệp nhà Ân sắp sụp đổ. Vi tử là anh vua Trụ, thấy vậy bỏ nước mà đi để bảo tồn dòng họ. Cơ tử và Tỉ Can đều là chú của Trụ, khuyên can Trụ, Trụ bỏ tù Cơ tử và bắt làm nô lệ, Cơ tử phải giả điên, sống khổ nhục; còn Tỉ Can thì bị Trụ giết, moi tim. Hành vi ba người đó khác nhau, nhưng đều nhắm mục đích làm cho nước yên, dân khỏi khổ, nên Khổng tử khen là nhân. (XVIII.1) Bá Di Thúc Tề cũng được Khổng tử khen là “hiền”, “muốn điều nhân mà được điều nhân”, vì bỏ ngôi vua, để giữ nghĩa; nhất là vì can đảm can Võ vương nhà Chu đừng đánh Trụ; mắng Võ vương là bất hiếu, bất nhân: “Cha mất không chôn mà dấy việc can qua, có đáng gọi là hiếu không? Làm tôi mà giết vua (Trụ) đáng gọi là nhân không?”. Võ vương muốn giết, Thái công Vọng can, mới thôi. Khi Võ vương làm thiên tử rồi, Bá Di, Thúc Tề giữ nghĩa khí, không chịu ăn lúa nhà Chu, ẩn ở núi Thú Dương, hái rau vi mà ăn, chịu chết đói. Vậy nhân gồm nghĩa. Khổng tử ít nói đến nghĩa (Sau này Mạnh tử mới coi đức đó trọng hơn lễ) nhưng ông hành động luôn luôn theo nghĩa: Theo |
nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì làm, không hề mưu tính tới lợi cho mình, mà cũng không cần biết hậu quả ra sau. Ông trái hẳn Mặc tử không nói tới lợi, dù là lợi công, cho nên bảo: “người quân tử hiểu rõ về nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ về lợi” (IV.16), và “cách xử sự của người quân tử, không nhất định phải như vầy mới được, không nhất định như kia là không được, cứ hợp nghĩa thì làm” (IV.10). Như vậy là “ vô khả, vô bất khả”, không cố chấp. Nhưng việc gì đáng làm, hợp nghĩa, thì dù có mà không làm được, ông cũng cứ làm, khi nào hết sức rồi mà không thành được thì mới thôi; mặc lời chê của thiên hạ là “tri kì bất khả vi nhi vi chi” (XIV.39): biết là không thể làm được mà vẫn làm. Lễ cũng là một bộ phận của nhân, lễ là ngọn, nhân là gốc. Ở trên tôi đã dẫn bài III.3: “Người không có đức nhân thì lễ mà làm gì?”; thiếu nhân thì lễ chỉ là hình thức, giả dối. Khi Nhan Uyên hỏi về đức nhân, Khổng tử đáp: Khắc kỉ (chế thắng tư dục) mà trở về lễ (đạo lí) thì là nhân. Một ngày khắc kỉ trở về lễ thì khắp thiên hạ sẽ khen đức nhân của mình. Làm điều nhân là do mình chứ đâu có do người. Nhan Uyên nói tiếp: Xin thầy chỉ cho con những điều mục (để thực hành). Khổng tử bảo: Cái gì không hợp lễ thì đừng nhìn, không hợp lễ thì đừng nghe, không hợp lễ thì đừng nói, không hợp lễ thì đừng làm (XII.1). Muốn khắc kỉ thì phải cương cường, quả cảm, phải dũng (XIII.27); muốn làm điều nghĩa cũng phải dũng (kiến nghĩa bất |
vi, vô dũng dã – II.24); cho nên Khổng tử bảo: “Nhân giả tất hữu dũng”, nhưng “dũng giả bất tất hữu nhân” (XIV.4). Người nhân có thể “sát thân dĩ thành nhân”, như Bá Di, Thúc Tề. Cái dũng của họ đáng phục biết bao! Họ không hề lo, sợ gì cả (XIV.28). Một điều kiện quan trọng nữa là phải trí vì có sáng suốt mới lợi cho đức nhân, mới biết cách giúp người mà không làm hại cho người, cho mình (trí giả lợi nhân. IV.2). Tể Ngã không hiểu lẽ đó, có lần hỏi Khổng tử: Người có đức nhân nghe báo có người té xuống giếng, thì có nhảy xuống mà vớt không? Ông đáp: Sao lại làm như vậy? Người quân tử có thể lại giếng xem (rồi tìm cách cứu) chứ không thể để người ta hãm hại mình; có thể bị gạt một cách hợp lí chứ không thể bị gạt một cách vô lí. Người nhân không phải người ngu. Bài XVII.8, ông bảo Tử Lộ: Này Do, anh có nghe nói đến sáu đức bị sáu điều che lấp không? Tử Lộ đáp chưa. Ông bảo: Ngồi đó, ta nói cho nghe. Ham đức nhân mà không ham học thì bị sự che lấp là ngu muội; ham đức trí mà không ham học thì bị sự che lấp là phóng đãng; ham đức ngay thẳng mà không ham học thì bị sự che lấp là gắt gao, mất lòng người; ham đức dũng mà không ham học thì bị sự che lấp là loạn động; ham cương cường mà không ham học thì bị sự che lấp là cuồng bạo (XVII.8). Tử Hạ hiểu được đạo của thầy, khi bảo: “Học rộng mà giữ vững chí hướng, hỏi điều thiết thực mà nghĩ đến điều gần (tức |
việc thực hành những điều thiết thực), đạo nhân ở trong đó” Lại phải sáng suốt (trí) mới biết yêu người đáng yêu, ghét người đáng ghé (IV.3), đề bạt người chính trực, bỏ người cong queo (XII.22). Nhân, Trí, Dũng, ba đức đó, dân tộc nào cũng cho là cần thiết cho sự tu thân – nhân để luyện tình cảm, trí để luyện trí tuệ, dũng để rèn luyện nghi lực – liên quan mật thiết với nhau, nên bài IX.28 Khổng tử đặt chung với nhau. Nhân còn gồm nhiều đức khác nữa, như: Trực, ngay thẳng, không giả dối: “xảo ngôn lệnh sắc, tiến hĩ nhân” (I.3). Kính, nghiêm trang, cẩn thận trong công việc (chấp sự kính) (XIII.19). Thận trọng, lời nói mà mau mắn làm việc (nột ư ngôn, mẫn ư hành) (IV.24)… Nếu lượm hết trong Luận ngữ ra, e rườm, nên chúng tôi chỉ xin dẫn thêm một bài nữa: + Tử Trương hỏi Khổng tử về đạo nhân. Khổng tử đáp: Làm được năm đức này trong tiên hạ thì gọi là nhân (…) cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung kính thì không bị khinh nhờn, khoan hậu thì được lòng mọi người, thành tín thì được người ta tín nhiệm, cần mẫn thì thành công, từ huệ thì sử dụng được người (XVII.6). Cung ở đây tức là khắc kỉ theo lễ trong câu trả lời Nhan Uyên. Khoan và huệ tức là thứ. Tín là đức tôi đã xét ở mục Đức Trị, cũng là đức trong lời khuyên Tư Mã Ngưu: “Người có đức nhân phải biết nhịn lời” (XII.3). Mẫn là đức trong bài IV.24 dẫn trên. Đối chiếu năm đức đó với câu “Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân, năng cận thủ thí, khả vị nhân chi phương dã dĩ” (VI.28 đã dẫn ở đầu chương), thì ta thấy cung, mẫn, tín là kỉ dục lập, kị dục đạt; mà khoan, tín, mẫn, huệ |
là lập nhân, đạt nhân. Vậy nhân tuy có nhiều phương diện, phạm vi rất rộng, nhưng không ngoài câu Khổng tử đáp Tử Cống đó. Nhân gồm nhiều đức như vậy, mà ngược lại không có một đức nào đủ coi là nhân được. Trung thực chưa phải là nhân, như Tử Văn nước Sở ba lần làm lệnh doãn mà không mừng, ba lần bị bãi chức mà không hận, lại đem việc cũ bàn giao cho người thay mình, chỉ là trung thực, chứ không chắc có gì để gọi được là nhân (V.18). Trong sạch như Trần Văn tử khi thấy Thôi tử giết vua Tề, ông bỏ đi, qua nước khác thấy đại phu nước này cũng không hơn gì Thôi tử, lại bỏ đi nữa, như vậy mấy lần, Khổng tử khen là trong sạch chứ chưa cho là nhân (V.18). Không hiếu thắng, không khoe khoang, không oán hận, tham dục, cũng là khá đấy, làm được những việc khó đấy, chứ chưa phải là nhân. Trong số môn sinh, Khổng tử chỉ khen một mình Nhan Hồi là có thể giữ được đức nhân trong ba tháng, còn những người khác may mắn lắm được một ngày, một tháng (VI.5). Và khi Mạnh Võ Bá hỏi ông: Tử Lộ, Nhiễm Cầu, Công Tây Xích có phải là người nhân không, ông đều đáp là không biết mà chỉ khen họ mỗi người có một tài riêng: Tử Lộ giỏi về võ bị, Nhiễm Cầu về trị nước, Công Tây Xích về ngoại giao (V.7). Riêng ông, ông hai lần không tự nhận là nhân. Bài VI.33, ông bảo: “làm được bậc thánh với nhân thì ta đâu dám”; bài XIV.28, ông hận rằng chưa có được ba đức của người quân tử: không lo buồn, không nghi hoặc, không sợ hãi (nghĩa |
là chưa được nhân, trí, dũng). Tử Cống cho ông là tự khiêm. Thời Khổng tử, thuyết nhân do ông đưa ra, có tính cách rất mới mẻ mà lại quan trọng, bao gồm nhiều đức như vậy, nên môn sinh thường đem ra hỏi ông. Nhan Uyên và Trọng Cung trong thiên XII; Phàn Trì trong thiên XIII; Tử Trương trong thiên XVII; các thiên VI, XIV… cũng có người hỏi về nhân; tính ra trong 20 thiên Luận ngữ, chữ nhân được nhắc tới cả trăm lần; vậy mà bài IX.1, lại chép ông ít nói tới lợi, thiên mệnh và đạo nhân, khiến cho tới nay vẫn còn nhiều người thắc mắc, mỗi nhà hiểu một cách, và không ai chắc rằng mình hiểu đúng cả. Đời sau, có lẽ từ Hán, có người còn cho nhân cái ý nghĩa siêu hình, gọi nó là “cái gốc của sự sinh hóa trong trời đất”; thế gian nhờ nó mà đứng, vạn vật nhờ đó mà sinh; là “cái thiên lí chí công”; nó có cái thể “tịch nhiên im lặng”, “cái dụng dễ cảm, dễ ứng, lúc nào cũng suốt đến cả vạn vật” (Nho giáo, quyển thượng, tr 81 84, của Trần Trọng Kim – Tân Việt in lần thứ ba). Ý nghĩa siêu hình đó không có trong Luận ngữ nên chúng tôi không bàn tới. Và để kết thúc mục này, tôi xin so sánh nhân với kiêm ái của Mặc, đức của Lão, bác ái của Ki tô, từ bi của Phật. Nhân khác kiêm ái ở hai điểm: Nhân phân biệt mình và người, do kỉ cập nhân, lấy mình làm khởi điểm mà khuếch sung lần lần tới người, từ người thân đến người sơ, từ gần tới xa, nghĩa là có đẳng cấp. Kiêm ái thì |
không vậy, coi ai cũng như mình, người thân của người cũng như người thân của mình, không có riêng và tư. Không những vậy, người nhân còn phân biệt người tốt và kẻ xấu, chỉ yêu người tốt, mà ghét người xấu (IV.3); người kiêm ái không phân biệt như vậy. Người nhân chú trọng đến sự xúc tiến đạo đức của người khác, còn người kiêm ái chú trọng đến sự cứu giúp vật chất nhiều hơn; hễ Mặc tử nói đến kiêm ái là kèm theo ba chữ “giao tương lợi”, Khổng muốn bồi dưỡng cái phần thiện trong bản tính của ta, còn Mặc chỉ muốn diệt cái phần ác (ham tư lợi, vị kỉ, tranh giành nhau) trong bản tính của ta. Người nhân của Khổng tử khác với thánh của Lão tử và người bác ái của Ki tô vì không “dĩ đức báo oán”, không yêu kẻ thù như bạn. Khổng tử “dĩ trực báo oán” vì muốn cho xã hội có sự công bằng, không khuyến khích kẻ ác. Ông chú trọng về phương diện trật tự xã hội hơn hai nhà kia. Nhân lại khác xa đạo từ bi của Phật, vì Phật chủ trương phá ngã chấp mà Khổng thì chủ trương “do kỉ cập nhân”. Phật thương người và cả vạn vật, tuy cũng tự giác, giác tha, nhưng lòng thương của Phật có một nỗi buồn vô hạn, buồn cho sự mê muội, cho cái kiếp sống của tất cả các sinh linh, tìm cách giải thoát mọi sinh linh ra khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử; còn Khổng yêu người mà hăng hái, tìm cách giúp người sống một đời vui vẻ hơn, có nghĩa lí hơn, kiếm hạnh phúc ngay trên cõi trần chứ không phải ở trên thiên đàng hay ở cảnh giới Niết bàn. |
Khổng tử sáng lập tư học dạy mọi hạng người về sự tu thân, tề gia; những người nào có tư cách, bất kì trong giới cấp quí tộc hay bình dân, ông dạy thêm cho lục nghệ để sau có thể lãnh những trách nhiệm lớn nhỏ trong việc trị nước. Hạng đó là dù làm quan hay không làm quan cũng gọi là kẻ sĩ; nếu có tài đức cao thì ông gọi là quân tử. Giai cấp sĩ đó chính là do ông tạo thành. Trong cuốn Nhà giáo họ Khổng, tôi đã giới thiệu cuộc cách mạng giáo dục và cách dạy học của ông; ở đây tôi chỉ xét sự đào tạo tư cách của kẻ sĩ và người quân tử. KẺ SĨ Tôi đã nói ông chủ trương phải học rồi mới trị dân được (lời ông mắng Tử Lộ trong bài XI.24), mà tri thức, tài nghệ không quan trọng bằng đạo đức (lời ông khuyên Tử hạ nên làm nho quân tử, trong bài VI.11, ông lại bảo: kẻ sĩ phải “để chí vào đạo” (IV.9), chỉ nhắm việc trau dồi đức hạnh, đừng quan tâm tới danh lợi, thì rồi tự nhiên danh lợi sẽ tới. Ngay từ thời ông, hạng người học đạo cũng đã rất hiếm, khiến ông phải phàn nàn: “người đời xưa học vì mình, người đời nay học vì người” (XIV.24), và “rất ít người học ba năm rồi mà không có ý cầu bổng lộc” (VIII.12). Học vì mình, nghĩa là học để tu thân, có ích lợi cho mình; học vì người là học để có danh, nhiều người biết tới mình, chẳng cần mình có thực tài, thực đức. Ông khuyên đi khuyên lại mấy lần: đừng cầu danh. Bài I.16: “Đừng lo người không biết mình, chỉ lo mình không |
biết người” (không biết người nào hiền để theo, người nào xấu để tránh). Bài IV.14 và XIV.30: “Đừng lo không ai biết mình, chỉ mong sao mình có tài đức để cho người ta biết đến”. Không nên cầu danh, mà cũng không được cầu lợi, cầu lộc: “Đừng lo không có chức vị, chỉ lo không đủ tài đức để nhận chức vị” (IV.14). Lo có chức vị, cũng tức là lo có lộc. Bài XV.31: “Người quân tử mưu cầu đạt đạo, chứ không mưu cầu chuyện ăn (…). Người quân tử lo không đạt đạo, chứ không lo nghèo”. “Kẻ sĩ nào để chí vào đạo mà còn thẹn vì cái ăn cái mặc thì chưa thể đem đạo ra bàn với được” (IV.9). Mà kẻ sĩ nào nghĩ đến việc ở cho được an dật thì cũng vậy (XIV.2). Khổng tử có vẻ mến, trọng các ẩn sĩ như Bá Di, Thúc Tề vì họ trong sạch, còn đối với bọn “can lộc” làm quan chỉ cốt kiếm bổng lộc thì ông rất khinh. “Vững tin đạo mà ham học, giữ đạo tới chết (…) Thiên hạ chính trị tốt thì ra làm quan, chính trị hắc ám thì ở ẩn. Nước nhà có chính trị tốt mà mình nghèo hèn thì đáng xấu hổ; nước nhà chính trị hắc ám mà mình phú quí thì đáng xấu hổ” (…bang vô đạo, phú thả quí yên, sỉ dã – VIII.13). Ông khen Nhan Hồi là hiền, chính vì Nhan Hồi hiếu học mà vui trong cảnh nghèo, chỉ có một giỏ cơm, một bầu nước và ở trong một ngõ hẻm (VI.9)[250]. Kẻ sĩ đã ra làm quan, Khổng tử phân biệt 4 hạng: Hạng trên cả, biết hổ thẹn về hành vi xấu của mình; đi sứ |
bốn phương thì không làm nhục mệnh của vua. Hạng thấp hơn: họ hàng khen là người hiếu, làng xóm khen là người đễ. Thấp hơn nữa: lời nói nhất định phải tín thực, hành vi nhất định phải quả quyết (không xét là có nên không), như vậy là cố chấp, hẹp hòi, nhưng còn tạm được. Còn hạng làm quan ở thời ông, khí độ nhỏ nhen như cái đấu, cái sao (một phần năm hay một nửa cái đấu) thì không đáng nói tới. (XIII.20). Bài XII.20. Khổng tử còn bảo hạng làm quan mà nổi tiếng trong nước, có thể là người giả dối, làm bộ nhân đức. Phải là người chất phác, chính trực mà thích điều nghĩa, biết xét lời nói, quan sát nét mặt người khác (mà hiểu tâm lý họ), biết suy nghĩ, khiêm nhượng ở dưới người, làm quan như vậy mới là “đạt”, là thành công. (Chữ đạt này cũng như chữ đạt trong kỉ dục đạt nhi đạt nhân – bài VI.28; đạt là thành công, thực hiện được đạo, chí minh). QUÂN TỬ Giai cấp sĩ là một đào tạo của Khổng tử mà danh từ quân tử có từ trước cũng đã được ông cho một nội dung mới. Trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc – quyển hạ – Phần V, chương V, chúng tôi đã viết: “Tiếng quân tử đã xuất hiện trong Kinh Thi trên trăm rưỡi lần. Vậy ở đời Chu nó đã lưu hành. Nhưng thời đó nó trỏ cái địa vị trong xã hội, chứ không trỏ cái phẩm tính con người. Người có chức phận cao, (tối đại đa số ở trong giai cấp quí tộc)[251]. Cai trị dân, có đức hay không, đều gọi là quân tử. Tiểu nhân tức là hạng thường dân, hạng bị trị. |
Cứ xét trong Luận ngữ thì Khổng tử dùng tiếng quân tử theo ba nghĩa: thuần trỏ địa vị, thuần trỏ tư cách, vừa trỏ địa vị vừa trỏ tư cách. Chẳng hạn trong câu: “Quân tử hữu dũng mà vô nghĩa thì làm loạn, tiểu nhân hữu dũng mà vô nghĩa thì làm trộm cướp” (XVII.23). Tiếng quân tử thuần trỏ địa vị, tức hạng khanh tướng, đại phu, còn tiểu nhân trỏ bọn dân thường. Trong hai câu: “Người quân tử hận rằng tới chết mà không ai biết tới mình” (không làm được gì cho người khác khen mình) (XV.19). “Người quân tử có khi khốn cùng là lẽ cố nhiên (hoặc người quân tử khi khốn cùng thì cố giữ tư cách của mình; kẻ tiểu nhân khốn cùng thì phóng túng làm càn” (XV.1). Quân tử thuần trỏ tư cách, không có ý nghĩa gì về địa vị cả. Vừa trỏ địa vị vừa trỏ tư cách thì như tiếng quân tử trong những bài này: “Khổng tử bảo Tử Sản có bốn điều hợp với đạo người quân tử: giữ mình thì khiêm cung, thờ vua thì kính cẩn, nuôi dân thì có ân huệ, sai dân thì hợp nghĩa” (V.15). Tử Lộ lại hỏi: Chỉ có vậy thôi ư? Khổng tử đáp: Sửa mình để cho trăm họ được yên trị. Sửa mình mà trăm họ được yên trị, dẫu Nghiêu, Thuấn e cũng khó làm được thay! (XIV.43). Các học giả cho rằng nghĩa thứ nhì do Khổng tử đặt ra, còn nghĩa thứ ba gồm hai nghĩa trên. Sở dĩ ông đặt ra nghĩa thứ nhì (thuần trỏ tư cách) là muốn cứu vãn chế độ phong kiến. Thời đó, bọn quí tộc thế tập đã suy. Không trị được nước, họ dâm loạn, bất nhân, nên bị dân bỏ. |
Ông khuyên họ sửa mình để xứng với địa vị, dân tin cậy trở lại, có vậy quyền hành mới được vững, chế độ phong kiến mới không sụp đổ: quan niệm quân tử đó hợp vói thuyết chính danh của ông. Chủ trương của ông có lợi cho hạng quí tộc nếu họ biết sửa mình; mà cũng có lợi cho hạng bình dân, vì hạng này mà có tài đức thì tự thấy mình cũng đáng được thay hạng quí tộc để giữ trọng trách rồi đòi hỏi quyền hành. Và chính Khổng tử cũng tận tâm đào tạo hạng quân tử đó, đề cử với hạng cầm quyền để bổ dụng họ. Lần lần, tới đời Mạnh tử, Tuân tử, nghĩa thứ nhất mất đi, các triết gia khi nói tới quân tử, dân chúng nghe tiếng quân tử chỉ hiểu theo nghĩa thứ hai hoặc thứ ba. Thành thử tư tưởng Khổng tử mới đầu thủ cựu, mà lại có công khuyến khích sự cải cách – (tr.572 75). Ông đã vạch ra những tiêu chuẩn về tài đức, tư cách để thành người quân tử, đáng được nắm quyền trị dân. Hạng người đó không cần có huyết thống quí tộc, mà chỉ lo tu đức để được địa vị, chứ không được dùng võ lực. Một môn sinh của ông, Nam Cung Quát, trong hàng quí tộc, một hôm đưa ra nhận xét này: “Nghệ bắn giỏi, Ngạo dùng thuyền xung sát (thủy chiến) rồi đều bất đắc kì tử. Còn ông Vũ, ông Tắc, đều cấy lúa lấy mà sau có thiên hạ”. Khổng tử không đáp. Nhưng khi Nam Cung Quát ra rồi, ông khen: “Người ấy thật quân tử, người ấy thật biết trọng đạo đức” (XIV.5). Nam Cung Quát muốn nói: dùng võ lực để chiếm địa vị thì dù |
mạnh như Nghệ (vua nước Hữu Cùng, bắn giỏi, diệt vua Hạ Hậu Tướng mà cướp ngôi) hoặc như Ngạo (giỏi thủy chiến) về sau cũng bị giết (Nghệ bị bề tôi là Hàn Trác giết để cướp ngôi, Ngạo bị vua Thiếu Khang nhà Hạ giết). Trái lại, ông Hạ Vũ có công trị thủy mà được vua Thuấn nhường ngôi cho; Tắc tự gieo lý, dạy dân cày cấy mà là thủy tổ của nhà Chu, cũng gọi là có thiên hạ được. Nam Cung Quát có ý chê các vua đương thời không trọng đức, chỉ dùng võ lực, nên Khổng tử khen là quân tử. Trong Luận ngữ chỉ có hai ba người nữa được khen là quân tử: Tử Tiện (trong bài V.5) mà chúng ta không được biết đời sống ra sao; Cừ Bá Ngọc (XV.6) vì khi nước có đạo thì ra làm quan, nước vô đạo thì lui về ở ẩn; và Tử Sản (V.14) đã dẫn ở trên vì khiêm cung, kính cẩn, biết nuôi dân, thương dân. Tôi chưa thấy chính trị gia nào chú trọng đến sự đào tạo người trị dân như Khổng tử. Trong Luận ngữ có đến năm chục chỗ nói về người quân tử, dẫn hết thì rườm quá, dưới đây tôi chỉ xin lựa một số thôi. Tư cách và thái độ người quân tử. Chỉ cầu ở mình, không cầu ở người (XV.20). Giữ vững chính nghĩa, không cố chấp điều tín nhỏ nhặt (XV.36). Giữ vững tư cách khi gặp hoạn nạn (XV.1). Lo không đạt được đạo chứ không lo nghèo. (XV.31). Ăn gạo xấu, uống nước lã mà thấy vui; chứ không chịu làm điều bất nghĩa để được giàu sang (VII.5). Thư thái mà không kiêu căng (XIII.26). |
Không lo, không sợ, vì xét mình không có điều gì đáng xấu hổ (XII.4) nghĩ vậy mà lúc nào cũng thản nhiên vui vẻ Nếu có hận thì chỉ hận điều này: chết mà không làm được gì để người khác biết tới mình, khen mình (XV.19). Thân với mọi người mà không kết đảng (II.14); hòa hợp với mọi người mà không a dua (XIII.23). Nghiêm trang giữ lập trường mà không tranh với ai (XV.21). Có lỗi thì không ngại sửa (I.8). Đức của người quân tử: Có đức nhân: giúp người làm việc thiện (thành nhân chi mĩ – XII.16). Trọng nghĩa: cứ hợp nghĩa thì làm, không nhất định phải như vầy mới được, không nhất định phải như kia là không được (IV.10). Lấy nghĩa làm gốc, theo lễ mà là, nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà nên việc (XV.17). Sửa mình thành nguời kính cẩn (XIV.43). Chất phác mà văn nhã, hai phần đều nhau, nếu chất phác quá thì quê mùa, văn nhã quá thì không thành thực, trọng hình thức quá (VI.16). Hướng lên cao mà mong đạt tới (XIV.23). Tài năng, kiến thức Hiểu rộng, biết nhiều, làm được nhiều việc, chứ không phải như một đồ vật chỉ dùng được vào một việc (bất khí) (II.12). Có thể không biết những việc nhỏ nhặt, nhưng có thể đương được việc lớn (XV.33). Biết mệnh trời (XX.3). Bài XV.32 tóm được tài đức của người quân tử cần cho việc trị dân: “Tài trí đủ để trị dân: “Tài trí đủ để trị dân mà không biết dùng đức nhân để giữ dân thì tất sẽ mất dân. Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân đức giữ dân mà đối đãi |
với dân không trang nghiêm, thì dân không kính. Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân đức giữ dân, lại biết trang nghiêm đối đãi với dân mà không biết dùng lễ cổ vũ dân thì chưa hoàn toàn tốt”. Hành vi, ngôn ngữ: Thận trọng về lời nói, mau mắn về việc làm (IV.24). Làm trước điều mình muốn nói rồi hãy nói sau. (II.13). Thẹn rằng nói nhiều mà làm ít (XIV.27). Xét người thì “không vì lời nói của một người mà để cử người đó (vì còn xét đức hạnh ra sao nữa), không vì phẩm hạnh xấu của người mà không nghe lời nói phải của người ta. (XV.22) Sai khiến người thì không trách bị cầu toàn (XIII.25). Phải xét nét chính điều này: “Khi trông thì để ý thấy cho minh bạch; khi nghe thì lắng tai nghe cho rõ; sắc mặt thì giữ cho ôn hòa; diện mạo giữ cho đoan trang; nói thì giữ cho trung thực; làm thì giữ cho kính cẩn; có điều nghi hoặc thì hỏi han; khi giận thì nghĩ đến hậu quả tai hại sẽ xả ra; thấy mối lợi thì nhớ đến điều nghĩa”. (XVI.10). Thờ vua và đối với dân thì nên như Tử Sản: (V.15 đã dẫn ở trên). Chúng ta nên nhận điều này: Khổng tử khuyên thờ vua phải trung, nhưng trung một cách sáng suốt, không phải tuyệt đối phục tòng, can vua không được thì có thể bỏ mà đi, không khư khư giữ cái danh tiết “bất sự nhị quân” (không thờ hai vua) mà bọn hủ nho nào đời sau đặt ra và gán oan cho Khổng học. Khổng tử đòi hỏi ở kẻ trị dân nhiều quá: người quân tử thành |
con người hoàn toàn rồi; môn sinh của ông không chắc có ai theo được, mà chính ông cũng tự nhận chưa được là người quân tử, vậy thì khi học tập ta chỉ cần đừng quên việc sửa mình, lấy đạo nhân làm gốc rồi được tới đâu thì được. Và trong khi dạy học ông dắt dẫn mỗi người từng bước, tùy người mà giảng cao hay thấp, sửa tật này, tật khác (coi Nhà giáo họ Khổng). Nhưng ông bắt tiến hoài, không cho nghỉ. Chúng ta nghe Nhan Hồi kể công dạy dỗ của ông: “Đạo thầy ta càng ngẩng lên trông càng thấy cao, càng đục càng thấy cứng, mới thấy ở trước mặt, bỗng hiện ở sau lưng. Thầy tuần tự mà khéo dẫn dụ người (…) dù ta mốn thôi cũng không được. Ta tận dụng năng lực mà cơ hồ vẫn thấy cái gì cao lớn sừng sững ở phía trước, ta muốn theo lên tới cùng mà không sao theo cho nổi”. (IX.10). Công Khổng tử tạo cho đời ông một số kẻ sĩ để thay bọn quí tộc suy đồi mà trị dân, không bằng công ông tạo giai cấp sĩ phu cho các đời sau. Trong hơn hai ngàn năm, hết thảy các nhà nho chân chính ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam, hữu danh cũng như vô danh, từ Đổng Trọng Thư, Đào Tiềm, Vương Dương Minh, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến đến các ẩn sĩ, các thầy đồ, đều giữ được truyền thống Khổng Mạnh, tự gây một uy tín rất lớn trong dân gian, gặp thời thì ra giúp nước, tận trung mà liêm khiết, không gặp thời thì lui về, độc thiện kì thân; nước gặp nguy thì không do dự, xả thân vì nghĩa, qua cơn nguy rồi thì mặc ai tranh giành danh lợi; họ không có một chút đặc quyền, |
cao thượng mà vẫn bình dân, chỉ giúp đồng bào chứ không màng phú quí; họ không có tổ chức mà giai cấp họ lại chặt chẽ, trường tồn, vì không tranh với ai, một giai cấp kì dị không giống một giai cấp nào, trong lịch sử nhân loại: Văn minh nhân loại ngày nay không sao tạo nổi giai cấp đó nữa: các giáo sư đại học không sao có được uy tín với dân như các cụ đồ của ta hồi xưa, đó là một điều đáng tiếc. Ở nước ta hiện nay, giai cấp đó không còn; hậu duệ của họ thì còn được kha khá nhưng số người giữ được nếp nhà hiếm đấy; và tôi nghiệm thấy người nào giữ được, cũng có vài nét chung rất dễ nhận: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và hình như có khiếu dạy học nữa. Công đào tạo giai cấp sĩ phu đó thật bất hủ. Khổng tử chú ý làm chính trị để cứu đời mà thất bại, rốt cuộc thành một luân lí gia, một vị “vạn thế sư biểu”, điều đó ông làm sao ngờ được nhỉ? Về vũ trụ luận, Khổng tử không cống hiến được gì cho triết học Trung Quốc cả. Công đó ông nhường cho Lão tử đời sau. Ông có óc rất thực tiễn, không ưa những vấn đề siêu hình, chỉ lo về nhân sinh – chính trị, luân lí – nên quan niệm về trời và quỉ thần chiếm một địa vị rất khiêm tốn trong học thuyết của ông. Trước hết tôi hãy xét về trời. TRỜI Có thể bảo toàn thể dân Trung Hoa thời thượng cổ đều tin có |
trời. Vì vậy mà không có vấn đề “linh thiêng” nghĩa là đưa chứng cứ ra để bảo rằng có trời. Ngay bọn “danh gia” ngụy biện cuối đời Chiến Quốc cãi nhau về những vấn đề rất phù phiếm như “tách rời cứng và trắng”, “trứng có lông”, “gà ba chân”… mà cũng không hề bàn có trời hay không có trời. Hầu hết các triết gia Trung Hoa đều chủ trương rằng “ thiên nhân hợp nhất” – cũng gọi là “thiên nhân tương dữ” – nghĩa là người bẩm thụ được cái “tính” của trời thì đạo của trời tức là đạo của người. Quan niệm đó được phổ thông từ đời Thượng cổ. Trong Kinh Thi có câu: “Trời sinh ra dân có hình phép, dân giữ tính thường, muốn có đức tốt” (Thiên sinh chung dân, hữu vật hữu tắc, dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức). Dân chúng còn tin rằng trời là một ông nguyên hậu, nên gọi là Đế hay Thượng Đế. Thượng Đế cai quản bách thần, vạn vật trong vũ trụ luôn luôn thương dân. Kinh Thi nói: “Hoàng hĩ Thượng Đế, lâm hạ hữu hách, giám quan tứ phương, cầu dân chi mạc: Đức Thượng Đế rất lớn, soi xuống dưới đất rõ ràng, xem xét bốn phương để tìm sự khốn khổ của dân mà cứu giúp”. Hơn nữa, người Trung Hoa còn tin rằng trời và người có thể tương cảm, tương ứng được; nên có điều gì hồ nghi, họ thường bói bằng mai rùa hoặc cỏ chi để xin cho biết việc cát hung. Các vua chúa thời xưa đều dùng quan Thái bốc để coi việc bói toàn là vì vậy. Nhưng tới đời Xuân Thu, đã có người ngờ trời và quỉ thần: |
Tả truyện (Trang công – năm 32) chép: “Sử Ngân bảo: “Nước Quắc sẽ mất thôi! Tôi nghe nói nước sắp thịnh lên thì nghe theo dân, nước sắp mất thì nghe theo thần”. Tử Sản đồng thời với Khổng tử cũng nói “Đạo trời xa, đạo người gần”, nước Trịnh bị lụt lớn là do mưa nhiều, không phải tại rồng tranh đấu với nhau mà phải cúng, tế, vô ích. Khổng tử không hề nói đến việc bói, mà còn chê Tang Văn Trọng không phải là “trí” vì cất một ngôi nhà đẹp đẽ để nuôi một con rùa dùng vào việc bói bài (V.17), không hề làm lễ cầu đảo, cũng như hai nhà kể trên. Trong Luận ngữ, khi nói đến trời, ông chỉ dùng chữ thiên, chứ không dùng chứ Đế hay Thượng Đế; nhưng chắc ông nhận rằng trời là chủ tể cả vũ trụ. Các học giả đều nhất trí về điểm đó, chỉ khác nhau ở điểm: Khổng có cho rằng trời có ý chí như người không, (nghĩa là có tình cảm, có tư dục, có hình dáng không); hay chỉ là một cái lý vô hình linh diệu thôi. Phùng Hữu Lan (trong sách đã dẫn, tr. 82 83) bảo Khổng tử cho rằng có ý chí. Trần Trọng Kim trong Nho giáo (quyển thượng tr. 86) bảo không. Phùng dẫn chứng những lời này của Khổng tử: Bài III.13, Khổng bảo Vương Tôn Giả: “Mắc tội với trời thì cầu đảo cũng vô ích”. Bài VI.26, Tử Lộ không bằng lòng về việc Khổng tử vào chào Nam tử, Khổng tử thề độc: “Ta có làm điều trì trái thì trời bỏ ta!” Bài XI.8, khi Nhan Uyên chết, Khổng tử than: “Ôi, trời hại ta, trời hại ta!” |
Bài IX.11, Khổng tử đau nặng, Tử Lộ tưởng không qua khỏi, bàn với các bạn chôn thầy theo lễ đại phu. Khi bệnh giảm, hay chuyện đó, Khổng tử mắng: “Ta không có gia thần mà làm ra có gia thần, như vậy là dối ai? Dối trời chăng?” Bài XIV.35, Khổng tử bảo Tử Cống: “Ta không oán trời, không trách người, (…) Hiểu ta có lẽ chỉ có Trời chăng?” Nhưng tôi nghĩ những ai theo chủ trương của Trần Trọng Kim có thể bác Phùng Hữu Lan được, chẳng hạn: Ngày nào, chung quanh chúng ta, cũng thường có những người than: “Tôi có làm điều ác nào đâu mà trời bắt tôi khổ thế này!”, “Trời hại tôi”. “Trời già bất công”, “Xin trời phụ hộ cho tai qua nạn khỏi?”…; mà những người đó đâu có tin thực rằng trời có ý chí, tình cảm như chung ta. Trời trong những lời đó chỉ có nghĩa là số phận. Còn câu: “Hiểu ta có lẽ chỉ có trời chăng?” của Khổng cũng rất có thể có nghĩa là: “Ta làm gì cũng hợp với lẽ trời” thôi, chứ không nhất định Khổng tin rằng trời thấy được hành vi, thấu được tâm trạng của ông. Phe theo Trần Trọng Kim dẫn câu này của Khổng tử trong bài XVII.19: “Trời có nói gì đâu?” để chứng rằng trời của Khổng đó là trời tự nhiên, (cũng như luật thiên nhiên), chứ không phải là trời có ý chí, có ngôn ngữ, tình cảm. Phe Phùng sẽ đáp: câu đó có nghĩa là “Trời nói được, nhưng không nói”, vì trời nói được mà không nói, nên Khổng tử mới bảo vậy. Cái bàn, cục đá chẳng hạn không nói được, thì có khi nào ta bảo: “Cái bàn, cục đá có nói gì đâu?” không? |
Tóm lại, chúng ta thấy cùng một câu của Khổng tử, hiểu theo cách nào cũng được. Tôi sinh sau ông hai ngàn rưỡi năm, chỉ căn cứ vào Luận ngữ để tìm hiểu ông mà những câu nói về trời trong sách đó mập mờ như vậy thì làm sao tôi dám khẳng định rằng ông cho trời có nhân cách không. Tôi chỉ đoán rằng ông tin trời, kính trời hơn tôi nhiều lắm, chứ ông không đặt vấn đề trời có nhân cách hay không, có lẽ ông tránh vấn đề đó cũng như tránh xét về quỉ thần, và đôi khi ông kêu trời, thề trời thì có thể cũng vì quen miệng như vô số người chung quanh tôi vậy thôi. THIÊN MỆNH Trong Luận ngữ tôi thấy có 6 chỗ (có thể tôi bỏ sót 1 2 chỗ) nói về thiên mệnh, xin ghi cả lại đây: Bài II.4 Khổng tử nói: “Ta mười lăm tuổi để chí vào việc học (đạo); ba mươi tuổi biết tự lập (tự mình theo chính đạo); bốn mươi tuổi không nghi hoặc (biết sự việc nào phải hay trái, tốt hay xấu); năm mươi tuổi biết mệnh trời (ngũ thập tri thiên mệnh); sáu mươi tuổi đã biết theo mệnh trời[252]; bảy mươi tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lí”. Theo tôi hiểu thì “thiên mệnh” ở đây trỏ sự biến hóa, diễn biến trong vũ trụ khiến cho mọi vật sinh trưởng được một cách điều hòa; chúng ta không nên trái nó, phải sợ nó, hành động hợp với nó. Vì vậy mà trong bài XVI.8, Khổng tử bảo người quân tử có ba điều sợ, mà điều trước tiên là sợ mệnh trời: (úy thiên mệnh); còn kẻ tiểu nhân không biết có mệnh trời cho nên không sợ |
(tiểu nhân bất tri thiên mệnh nhi bất úy dã). Bài XX.3, ông nói thêm: “Không biết mệnh trời thì không phải là người quân tử (Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử). Bài XIV.36, Khổng tử bảo Tử Phục Cảnh Bá: “Đạo của tôi mà thi hành được là do mệnh trời, hay bị bỏ phế cũng do mệnh trời. Công Bá Liêu (một đại phu của Lỗ) làm sao đổi được mệnh trời!” (Đạo chi tương hành dã dư, mệnh dã; đạo chi tương phế dã dư, mệnh dã. Công Bá Liêu kì như mệnh hà!) Chữ mệnh ở đây trỏ những nguyên do nào đó ta không rõ, ảnh hưởng một cách bất ngờ tới những hoạt động của ta, khiến cho có kẻ tận lực mà không thành công, lại có kẻ không làm mà thành việc. Khổng tử bôn ba mười mấy năm để cứu loạn cho đời, ông không biết sẽ thành công không, nhưng cứ theo đạo mà làm, mặc dầu bị người chê, có kẻ cản trở nữa. Bài VI.8, ông lại thăm Bá Ngưu, một học trò có đức hạnh của ông bị một ác tật (có người giảng là bệnh cùi), nắm tay Bá Ngưu, than thở: “Vô lí! Do mệnh trời chăng! Con người như vậy mà bị bệnh đó! Con người như vậy mà bị bệnh đó!”. Mệnh ở đây có nghĩa là định mệnh, số mệnh, trỏ một sự tiền định, sức người không thể đổi được, như có người sinh ra vốn thông minh, có kẻ vốn ngu độn, người thì thọ kẻ thì yểu, người có đức như Bá Ngưu đáng được sung sướng, thọ thì lại bị ác tật mà chết yểu. Nghĩa đó cũng như nghĩa chữ mệnh trong câu: “Tử sinh hữu |
mệnh, phú quí tại thiên”, Tử Hạ dẫn trong bài XII.5. Câu đó có người cho là lời của Khổng tử, nhưng không có chứng cứ; có thể chỉ là một thành ngữ đương thời. Như vậy chữ “thiên mệnh” trong Luận ngữ có hết thảy ba nghĩa: Nghĩa thứ nhất – số 1, 2 và 3 – trỏ một thái độ thuần triết của những người tin rằng trong vũ trụ có một luật biến hóa nào đó có thể tìm hiểu được và nên ráng tìm hiểu, để xử sự theo nó, đứng trái nó. Nghĩa thứ nhì – số 4 – và nghĩa thứ ba – số 5, 6 – đều cho rằng trong đời có những điều không thể hiểu được, có khi vô lí nữa; chỉ khác là nghĩa thứ nhì trỏ một thái độ tích cực, cứ làm hết sức mình rồi kết quả ra sao cũng mặc; Còn nghĩa thứ ba trỏ một thái độ tiêu cực, hoàn toàn để cho hoàn cảnh chi phối, chẳng cần làm gì cả. Cả trong 6 bài đó, ai theo Phùng Hữu Lan cho rằng trời có ý chí, thì cũng được, mà theo Trần Trọng Kim cho trời chỉ là một cái lí vô hình có khi ta hiểu nổi, có khi ta không hiểu nổi, thì cũng vẫn được. QUỈ THẦN Quan niệm của Khổng tử về quỉ thần còn khó hiểu hơn nữa. Học giả nào cũng cho rằng Khổng tin có trời, họ chỉ tranh luận với nhau về điểm: trời của Khổng có ý chí, có nhân cách, hay chỉ là cái lí vô hình, linh diệu. Về quỉ thần, trái lại, có học giả chủ trương rằng Khổng tử tin là có quỉ thần, có học giả lại bảo không. |
Phái nói “không” dẫn chứng: Bài III.12 Khổng bảo: “Tế thần như thần ở trước mặt” (tế thần như thần tại). Vì không có thần nên mới dùng chữ “như”. Bài VI.20 ông lại bảo: “Kính trọng quỉ thần nhưng tránh xa ra, như vậy có thể gọi là trí” (Kính quỉ thần nhi viễn chi, khả vị trí hĩ) “tránh xa ra” nghĩa là đừng có mê tín, đừng cầu xin quỉ thần điều gì cả. Phái bảo “có” bác lại: Bài III.12, Khổng tử muốn nói quỉ thần chỉ là cái “khí” thiêng, có đấy nhưng mắt ta không thấy, nên mới dùng chữ “như”, chứ ông không bảo rằng không có. Còn mấy chữ “Kính nhi viễn chi” (bài VI.20) thì có nghĩa là “Kính mà phải đứng xa xa cho hợp lễ” (H.G. Greel do Etiemble dẫn trong cuốn Confucius – Gallimand 1966 tr.116), cũng như một người dân phải đứng cách một ông vua khá xa, chứ không được lại gần. Cách hiểu đó thật mới mẻ, lối hành văn của thời Khổng tử không, tôi không biết. Chỉ có điều này tôi tin chắc: Khổng tử tránh nói đến quỉ thần. Bài III.20, môn sinh ông bảo ông không nói về (bốn cái này): quái dị, dũng lực, phản loạn, quỉ thần. (Tử bất ngữ quái, lực, loạn, thần). Và khi Quí Lộ (Tử Lộ) hỏi ông đạo thờ quỉ thần, ông đáp: “Chưa biết đạo thờ người, sao biết được đạo thờ quỉ thần” (Vị năng sự nhân, yên năng sự quỉ). Quí Lộ lại hỏi tiếp về sự chết, tức muốn biết người ta chết rồi, có thành quỉ hay thần không, còn linh hồn không, hay chết là hết, ông cũng đáp: “Sự sống còn chưa chết, sao biết được sự |
chết” (Vị tri sinh, yên tri tử). Tôi ngờ rằng ông chủ trương thuyết “bất khả tri” (agnoticisme), ông vẫn dạy môn sinh: “Biết thì nói là biết, không thì nói là không biết” (II.17); mà Tử Lộ hỏi ông, ông nói tránh ra như vậy, có thể vì chính ông cũng không biết chắc có quỉ thần hay không. Ông cho biết cái đó không quan trọng bằng biết cách sửa mình, cư xử với mọi người, giúp nhà, giúp nước[253]. Không tin chắc rằng có quỉ thần, mà sao ông lại rất kính cẩn trong việc tế lễ? Bài VIII.21, ông bảo không chê vua Hạ Vũ vào đâu được vì ăn uống đạm bạc mà rất “có hiếu” với quỉ thần (ý nói: cúng tế rất trọng hậu), ăn mặc xấu xí mà khi cúng tế, lễ phục rất đẹp. Chính ông trong bài III.12, ông bảo: Khi vì lẽ gì ông không đích thân đứng tế được, (mà mượn người thay) thì tuy có tế đấy, ông vẫn ân hận như chưa tế. Ta còn nhớ trong thiên Hương đảng (X), mỗi khi trong làng làm lễ tống ôn dịch, ông đều bận triều phục đứng bên thềm phía Đông mà dự lễ. Tôi nghĩ điều đó không có gì là khó hiểu. Bản tính ông vốn trọng lễ, ông lại thủ cựu, muốn duy trì thể chế, tế lễ, phong tục thời Chu công, và tin rằng giáo hóa có công dụng cao, “người trên mà ham lễ thì dân dễ sai khiến” (XIV.42), vậy thì ông rất kính cẩn trong việc tế lễ là lẽ dĩ nhiên. Huống hồ, tuy ông không tin chắc có quỉ thần, nhưng ông cũng không dám bảo không có quỉ thần, vậy thì thái độ ông kính quỉ thần không hẳn là mâu thuẫn[254]. Ông còn cầu cho dân chúng trọng tế lễ thần nữa, miễn đừng trọng hình thức (XIII.11), đừng xa xỉ (III.4). |
Riêng ông, ông không cầu đảo vì ở phải đạo thì chẳng cần cầu xin quỉ thần gì cả (VII.34). Tinh thần ấy mấy chục năm trước tôi còn thấy một số nhà Nho vào hàng cha chú của tôi giữ đúng. Mỗi khi có giỗ lớn hay nhỏ các cụ cũng đích thân quét bàn thờ, lau chùi từng cái khay cái chén, chăm sóc từng chút: hoa và trái cây phải tươi, hương phải thơm, những món để cúng phải thanh khiết, khấn vái thì các cụ rất kính cẩn, còn hơn khi ông bà, cha mẹ còn sống, mặc dầu các cụ không tin rằng người khuất có thể phù hộ cho người sống được (Không bao giờ con cháu đau nặng mà các cụ khấn vái tổ tiên cho tai qua nạn khỏi cả); giỗ không bao giờ làm lớn, không mời người ngoài, không xa xỉ, không khoe của; trong nhà không thờ một vị thần nào, nhưng các cụ bà có muốn cúng Phật ngày rằm, mùng một hay cúng ông táo ngày hai mươi ba tháng chạp thì các cụ không cấm, miễn là cúng riêng, chứ không phải trên bàn thờ tổ tiên; các cụ cũng rất ít lui tới đình, chùa, nhưng có khi nào phải dự lễ ở những nơi đó thì các cụ tỏ ra rất tôn kính, nghiêm trang đứng né ra một bên. Bây giờ tôi còn cho thái độ đó hợp tình hợp lí, thì tôi phải nhận rằng hai ngàn rưỡi năm trước, tinh thần của Khổng tử đáng gọi là sáng suốt. Nhưng tôi cũng tin rằng chỉ độ vài chục năm nữa, tinh thần đó sẽ mất hẳn, con cháu tôi sẽ không cúng giỗ nữa, và tôi cho như vậy là tự nhiên, thời đại thay đổi thì phong tục phải thay đổi. |
KẾT Trong lịch sử nhân loại tôi không thấy một triết thuyết chính trị nào được một số dân đông nhất thế giới coi là quốc giáo liên tiếp trên hai ngàn năm (từ Hán đến cuối Thanh) như Khổng giáo. Xã hội đó còn sống biệt lập ngày nào thì triết thuyết đó còn được trọng, mà khi phải tiếp xúc với một văn minh khác hẳn mạnh hơn (văn minh Tây phương), bị lấn áp, gần mất hết chủ quyền thì tất nhiên triết thuyết đó phải chịu tất cả những lời chê bai, mạt sát của chính những người trước kia thờ nó. Nhắc lại những lời kể tội Khổng giáo của các học giả và chính trị gia Trung Quốc từ cuối thế kỉ XIX tới nay là một việc vô ích: tốn giấy mực vì nhiều quá (cả trăm trang cũng chưa đủ) mà ai cũng biết cả rồi. Tôi cũng nhận như phần đông rằng Nho giáo – tôi muốn nói những triết gia phát huy triết thuyết của Khổng tử từ đời Hán trở đi – chịu một phần lớn trách nhiệm: chẳng hạn Hán nho đã chịu ảnh hưởng của Pháp gia, làm cho đạo trung quân quá hẹp hòi, tôn quân tới cái mức “trung thần bất sự nhị quân”, “quân sử thần tử, thần bất tử, bất trung”; còn Tống Nho chỉ bàn cãi nhau về “lí” và “khí” về “thái cực” và “thái hư”, bỏ cái nhiệm vụ thực tế: “túc thực, túc binh” đối với dân tộc, quốc gia, khiến Trung Hoa phải suy nhược. Nhưng còn Khổng tử thì sao? Để trả lời câu đó, tôi chỉ căn cứ vào bộ Luận ngữ mà học giả nào cũng nhận là đáng tin hơn cả, rồi trình bày những nhận định của tôi trong tập này. Những nhận định đó có thể thiên vị, vì đã là nhận định – xét đoán theo ý của mình – thì không ai tránh khỏi được sự thiên vị, dù ráng |
khách quan tới mấy, cố “ tuyệt tứ” (vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã – IX.4) thì cũng là nhận định của mình, có “ngã”, có “ ý” trong đó rồi. Đọc những chương về chính trị (V và VI), độc giả đã thấy ông thủ cựu (chính ông cũng nhận vậy: tín nhi hiếu cổ – VII.1); ông bênh vực, muốn duy trì chế độ phong kiến (ông đã nói thẳng ra như vậy: Ngô tòng chu – III.14), ông quá trọng lễ, tôn ti. Tôi đã trình bày những lí do khiến ông có chính sách đó, và tôi cũng đã nói rằng ở thời đại ông có thể chính sách đó hợp lí; nhưng dù sao chúng ta cũng phải nhận rằng, đem áp dụng, chính sách đó thất bại, nghĩa là chẳng nhà cầm quyền nào theo đúng ông cả. Ông cũng nhận rằng ông “thuật nhi bất tác” nghĩa là chi truyền đạo cổ nhân chứ không sáng tạo, không đưa ra thuyết gì mới. Lời đó cũng đúng nữa, và tôi cũng đã vạch ra rằng hầu hết những tư tưởng chính trị của ông, người trước ông cũng đã có rồi, như chủ trương vua phải xứng đáng là vua, phải có đức, yêu dân, làm gương cho dân… không phải là điều mới mẻ gì, vô số người đã nghĩ như vậy. Nhưng công của ông là lí luận để dựng chủ trương đó thành thuyết chính danh, thuyết đức trị, nhất là tạo ra được quan niệm “nhân” (nhân ái) trước ông chưa hề có, sửa đổi ý niệm “quân tử” để cho đạo đức thành ra có giá trị ngang với huyết thống, với quyền tước, khiến cho hạng bình dân có tài đức thành một giai cấp quí tộc – quí tộc về đạo đức (noblesse de vertu), rồi buộc bọn quí tộc thế tập cũng phải tu thân như mọi |
người dân thường, nếu muốn giữ địa vị của mình… công đó không ai tranh với ông được; có thể nói ông chẳng phải chỉ sáng tạo, mà còn làm một cuộc cách mạng lớn ở thời ông nữa. Ông lại có công lập tư học, đào tạo giai cấp sĩ, để thăng tiến giai cấp bình dân, giảm sự bất công trong xã hội, ảnh hưởng rất lớn đến đời sau. Vậy thì dù vẫn tôn trọng sự tôn ti ông cũng đã làm cho nó bớt bất công, hợp lí hơn. Một sự tôn ti như vậy thì xã hội nào thời nào cũng cần, cũng nhận là đẹp. Ấy là không kể tuy ông tòng Chu mà cũng sửa đổi thói xa xỉ, giả dối quá trọng “văn” của Chu, nhất là chê hình pháp quá nghiêm khắc của Chu muốn cho nó nhân đạo hơn. Hơn nữa, ông đặt lễ giáo lên trên chính hình. Nhiều tư tưởng của ông thành những đề tài cho người đời sau, quảng diễn hoặc tranh luận, hoặc phát huy thêm, như Tăng tử dùng thuyết tu thân của ông để viết tập Đại học; Tử Tư dùng câu “Trung dung chi đức dã, kì chí hĩ hồ ” (VI.27) diễn thành tập Trung dung; câu “Tính tương cận” của ông là khởi điểm cho thuyết tính thiện của Mạnh tử, tính ác của Tuân tử; thuyết chính danh của ông vốn có ý nghĩa chính trị mà phái Danh gia đời sau áp dụng vào tri thức luận, ngôn ngữ học; ngay như đạo “nhân” cũng sinh ra đạo “kiêm ái” của Mặc tử, nhưng đứa con này yểu mặc dầu được phái “Biệt Mặc” tiếp huyết cho bằng thuyết “luân liệt” (tuy yêu mọi người ngang nhau, nhưng có kẻ trước người sau), và từ đời Hán đã chẳng còn ai nhắc tới |
nó nữa. Muốn đánh giá công của một triết gia nào ta phải đặt họ vào thời đại của họ, xét xem họ đã làm được gì hơn người trước, gợi được ý gì cho người sau, chứ đừng xét học thuyết của họ, một hai ngàn năm sau, còn hợp thời hay không; theo nguyên tắc đó thì chúng ta phải nhận rằng công của Khổng tử rất lớn, nhất là về phương diện luân lí. Khắp thế giới ai cũng trọng ông là một luân lí gia có tinh thần nhân bản (humanisme) cao. Ông yêu con người, tin ở bản tính con người có thể cải hóa được; ông trọng sự nhân ái, sự công bằng, tặng nhân loại một hệ thống luân lí hợp tình người, để lặp lại trật tự xã hội, thay đổi thế giới. Nhưng đạo của ông có lẽ cao quá (như Tử Cống nói khi thầy trò ông tuyệt lương ở Trần, Thái) nên không ai dung nạp được ông, không ông vua nào nghe lời khuyên của ông, và ông đã hoàn toàn thất bại về chính trị. Ông còn thất bại ở chỗ ông không đạt được mục đích giáo dục. Ông muốn đào tạo những người vừa có tài vừa có đức để cho ra làm quan, nhưng trong số ba ngàn đệ tử, chỉ có vài ba người có đức thì hoặc chết sớm hoặc không chịu ra làm quan như Mẫn Tử Khiên (VI.7) mà ở ẩn hoặc về dạy học; vài ba người có tài, và có tư cách chứ chưa gọi là có đức được, chịu ra làm quan, mà ông chỉ coi như hạng bề tôi tạm dùng được thôi (cụ thần), như Trọng Do, Nhiễm Cầu (XI.23), và năm sáu người nữa tài kém hơn, tổng cộng không trên mươi người. Ba bốn chục năm đào tạo mà kết quả như |
vậy, thật đáng nản. Lỗi đâu ở ông, mà ở bản chất con người. Bất kì người nào chủ trương đức trị thì cũng phải thất bại như vậy: loài người chưa đủ văn minh để theo được bài học của ông. Bọn Pháp gia theo một chính sách ngược hẳn với ông, chú trọng vào hành chính, pháp luật, kinh tế, chỉ cầu quốc gia được phú cường, không giáo dục dân, bất chấp nguyện vọng của dân, và họ đã thành công trong một thời: thống nhất được Trung Quốc, hạ được giai cấp quí tộc mà lên thay. Ngày nay, về phần chính trị chúng ta còn giữ được của Khổng tử vài nguyên tắc này: nhà cầm quyền phải có ít nhiều đạo đức, phải thương dân, được dân tin; xã hội phải có trật tự, công bằng, đừng có sự bất quân quá, phải nghiêm cấm bọn bóc lột; phải chăm nom sự giáo dục dân ngang với sự nuôi dân, thành tâm tập cho dân dự vào việc nước; phải giữ chữ tín, đừng phỉnh gạt dân; còn thì phải bỏ hết những gì có tính cách phong kiến, và nên chú trọng đến sự phát triển kinh tế hơn thời ông nhiều mới được. Về luân lí, chúng ta phải nhớ lời khuyên tu thân của Khổng, và trong ba đức căn bản: nhân, trí, dũng, thời này trí đã được đề cao quá rồi, cần phải bồi đức nhân (tình cảm đôn hậu, khoan dung để bớt sự căm thù) và đức dũng để tự chủ được, giữ được liêm sỉ, thắng được vật dục, nhất là nhục dục, nó như làn sóng đương lên muốn ngập cả thế giới khiến con người sa đọa, chỉ chiều bản năng của mình thôi. |
Chế độ đại gia đình rất có lợi cho cá nhân và xã hội ở thời đại nông nghiệp; qua thời đại công nghiệp, nó là một cản trở cho nên tự nó phải nhường chỗ cho chế độ tiểu gia đình; nhưng gia đình vẫn là nền tảng của xã hội, sự giáo dục trẻ em vẫn phải trông vào gia đình nên địa vị của nó vẫn quan trọng và tôi tin rằng gia đình có tốt thì cá nhân mới tốt, xã hội mới tốt. Địa vị của phụ nữ tất nhiên phải quan trọng ngang địa vị của đàn ông; điểm đó Khổng tử không xét tới vì thời đại của ông khác thời đại chúng ta[255]. Trong việc giáo dục trẻ em, tôi nghĩ rằng qui tắc “ tiên học lễ” của Khổng tử cũng vẫn đúng. Phải tập cho trẻ tự chế có những thói quen tốt, biết kính nể người trên, tuân kỉ luật, lễ phép. Trong nửa thế kỉ nay, phương Tây cho trẻ em phóng túng quá, và một số nhà giáo dục như bác sĩ Benjamin Spock đã nhận thấy như vậy có hại cho trẻ. Trẻ chưa tự chủ được, phải có một kỉ luật để theo thì chúng mới yên tâm, vui vẻ. Miễn là kỉ luật đừng gắt quá mà phải hợp với những luật phát triển tinh thần của chúng. Nhiều người lầm tưởng rằng đạo Khổng vì trọng lễ mà bắt trẻ vào khuôn vào phép quá làm thui chột cá tính của chúng, chúng hóa nhút nhát, ngớ ngẩn. Có thể một số gia đình cổ dạy con như vậy, nhưng tôi chưa thấy. Tôi chỉ thấy một số trường học của thầy đồ hồi xưa cho trẻ em được tự do gần như trường |
học của Tolstoi. Dĩ nhiên chúng phải thưa dạ với thầy, phải khoanh tay cúi chào…, nhưng ngoài những lúc đó ra chúng được chạy nhảy, cười nói, không có gì gọi là câu thúc cả. Mà tôi chắc trường học của Khổng tử cũng vậy. Ông trọng sự thành thực, ghét sự giả dối, ông bảo: “Lẽ sống là phải ngay thẳng, chẳng ngay thẳng mà sống được thì là may mắn khỏi chết đấy thôi” (VI.17). Ông cho con được can cha: “Thờ cha mẹ nên nhỏ nhẹ khuyên can, nếu thấy cha mẹ không theo ý mình thì vẫn cung kính mà không xúc phạm cha mẹ” (IV.18) chứ có bao giờ bắt con phải tuyệt đối phục tùng cha mẹ đâu, dù cha mẹ trái. (Bề tôi đối với vua cũng vậy). Chính ông, cũng không phật ý khi Tử Lộ xẵng lời can ông đừng nhận lời của Phất Nhiễu, của Bật Hật: chẳng những vậy ông còn nghe lời can của Tử Lộ, và vẫn coi Tử Lộ là một học trò thân tín. Vậy là ông trọng tự do ngôn luận, trọng cá tính của người khác. Tuyệt nhiên ông không độc tài, cho nên môn sinh mới khen ông là “ôn hòa mà nghiêm trang, oai vệ mà không dữ dằn, cung kính mà thư thái” (VII.37), và yêu quí ông như cha. Will Durant, tác giả bộ Lịch sử văn minh, đã nhận định đạo Khổng rất đúng: “Chỉ trong đạo Ki tô và đạo Phật, chúng ta mới thấy có sự hùng tâm gắng nhân hóa cái bản chất con người như đạo Khổng. Ngày nay cũng như ngày xưa, dân tộc nào cũng bị cái nạn giáo dục thiên về trí dục quá mà đạo lí suy đồi, tư cách cá nhân cũng như tập thể thấy kém quá thì không có phương thuốc nào |
công hiệu hơn là cho thanh niên được thấm nhuần đạo Khổng. Nhưng chỉ một triết lí Khổng học thôi, chưa đủ. Nó rất thích hợp với một quốc gia cần thoát khỏi cảnh hỗn loạn nhu nhược để lập lại trật tự lấy lại sức mạnh, nhưng đối với một quốc gia cần cải tiến hoài để ganh đua trên trường quốc tế thì triết lí đó là một trở ngại”. Ưu điểm và nhược điểm của Khổng học ở đó. Riêng tôi, tôi thích nhất thái độ của Khổng tử đối với cuộc sống. Sau thế chiến vừa rồi, nhiều người bi quan cho cuộc sống là buồn mửa, là vô nghĩa lí. Xét cuộc sống vạn vật trong vũ trụ thì thấy nó vô nghĩa lí thật: sống cơ hồ chỉ để duy trì sự sống, duy trì trong kiếp này rồi truyền lại cho kiếp sau, cứ như vậy tới vô cùng, chứ không có mục đích gì khác. Nhưng chúng ta là người biết suy nghĩ, thì sao không cho cuộc sống của ta một ý nghĩa chẳng hạn như Khổng tử: tu thân để giúp nhà, giúp xã hội và duy trì, truyền cho đời sau một cuộc sống tốt đẹp hơn. Cuộc sống có mục đích như vậy rồi – hay một mục đích nào khác tùy mỗi người – thì ta cứ theo “nghĩa”, theo điều ta cho là phải mà làm, chẳng cần trông cậy ở một đấng vô hình nào cả, làm hết sức mình rồi kết quả ra sao thì ra, thành công được phần nào thì mừng mà chẳng được gì thì cứ để cho người đời sau tiếp tục. Thái độ đó, tôi cho là nghiêm trang, ung dung, vui vẻ, mà có phần cao cả nữa. |
Lâm Ngữ Đường, trong cuốn The Importance of Living kể rằng có hồi ông thấy những tín điều của đạo Ki tô mâu thuẫn, không thỏa mãn ông được, muốn bỏ đạo đó, nhưng sợ bỏ thì sẽ sa đọa vì “nếu không có Thượng đế thì còn ai làm điều thiện nữa mà thế giới sẽ điên đảo mất”. Ông tỏ nỗi lòng với một bạn đồng sự theo Khổng giáo. Ông bạn này đáp: “Tại sao lại như vậy? Chúng ta phải sống một đời sống hợp đạo chỉ vì chúng ta những con người hiểu đạo, thế thôi”. Nghe lời giảng đó về sự tôn nghiêm của đời sống con người, Lâm không còn thắc mắc nữa. Không cần phải tin ở Thượng đế, hay một đấng nào khác, xin các đấng ấy soi sáng, dắt dẫn mà vẫn làm trọn được đạo con người, như vậy chẳng là một thái độ cao cả ư? Có lẽ chỉ có dân tộc Trung Hoa mới nghĩ rằng người là một trong “ tam tài” (ba ngôi: thiên, địa, nhân), ngang với trời đất. Sử kí của Tư Mã Thiên chép – mà Luận ngữ thì không – những lời than thở của Khổng tử khi gần mất: “Núi Thái Sơn sắp sụp, Cây thượng lương sắp đổ, Bậc triết nhân sắp mất! Rồi ông rớt nước mắt, nói lời cuối cùng này với Tử Cống: Thiên hạ loạn từ lâu mà không một ông vua nào chịu theo lời khuyên của thầy. Thầy sắp đi đây”. Tôi không tin đoạn đó. Nó không hợp với tinh thần của Khổng tử: Quân tử… hành kì nghĩa dã, đạo chi bất hành, dĩ tri chi hĩ (XIII.7). Một hiền triết như ông, làm trọn nhiệm vụ rồi chết là nghỉ, có gì đâu mà buồn. |
NHÀ GIÁO HỌ KHỔNG Lời thưa trước 1. Khổng Tử là một nhà giáo trước hết 2. Cách mạng giáo dục Bình dân hoá giáo dục Chính trị hoá giáo dục 3. Tính tình và tư cách Khổng Tử 4. Cách Khổng Tử dạy học 5. Tình thầy trò 6. Vạn thế sư biểu Các bài trong Luận Ngữ nói về việc học Học Nhi 1, 6, 14 Vi Chính 11, 15, 18 Bát Dật 15 Công Dã Tràng 13, 14, 27 Ung Dã 2, 10, 18, 25 Thuật Nhi 3, 8, 16, 21 Thái Bá 12, 17 Tử Hãn 4, 18, 30 Tiên Tiến 24 Tử Lộ 5 Hiếu Vấn 24 Vệ Linh Công 15, 30, 31 Quí Thị 9, 10, 13 Dương Hoá 8 A. Lời Tăng Tử (tức Tăng Sâm) Học Nhi 4 B. Lời Tử Hạ (tức Bốc Thương) Học Nhi 7 Tử Trương 5, 6, 7, 12, 13 C. Lời Tử Cống Tử Trương 22 Trong cuốn Đời viết văn của tôi, cụ Nguyễn Hiến Lê nói về cuốn Nhà giáo họ Khổng như sau: “Tập này mỏng, không đầy 100 trang, tôi viết trong nửa tháng, một cách dễ dàng và say mê. Tôi dùng toàn những bài trong Luận ngữ để vẽ chân dung nhà giáo (chứ không phải triết gia) họ Khổng: tính tình và tư cách ông ra sao, cách ông dạy học, tình thầy trò của ông, công ông về giáo dục. Một bạn văn, ông Nguyễn Văn Hầu, tác giả các cuốn Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu, Thoại Ngọc Hầu khen chương V: Tình thầy trò, “rất cảm động, gây lại được cái không khí của trường học Nho ngày xưa”. Viết xong tập đó tôi hiểu Khổng Tử hơn, quí ông hơn; ông vừa nghiêm, vừa khoan, đa cảm mà thương người, thành thực mà tự nhiên, bình dân, lại có |
nghệ sĩ tính, có tinh thần hài hước. Không có một ông thánh nào khác gần với chúng ta như ông. Cuốn đó được hoan nghênh, sau tôi nảy ra viết một cuốn nữa về triết gia họ (…) Năm 1972, tôi đã soạn một cuốn mỏng nhan đề là Nhà giáo họ Khổng theo chủ trương trên, định bụng sẽ viết một cuốn nữa về triết gia họ Khổng. Năm 1978, viết xong cuốn Lão Tử, tôi thực hiện dự định đó. Và trước khi viết về Khổng Tử, tôi phải đọc lại, dịch lại bộ Luận ngữ đã…”. Vì bộ Luận ngữ được dịch lại cho nên chúng ta sẽ thấy trong cuốn Nhà giáo họ Khổng này có nhiều chỗ khác biệt với cuốn Luận ngữ và cuốn Khổng tử. Hầu hết những chỗ khác biệt đó tôi đều chú thích, trừ trường hợp lời dịch tuy khác nhưng ý nghĩa thì cũng như nhau. Ngoài ra, trong eBook này tôi còn chép khoảng nửa đầu tiết “Tính tương cận” trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc của hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, bài “Khổng tử bị khốn ở nước Trần, nước Thái” và bài “Tử Cống” trích trong bộ Sử ký của Tư Mã Thiên cũng của hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, tiết Khổng Tử trong cuốn Sử Trung Quốc của cụ Nguyễn Hiến Lê. Tháng 09 năm 2011 Bổ sung tháng 10 năm 2011 LỜI THƯA TRƯỚC Trong tập này tôi không xét triết lí cùng tư tưởng chính trị của Khổng tử, chỉ tìm hiểu nhà giáo mà đời sau tôn là “vạn thế sư biểu”: công của ông với nền giáo dục cổ Trung Hoa, các cách mạng của ông về giáo dục, mục đích ông giảng dạy, tình ông đối với môn đồ, ảnh hưởng của ông ra sao tới hậu thế. |
Hầu hết tài liệu tôi dùng đều lấy trong Luận ngữ và đều ghi xuất xứ: chương (có sách gọi là thiên) nào, bài (có sách gọi là tiết) mấy. Tôi bỏ lối chia thành mười quyển như các bản in cổ, vì thấy cách đó rườm rà. Chỗ nào không ghi xuất xứ là do tôi nhớ phỏng mà chép lại. Văn Luận ngữ rất cô đọng, một số bài được giải thích nhiều cách có khi trái ngược nhau[256]. Cách tôi hiểu đôi khi không hợp với cách chính thống của Chu Hi. Có bài tôi dịch trọn, có bài tôi diễn ý chứ không dịch, có bài tôi cắt bớt, có bài tôi chỉ tóm tắt. Tả cái không khí trong trường học họ Khổng, tôi căn cứ vào Luận ngữ, nhưng thỉnh thoảng tưởng tượng thêm một chút, độc giả tất nhận ra những chỗ đó. Cuối tập tôi thêm một phụ lục thu thập tất cả những bài rải rác trong Luận ngữ nói về việc học. Vì việc ấn loát lúc này khó khăn, nên tôi không chép chữ Hán, không phiên âm, trừ phần phụ lục. Biết tên chương, số bài, độc giả sẽ dễ tìm trong các bản chữ Hán lúc nào cũng có bán ở Chợ Lớn. Vì các bản đã hơi khác nhau về cách đánh số bài, cho nên, nếu theo số của tôi mà tìm không ra thì xin độc giả tìm thêm bài trên hay bài dưới[257]. Sài Gòn, ngày 1 6 1972 Chương 1 KHỔNG TỬ LÀ MỘT NHÀ GIÁO TRƯỚC HẾT Lão giáo mới đầu chỉ là một triết lí sau thành một tôn giáo mang tên là Đạo giáo, có tính cách mê tín dị đoan, luyện đan và tu tiên, từ đời Đường mỗi ngày mỗi suy. Mặc giáo, trái lại, hồi đầu có nhiều màu sắc tín ngưỡng (thờ Trời, thờ quỉ thần), có một tổ chức chặt chẽ gần như một tôn giáo, nhưng sau trở |
thành một triết lí thuần tuý, tức phái Biệt Mặc, rất chú trọng tới tri thức luận, mà Hồ Thích gọi là phái Khoa học. Chỉ duy có Khổng giáo trước sau vẫn hoàn toàn là một triết lí, không thời nào biến thành tôn giáo mà ảnh hưởng lớn hơn, bền hơn Lão giáo và Mặc giáo, ngang hàng với những tôn giáo lớn nhất thế giới như Phật giáo, Ki tô giáo, Hồi giáo… Điểm đó thật đặc biệt. Khổng tử không phải là một giáo chủ như Ki tô, Mohamet. Ông cũng tin có Trời như hai nhà đó, ông cũng sợ Trời nữa, nhưng cái mà ông gọi là “mệnh Trời” cơ hồ chỉ là những luật thiên nhiên. Và có điều này, chắc là theo ông, Trời không bao giờ “khải thị” gì cho loài người cả: “Trời có nói gì đâu? Bốn mùa thay đổi mà trăm vật sinh sinh hoá hoá. Trời có nói gì đâu? (Dương Hoá – 18). Đối với quỉ thần, ông có thái độ “kính nhi viễn chi” (Ung dã – 20). Mà ông cũng không tin ở sự cầu nguyện. Có lần ông đau nặng, một môn sinh là Tử Lộ xin ông làm lễ cầu đảo. Ông đáp: “Ta cầu đảo lâu rồi” (Thuật nhi – 34). Nghĩa là ông ăn ở phải đạo thì không cần cầu nguyện; mà kẻ nào có tội lỗi thì dù cầu nguyện, Trời cũng không nghe ( Hoạch tội ư thiên vô sở đảo dã – Bát dật – 18). Ngay từ hồi trẻ ông đã bỏ ra cả chục năm khảo cứu về các tế lễ đời trước; ông luôn luôn có thái độ rất thành kính trong các cuộc tế lễ – “tế thần thì tưởng như thần ở trước mặt mình” – |
nhưng ông theo đúng sách Lễ kí (thiên Khúc lễ hạ): “Thiên tử tế Trời đất, tế bốn phương, tế núi sông, tế ngũ tự – thần cửa, ngõ, giếng, bếp và ở giữa nhà; chư hầu tế phương mình ở, tế ngũ tự; quan đại phu tế ngũ tự; kẻ sĩ tế tổ tiên”. Vậy thì ta có thể tin rằng trừ mấy năm chấp chính, trong nhà ông chỉ có bàn thờ tổ tiên; mà sự thờ cúng tổ tiên chỉ có ý nghĩa nhớ công ơn ông bà cha mẹ, cũng như sự kỉ niệm danh nhân, không thể gọi là tôn giáo được. Sự thờ phụng ông các đời sau ở văn miếu (tỉnh), văn chỉ (phủ, huyện), từ chỉ (làng) cũng không phải là tôn giáo vì chỉ các vị khoa bảng mới được lại dự để tế lễ, kỉ niệm một danh nhân, nhớ công một ông tổ vậy thôi. Ngày nay ta gọi ông là một triết gia. Thời ông không có danh từ đó, quan niệm đó, chỉ có một quan niệm từa tựa quan niệm “triết nhân” của chúng ta thôi, tức quan niệm “hiền nhân” hoặc “nhân nhân”; nhưng chính ông không khi nào tự nhận là một “hiền nhân” cả. Ông không có thái độ “duy ngã độc tôn” của một giáo chủ, hoặc thái độ “chỉ ta mới nắm được chân lí” như một số triết gia. Tôi chưa thấy ai khiêm tốn như ông. Ông bảo: “Trong một xóm mười nhà, tất có người trung tín như Khâu, nhưng không có ai ham học như Khâu này đâu” (Công Dã Tràng – 27). Ông đã lưu lại một nhân sinh quan cao thượng dựng trên năm đức căn bản: nhân (gồm cả trung và thứ), nghĩa (gồm cả |
dũng), lễ, trí, tín; một chính trị quan lí tưởng, nhân bản: phải tu thân rồi mới trị quốc, người trên phải làm gương cho người dưới, lo cho dân đủ ăn, dạy dân và làm cho dân tin cậy mình. Vậy ông đáng là một triết gia lớn của nhân loại. Nhưng lại nhũn nhặn bảo: “Ta chỉ chép lại đạo lí, tài liệu đời trước thôi, chẳng lập ra thuyết gì mới cả” (Thuật nhi – 1). Thậm chí ông từ chối cái danh hiệu quân tử nữa. Ông bảo Tử Cống: “Đạo quân tử có ba điều mà ta không làm được một: có đức nhân mà không lo lắng; có đức trí mà không lầm lạc; có đức dũng mà không sợ sệt” (Hiến vấn – 30). Trước sau ông vẫn muốn làm chính trị để cứu đời, nhưng ông lại thất bại. Không kể hồi mười chín, hai mươi tuổi, làm một chức rất tầm thường là coi việc gạt thóc ở kho, nuôi bò dê để cúng tế, trong một cuộc đời bảy mươi hai năm, ông chỉ được cầm quyền ở Lỗ có sáu năm (502 496) hồi đã ngũ tuần, từ chức trung đô tể (như phủ doãn kinh thành) lên chức đại tư khấu (như thượng thư bộ binh), sau được quyền nhiếp chính (như tể tướng). Sau đó là một thời kì trôi dạt non mười lăm năm, qua Vệ, Trần, Thái, Sở… không được vua chư hầu nào dùng; sáu mươi tám tuổi trở về Lỗ, năm năm trước khi chết. Trong sáu năm cầm quyền ở Lỗ, dĩ nhiên ông không thể chuyên dạy học được, nhưng môn đệ vẫn theo ông, sống với ông và được ông chỉ bảo. Vậy ta có thể nói rằng ông dạy học hơn nửa thế kỉ, từ hồi hai mươi tuổi (hai môn đệ đầu tiên theo |
ông học lễ là Hà Kị và Nam Cung Quát, con một quan ở Lỗ: Trọng Tôn Cồ). Chính ông cũng tự nhân là một người “học không biết chán, dạy người không biết mỏi” [258], nghĩa là một nhà giáo tận tuỵ, vừa dạy học vừa học thêm; và sự nghiệp ông lưu lại đời sau phần lớn là do công dạy học đó, nên người sau mới tặng ông cái danh hiệu “vạn thế sư biểu”. Chương 2 CÁCH MẠNG GIÁO DỤC Khổng tử đã làm hai cuộc cách mạng về giáo dục: 1. Bình dân hoá giáo dục Trước ông, theo chương Học kí trong sách Lễ kí, thì trong mỗi xóm hai mươi lăm nhà có một trường học gọi là “thục”; trong mỗi thị trấn gồm năm trăm nhà, có một trường học cao hơn gọi là “tường”; trong mỗi châu gồm hai ngàn rưỡi nhà, có một trường cao hơn nữa gọi là “tự”, sau cùng tại kinh đô mỗi nước có một trường cao hơn cả gọi là “học”. Ta có thể đoán rằng tổ chức đó khó áp dụng được đúng, và những trường đó là trường công, nhà giáo là những quan do triều đình bổ nhiệm (có thể cha truyền con nối), mà học sinh đại đa số là con những gia đình quí tộc. Thời Khổng tử, có thể có một số nhà giáo dạy tư, nhưng trong sử, trước thế kỉ thứ sáu trước T.L, không thấy chép có một trường nào thu nhận thanh niên mọi giới, và Khổng tử là người đầu tiên dám mở một trường như vậy mà thành công. Ông tuyên bố: “Hữu giáo vô loại” (Vệ Linh công – 38). Câu này Chu Hi giải thích là “dù người thiện hay kẻ ác thì cũng dạy, chứ không phân biệt” vì lẽ tính người vốn thiện, kẻ kia hoá ác là do tập nhiễm (tính tương cận, tập tương viễn)[259], nay nếu mình dạy họ thì họ sẽ hoá ra thiện trở lại được. Nhưng các học |
giả ngày nay hiểu theo nghĩa khác: không phân biệt hạng người, gia thế, ai cũng dạy hết. Nghĩa là con quí tộc hay con bình dân, Khổng tử cũng coi ngang hàng. Phải nhớ lại xã hội phong kiến Trung Hoa hai ngàn rưỡi năm trước, mới nhận định được rõ cuộc cách mạng đó của ông; nó cũng có ý nghĩa như cuộc cách mạng của Thích Ca để san phẳng các tập cấp (caste) ở Ấn. Ông chuyên sống bằng nghề dây tư, nên không làm ruộng để mưu sinh như các ẩn sĩ đương thời, phải trông cậy vào sự chu cấp của môn sinh. Do đó có người chê ông là “chẳng động gì tới tay chân cả, không phân biệt nổi ngũ cốc” (Vi tử – 15), là hạng người ăn hại “không cày bừa, không dệt mà có ăn có mặc, khua môi múa mỏ, bày đặt ra chuyện phải trái làm mê hoặc các vua chúa trong thiên hạ” (Trang tử – thiên Đạo chích). Nhưng ông không phân biệt người giàu kẻ nghèo, kẻ nào xin học, muốn dâng ông lễ gì ông cũng nhận, dù chỉ là một bó mười chiếc nem (Thuật nhi – 7). Còn cái việc không phân biệt thiện ác thì là chuyện dĩ nhiên. Chương Thuật nhi – 28, có kể một thanh niên ở làng Hỗ Hương[260] lại xin học, ông nhận; môn đồ ông có vẻ nghi kị anh ta vì làng Hỗ Hương nổi tiếng là “khó dạy”. Ông bảo: “Người ta lấy tấm lòng trong sạch mà đến với mình thì mình vì tấm lòng đó mà thu nhận người ta; còn việc cũ của người ta ra sao, không nghĩ tới”. 2. Chính trị hoá giáo dục Trước ông, trong thời ông và có lẽ cả sau ông nữa, thanh niên trong các gia đình quí tộc vào các nhà “tự”, nhà “học” để |
học về “lục nghệ” (sáu nghề): lễ, nhạc, xạ (bắn), ngự (đánh xe – xe đây là chiến xa), thư (viết lách, thảo văn thư), số (tính toán) mà sau thành những quan lại của triều đình, tức một hạng mà ngày nay chúng ta gọi là kĩ thuật gia hoặc nhà chuyên môn. Mục đích của ông khác: ông chú trọng đến sự học để cứu đời, cốt đào tạo những người có đức hạnh, trí óc sáng suốt, có liêm sỉ, để làm chính trị, cải tạo xã hội, hơn là đào tạo những nhà chuyên môn. Ông sinh vào một thời loạn, nhà Chu đã suy, các chư hầu không tuân lệnh thiên tử nữa, mỗi nhà hùng cứ một phương, tranh giành đất đai với nhau, chiến tranh liên miên, không năm nào không có. Họ không thèm nộp cống mặc dầu chỉ là tượng trưng (trong 242 năm, nước Lỗ chỉ triều cống có ba lần!), nhà Chu đất đai hẹp, mỗi ngày một nghèo, chỉ còn đóng vai trò bù nhìn. Khổng tử muốn lập lại trật tự cũ, hô hào chư hầu phải giữ tôn ti, tuân lệnh người trên[261], nhưng cái tôn ti đó dựng trên đạo đức trước hết: người trên phải làm gương cho người dưới; “quân quân, thân thần, phụ phụ, tử tử” [262]. Có lẽ ông chưa dám hô hào bỏ đặc quyền của các quí tộc – thời ông còn sớm quá – nhưng khi đã bình dân hoá giáo dục, rồi lại coi trọng đạo đức hơn chức tước, coi trọng bổn phận hơn quyền lợi, cho chữ “quân tử” một nghĩa khác hẳn nghĩa đương thời: người có tài đức chứ không phải có địa vị hơn người, thì ta phải nhận rằng ông đã làm một cuộc cách mạng quan trọng, đã muốn thực hiện một thứ bình đẳng dựa trên chân giá trị của con người. |
Có thể ông và môn đồ của ông là một đảng chính trị, ông đào tạo họ thành những cán bộ để thực hành chủ trương của ông (về điểm đó, ông mở đường cho Mặc tử sau này), vì vậy chương trình dạy học của ông khác chương trình đương thời. Có lẽ chương trình đó thành hình lần lần: hồi trẻ, ông dạy lễ trước hết (cho Hà Kị và Nam Cung Quát) vì ông chuyên môn về lễ, rồi ông dạy Thi, Thư nữa, về già ông mới soạn kinh Xuân Thu và cần cù nghiên cứu Kinh Dịch. Tôi không chắc ông đã đem Kinh Dịch ra giảng cho môn sinh; tôi cũng không biết danh từ “lục nghệ” trỏ: 1 lễ, 2 nhạc, 3 thi, 4 thư, 5 Xuân Thu, 6 Dịch, xuất hiện từ hồi nào; nhưng có điều chắc chắn là ông không dạy hai môn ngự và xạ mặc dầu là ông biết hai môn đó và thân phụ ông là một quan võ (Liu Wu Chi – La philosophie de Confucius – Payot – trang 13), cho nên khi Vệ Linh Công hỏi ông về việc bày binh bố trận, ông đáp rằng không biết, chỉ biết việc sắp đặt các đồ cúng tế (trở đậu) thôi, rồi sáng hôm sau ông bỏ đi liền (Vệ Linh Công – 1). Cũng không chắc rằng ông dạy môn toán (số); nhưng ông chú trọng đến môn ăn nói (ngày nay ta gọi là môn hùng biện), tức Kinh Thi, vì môn đó thời nào cũng cần cho chính trị gia, và ở thời ông, phải thuộc nhiều bài trong Kinh Thi để cho lời nói thêm hoa mĩ, du dương, ứng đối lưu loát: các nhà ngoại giao thời ông thích dẫn lời trong Kinh Thi lắm, cho nên ông mới nói: |
“bất học Thi vô dĩ ngôn” (Quí thị – 13). Dĩ nhiên ông không dạy các nghề như làm ruộng, đi buôn… Phàn Trì xin ông dạy nghề làm ruộng, làm vườn, ông đáp hai nghề đó ông không rành bằng một ông lão làm ruộng, một ông lão làm vườn. Khi Phàn Trì bước đi rồi, ông chê chí khí của Phàn Trì nhỏ nhen (Tử Lộ – 4). Ông muốn lập lại trật tự của xã hội, khiến cho vua chúa biết trọng lễ nghĩa để cho dân tin, phục, thì học nghề cày cấy làm quái gì. Ông tin rằng con dân một nước có hiếu đễ thì nước đó sẽ có trật tự, bình trị, cho nên ông dạy cho môn sinh trước hết phải hiếu đễ, tập tính cẩn thận và thành thực, thương yêu mọi người, gần gũi các người nhân đức, rồi có dư sức mới học văn, tức thi, thư, lễ, nhạc (Học nhi – 6). Chương Thuật Nhi – 6, ông lại khuyên: để tâm trí vào đạo lí, cố giữ gìn đức hạnh, theo điều nhân, còn việc học lục nghệ là điều phụ. Ông là người đầu tiên mà có lẽ cũng là người duy nhất chủ trương phải tu thân rồi mới tề gia, trị quốc; như vậy phải có đạo đức rồi mới làm chính trị được; cho nên ông bắt môn đệ phải tự xét mình, làm chủ được mình: “Người quân tử có chín mối xét nét: 1 khi trông phải cố ý trông cho rõ, 2 khi nghe phải lắng tai nghe cho rõ[263], 3 sắc diện phải giữ cho ôn hoà, 4 dung mạo phải khiêm cung, 5 nói điều gì phải trung thực, 6 làm việc gì phải kính cẩn, 7 có điều gì nghi hoặc thì phải hỏi han, tìm hiểu, 8 khi giận dữ thì phải nghĩ đến hậu quả tai hại sẽ xảy ra, 9 thấy mối lợi thì phải nghĩ đến điều nghĩa” (Quí thị – 10). |
Tuy nhiên ông cũng trọng trí dục ngang với đức dục: ba đức căn bản của Khổng giáo: nhân, trí, dũng, y hệt ba đức căn bản của Phật giáo: bi, trí, dũng. Một hôm ông hỏi Tử Lộ: Do (tên của Tử Lộ) này, anh có nghe nói sáu đức tốt bị sáu cái hại che lấp không? Tử Lộ đáp: Thưa thầy, chưa. Ngồi xuống đây, thầy dạy cho. Người ham điều nhân mà không chịu học hỏi thì bị cái hại là ngu muội; người ham đức trí mà không chịu học hỏi thì bị cái hại là phóng đãng; người trọng đức tín mà không chịu học hỏi thì bị tổn hại (nghĩa là bị lừa gạt); người ưa sự ngay thẳng mà không chịu học hỏi thì hoá ra nóng nảy; người ưa dũng cảm mà không chịu học hỏi thì hoá ra phản loạn; người thích cương quyết mà không chịu học hỏi thì hoá ra cường bạo” (Dương Hoá – 8). Và ông rất trọng thực tế, không bàn về chuyện chết rồi sẽ ra sao, không xét về phần siêu hình chẳng hạn như bản tính con người, cùng đạo Trời (Công Dã Tràng – 12), mạng Trời (Tử hãn – 1). Ông cốt đào tạo một lớp nhân tài có đức hạnh để họ giúp nước, mà thời đó kẻ sĩ chỉ có mỗi một cách giúp nước là làm quan; nhưng ông rất ghét bọn làm quan chỉ để hưởng lộc, lúc quốc gia thịnh trị, chẳng giúp dân được gì, chỉ ngồi đó hưởng lộc, lúc quốc gia loạn lạc thì nắng chiều nào che chiều ấy, cũng để hưởng lộc nữa; ông gọi họ là bọn vô liêm sỉ (Hiến vấn – 1); và có lần ông phàn nàn rằng không dễ gì thấy được một người |
học ba năm mà không muốn cầu bổng lộc. Nhưng ta nên ghi nhận thêm điều này: Tuy ông bôn ba gần suốt đời để cứu vãn xã hội, ra công đào tạo một số môn sinh cho thành những chính trị gia có tài đức; nhưng cơ hồ như lí tưởng tối cao, tối hậu của ông không phải ở đó. Một lần (Tiên tiến – 25): “Tử Lộ, Tăng Tích, Nhiễm Hữu và Công Tây Hoa ngồi hầu ông. Ông bảo: Các anh cho rằng ta có chỗ hơn các anh một ngày[264] mà ngại, nhưng đừng ngại gì cả. Ở nhà các anh thường nói: “Chẳng ai biết dùng [tài của] ta”. Nhưng nếu có người biết thì các anh đem tài năng gì ra dùng? Tử Lộ vội vàng đáp: Ví như một nước nhỏ có một ngàn cỗ chiến xa, bị ép giữa hai nước lớn, lại có thêm nạn chiến tranh, dân chúng đói khổ, cho Do (tên của Tử Lộ) tôi cầm quyền chính trị nước đó thì chỉ ba năm, có thể khiến cho dân chúng dũng cảm mà biết đạo lí nữa. Ông mỉm cười. Rồi hỏi: Còn anh Cầu, anh thì thế nào? Nhiễm Hữu đáp: Như một nước vuông vức có sáu bảy chục dặm [nghĩa là một nước rất nhỏ], mà cho Cầu tôi cầm quyền chính trị thì chỉ ba năm có thể khiến cho dân chúng được no đủ. Còn về lễ nhạc thì xin đợi bậc quân tử. Xích, anh thì thế nào? Công Tây Hoa đáp: Về lễ nhạc, tôi không phải là giỏi, nhưng tôi xin được học. Trong việc tế tự ở tôn miếu hay trong hội nghị các chư hầu, Xích tôi xin mặc áo lễ huyền đoan, đội mũ chương phủ mà lãnh một chức nhỏ. |
Điểm, còn anh thế nào? Lúc đó Tăng Tích gẩy cây đàn sắt vừa ngưng, đặt xuống, nghe reng một tiếng rồi đứng dậy đáp: Chí của tôi khác hẳn ba anh đó. Ông bảo: Hại gì đâu? Cũng là ai nấy tỏ chí của mình ra mà thôi. Tăng Tích bèn thưa: Như bây giờ là cuối tháng mùa xuân, y phục mùa xuân đã may xong, năm sáu người vừa tuổi đôi mươi, với sáu bảy em bé dắt nhau đi tắm sông Nghi rồi lên hứng mát ở nền Vũ Vu, vừa đi vừa hát, kéo nhau về nhà [tôi ước ao như vậy[265]]. Ông ngẫm nghĩ một chút rồi than: “Ta cũng muốn như anh Điểm”. Đ ọ c Luận ngữ tôi thích nhất đoạn đó. Người ta chê đạo Khổng thực tế quá hoá khô khan, nhưng chính Khổng tử có tính tình rất đa cảm và nghệ sĩ (tôi sẽ trở lại điểm này), tất cũng biết cái thú nhàn như Lão, Trang; nhưng ông rất ưu thời mẫn thế, phải quên sở thích để cứu đời đã, để tạo một xã hội trong đó già trẻ, trai gái ai cũng được hưởng cái thú tắm mát trong dòng sông Nghi rồi hứng gió trên nền Vũ Vu, rồi ông mới có thể vui với mọi người được. Như vậy là ông suốt đời hi sinh, ta vừa quí ông mà vừa phục; chứ như Lão hay Trang, thì ta chỉ quí thôi chứ không phục được. Chương 3 TÍNH TÌNH VÀ TƯ CÁCH KHỔNG TỬ Không kể mấy chục năm bôn ba hết nước này qua nước khác để cố thi hành đạo của mình, mấy lần bị tai nạn, một lần bị vây đánh ở đất Khuông, một lần bị Hoàn Khôi, quan tư mã nước Tống, muốn giết, một lần lạc đường, thầy trò cùng đói, lang thang như bầy thú rừng, rồi bao nhiêu lần bị người đời hiểu lầm mà trách mắng, không kể tất cả những nỗi lao đao tự ông vì đời |
mà chuốc vào thân, chỉ xét công lao ông dạy học trên nửa thế kỉ, cũng thấy được đức hi sinh của ông ra sao. Trước hết chúng ta hãy xét tính tình và tư cách của ông đã, vì đối với một nhà giáo cái đó quan trọng bậc nhất, hơn xa kiến thức cùng phương pháp dạy dỗ. Triết gia thời nào, xứ nào cũng có một số môn đệ, nhưng tôi chưa từng thấy nhà nào, kể cả Lạo tử, Mặc tử, được học trò ngưỡng mộ, vừa kính vừa yêu, hơn cha nữa, như Khổng tử; tôi cũng chưa từng thấy nhà nào chết trăm năm[266] rồi mà được môn sinh chép lại ngôn hành một tập như nhật kí, tức bộ Luận ngữ. Sở dĩ vậy là vì ông có một tính tình rất khả ái và một tư cách rất cao. Trong Luận ngữ, có đến hai bài nói đến đức ôn hoà mà cung kính của ông: bài Học nhi 10, nhất là bài Thuật nhi 37: Ông ôn hoà nhưng nghiêm trang, oai vệ nhưng thư thái, hiền từ (Tử ôn nhi lệ, oai nhi bất mãnh, cung nhi an)[267]. Ông hiếu học, suốt đời vừa dạy vừa học thêm, thành một nhà bác học bậc nhất đương thời, đó cũng là một điều kiện chính để được môn đồ phục, vì đức hạnh cùng sự hiểu biết của ông thầy không mỗi năm mỗi tiến thì học trò không chịu theo lâu, mà có những môn sinh như Tử Cống, Tử Lộ… theo ông cả chục năm. Ở trên tôi đã dẫn bài Công Dã Tràng 27, trong đó ông tự nhận chỉ có mỗi một đức hiếu học là hơn người. Chắc ai cũng nhớ câu: “Tam nhân hành tất hữu ngã sư yên ” của ông (Thuật |
nhi – 21). Dù chỉ đi một quãng đường với vài người khác, ông cũng để ý xét những người đó có đức gì làm gương cho mình, có tật gì để cho mình tránh không. Và ông nhận những người đó đều là thầy của ông cả. Ông khen Khổng Văn tử, một đại phu nước Vệ, là “chịu học những người dưới, không lấy làm thẹn” (“bất sỉ hạ vấn” – Công Dã Tràng – 14). Suốt đời ông rán tránh tật này: 1 “vô ý”, nghĩa là khi xét một việc gì, không đem ý riêng của mình vào mà cứ theo lẽ phải” [268]; 2 “vô tất”, tức không quyết rằng điều đó tất đúng hoặc việc đó tất làm được; 3 “vô cố”, tức không câu nệ, cố chấp; 4 “vô ngã”, tức như ngày nay ta nói phải quên mình đi đừng để cho cái “ta” làm mờ ám[269] (Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã – Tử Hãn – 4). Các nhà khoa học ngày nay cũng chỉ khuyên ta như vậy, chứ không hơn. Như mọi người thực hiếu học, ông rất khiêm tốn: ông không dám tự nhận là bậc thánh, bậc nhân, mà còn bảo là chưa được là bậc quân tử nữa, vì người quân tử không lo lắng, không lầm lạc, không sợ sệt, ba điều ông chưa có được một (Hiến vấn – 30). Ông khuyên môn đệ “biết điều gì thì nói là biết, không biết thì nhận là không biết” (Vi chính – 17), “muốn dạy người ta làm điều gì thì thực hành điều đó rồi sau hãy dạy” (Vi chính – 13)[270], “nên ít nói mà làm nhiều” (Lí nhân – 23). Như vậy là ông rất thận trọng. |
Ông khiêm tốn lại tế nhị. Vua Chiêu Công nước Lỗ cưới một thiếu nữ nước Ngô cùng họ, như vậy là trái lễ. Quan tư bại (cũng như thượng thư bộ hình) có ý chê Chiêu Công, hỏi Khổng tử: Vua Chiêu Công biết lễ không? Ông đáp: Biết. Rồi lui vào nhà trong. Quan tư bại lại gần Vu Mã Kì, một môn đệ của Khổng tử, bảo: Tôi nghe nói người quân tử không thiên vị; thì ra người quân tử [trỏ Khổng tử] cũng thiên vị ư? Vu Mã Kì đem lời ấy kể lại với thầy, Khổng tử chỉ đáp: Khâu này thật may mắn; nếu có lỗi điều gì thì mọi người đều biết (Thuật nhi – 30). Ông cũng biết rằng vua Chiêu Công làm một việc trái lễ, nhưng không nỡ chê vua của mình trước mặt người khác; sẵn lòng nhận lời trách của quan tư bại, chứ không cãi, mà còn tỏ ý mang ơn quan tư bại đã vạch lỗi của mình nữa. Phải là bậc đại hiền mới có thái độ như vậy được. Tư cách của ông thật cao hơn chúng ta nhiều quá, mà ông lại gần gũi với chúng ta, rất tự nhiên, giản dị, ghét bọn “xảo ngôn lệnh sắc”, nói thì cốt người ta hiểu mình là đủ, ( từ đạt nhi dĩ hĩ)[271], không màu mè tô chuốt. Trong một đoạn sau, chúng ta sẽ thấy lối sống giản dị, thân mật của ông với các môn sinh. Ông lạc quan, vui tính. Một hôm Diệp Công hỏi Tử Lộ về ông. Tử Lộ không biết đáp sao, về thưa lại với ông. Ông bảo: “Tại sao anh không đáp như vầy: Thầy tôi là một người ham tìm hiểu điều gì thì quên ăn, vui đạo mà quên các nỗi buồn, không |
thấy tuổi già nó tới? (Thuật nhi – 18). Ông có những tình thương của con người nên rất gần chúng ta. Khi một người họ Diệp bảo ông: “Bọn tôi – hoặc xóm tôi – có những người ngay thẳng rất mực: hễ cha ăn cắp cừu thì con khai thực”, ông đáp: “Bọn tôi – hoặc xóm tôi – người ngay thẳng cư xử khác vậy: cha che lỗi cho con, con che lỗi cho cha, như vậy là ngay thẳng”. (Tử Lộ – 18). Một lần khác ông mắng Nguyên Nhưỡng, một người quen từ lâu: “Hồi trẻ không biết kính người trên, lớn lên chẳng làm được điều gì đáng khen; già mà chẳng chết đi cho rồi, như vậy sống chỉ phá hoại thôi”, rồi ông cầm gậy gõ vào ống chân của Nguyên Nhưỡng. (Hiến vấn – 46). Rõ là cử chỉ, ngôn ngữ của những ông già ta thường thấy chung quanh ta; ông đâu có vẻ trịnh trọng như các cụ đồ Nho tưởng. Hai truyện dưới đây cho ta thấy, nếu cần, ông cũng biết dùng “thủ đoạn”. Nhũ Bi[272] có một lỗi gì nặng, muốn yết kiến ông, ông từ chối, sai người ra bảo rằng ông đau không tiếp được. Người này vừa mới bước ra, ông cầm cây đàn sắt lên, vừa đàn vừa ca, chủ ý cho Nhũ Bi biết. (Dương Hoá – 19). Lần khác, Dương Hoá, một kẻ gian thần mà ông vốn ghét, muốn ông đến thăm hắn, nhưng ông không đến. Hắn bèn sai gia nhân đem tặng một con heo luộc. Theo lễ, ông phải đến cảm ơn, nhưng ông rình lúc Dương Hoá không có ở nhà mới tới. (Dương Hoá – 1). Ông có tâm hồn nghệ sĩ, hồi ở nước Tề, ham mê học nhạc Thiều tới nỗi luôn ba tháng không biết mùi thịt, và bảo: “Thật không ngờ nhạc của vua Thuấn lại tận thiện tận mĩ đến thế!” |
(Thuật nhi – 13). Ông lại biết ca nữa chứ. Cùng hát với ai, ông thấy hay thì ông bảo hát lại cho ông hoạ theo (Thuật nhi – 31). Như mọi nghệ sĩ, ông rất đa cảm: ở nhà người có tang thì buồn rầu, ăn không bao giờ no; ngày nào đi điếu ai thì hôm đó không đàn ca. (Thuật nhi – 9) – Khi Nhan Hồi (môn đệ được ông yêu nhất) chết, ông khóc nức nở, tới nỗi các người chung quanh phải ngạc nhiên. Dễ thương nhất là bậc “vạn thế sư biểu” ta tưởng rất mực đạo mạo, lại có tinh thần hài hước hơn hết thảy các triết gia khác đời Xuân Thu và Chiến Quốc. Trong đời ông bôn ba khắp các nước chư hầu, có lần môn đệ thất vọng quá, ông bảo: “Thầy trò mình chẳng phải trâu, cọp mà lang thang trong đồng hoang như vầy. Đạo của thầy sai chăng? Sao mà thầy trò mình phải gặp cảnh đó?” [273] Lần khác, thầy trò lạc nhau. Tử Cống đi tìm ông. Một người dân thấy ông, bảo Tử Cống: “Tôi mới thấy một người đứng ở cửa Đông, trán như trán vua Nghiêu, cổ như cổ ông Cao Dao, thấp người như vua Vũ (?), coi có vẻ thảm hại như con chó hoang vậy”. Khi thầy trò gặp nhau rồi, Tử Cống kể lại lời đó, Khổng tử mỉm cười bảo: “Người đó tả hình dáng của ta không biết có đúng không, nhưng cái vẻ thảm hại như con chó hoang thì đúng lắm” [274]. Thầy trò ông vẫn thường thân mật nói đùa với nhau như vậy. Một hôm ông bảo Nhan Hồi (?): “Nếu anh giàu có thì thầy muốn làm quản gia cho anh” [275]. |
Lần khác ông bảo: “Nếu muốn làm giàu mà được thì làm tên cầm roi đánh xe hầu người, ta cũng làm”. (Thuật nhi – 11). Đọc Luận ngữ, thỉnh thoảng gặp những bài ông tự mỉa hoặc nói đùa với môn đệ như vậy, chúng ta mỉm cười, tưởng ông như đồng thời với chúng ta, ở trong đám người chung quanh ta, không có chút gì cách biệt với ta cả. Tóm lại ông vừa là một học giả, một triết nhân, vừa là một nghệ sĩ giản dị, tự nhiên. Chương 4 CÁCH KHỔNG TỬ DẠY HỌC Tư cách cao thượng, tính tình khả ái, mà dạy học thì rất tận tâm. Chương Thuật Nhi, bài 2. ông tự cho mình “học không biết chán, dạy không biết mỏi”; rồi cũng chương đó, bài 33, ông lại nói: “Nhận là bậc thánh và bậc nhân thì ta đâu dám; nhưng làm việc không biết chán, dạy người không biết mỏi, chỉ có thể gọi ta như vậy được thôi” [276]. Công Tây Hoa[277] nghe vậy, thưa: “Chính hai điều đó, chúng con không theo kịp thầy được”. Chúng ta có thể nói thêm suốt đời Xuân Thu và Chiến Quốc, có lẽ chỉ có Mặc tử là theo kịp ông. Ông tận tâm dạy học cho bất kì ai. Dù cho người đó tối tăm đến đâu, hỏi ông điều gì thì ông cũng dẫn dắt tường tận từ đầu đến đuôi (Tử hãn – 7). Giảng dạy như vậy cũng là một cách sắp đặt, kiểm soát tư tưởng của mình, tức một cách tự học thêm. Ông tuần tự dẫn dắt môn sinh, bắt họ gắng sức hoài, dù muốn nghỉ cũng không được. Cho nên Nhan Uyên đã phải nói: Thầy dùng văn học mà mở mang trí thức cho tôi, dùng lễ mà |
ước thúc tâm thần cho tôi. Tôi muốn ngừng mà không được. Tôi đã gắng hết sức mà vẫn thấy cái gì sừng sững trước mặt (không vượt nổi), tôi muốn theo tới cùng mà không làm sao theo được. (Tử hãn – 10). Nhiễm Hữu cũng thấy vậy, thưa với ông: Chẳng phải là con không mộ đạo của thầy, nhưng sức con theo không nổi. Có lẽ Nhiễm Hữu thiếu đức tự tín, nên ông phải đốc thúc: Kẻ không đủ sức, đi được nửa đường thì bỏ. Anh không phải vậy, anh tự vạch trước mức đường, chỉ mong tới đó rồi thôi. (Ung dã – 10). Điểm mà nhiều môn sinh thấy khó nhất là ông không chỉ cho hết, chỉ gợi ý để họ tự tìm lấy, vì vậy lời dạy của ông rất vắn tắt. So Luận ngữ với Mạnh tử ta thấy hai bộ này tương phản nhau: Luận ngữ là lời một bực minh triết, cô động và sâu sắc; Mạnh tử là lời một nhà hùng biện, rõ ràng mà lôi cuốn. Ông bảo: “Kẻ nào không hăng hái muốn tìm hiểu thì ta không thể giúp cho hiểu được; kẻ nào không rán tỏ ý kiến thì ta không thể giúp cho phát biểu ý kiến được. Ta vén lên một góc mà chẳng tự tìm ra được ba góc kia thì ta không giảng thêm cho nữa”. (Thuật nhi – 8). Chẳng hạn ông chỉ bảo: “Ngô đạo nhất dĩ quán chi” và môn sinh phải tự tìm ra cái lí nhất quán đó là gì. Nhưng chắc chỉ hạng trên bậc trung ông mới dạy theo cách ấy, chứ hạng dưới bậc trung thì vén cho ba góc, tự tìm lấy được góc thứ tư cũng đã là khá rồi. Nếu là kẻ tối tăm thì ông phải dẫn dắt từ đầu tới cuối. |
Ông lại nói: “Người nào không tự hỏi: “Phải làm sao? Phải làm sao?” thì ta cũng chẳng có cách nào chỉ bảo cho được” (Vệ Linh công – 15); vì “học mà không suy nghĩ thì công toi, không hiểu được gì” (Vi chính – 15). Ông thường gợi cho môn sinh tự xét mình, tự so sánh với bạn khác để họ gắng sức thêm. Một lần ông gọi Tử Cống lại hỏi: Anh tự xét anh với anh [Nhan] Hồi, ai hơn ai kém? Tử Cống đáp: Con đâu dám sánh với anh Hồi. Anh Hồi nghe một mà biết mười, con nghe một chỉ biết được hai. Phải, anh không bằng anh Hồi. Ta cũng nhận vậy. (Công Dã Tràng – 8). Nhất là ông bắt phải thực hành. Ta nên nhớ chữ “học” trong đạo Khổng thường có nghĩa là học đạo sửa mình, cho nên phần thực hành quan trọng nhất. Hiểu thế nào là thực hành nhân, lễ, nghĩa, trí, tín… mà không thực hành thì cái hiểu đó hoàn toàn vô dụng; trái lại, nếu thực hành mỗi ngày một tấn tới thì vui vô cùng. Cho nên bộ Luận ngữ mở đầu bằng câu: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? (Học mà ngày nào cũng tập tành thì cũng chẳng vui ư?). Ông dạy mỗi người một khác, tuỳ tư cách, trí tuệ từng người mà giảng: người bậc trung trở lên thì mới đem những điều cao xa ra nói; người dưới bậc trung thì không nên (Trung nhân dĩ thượng, khả dĩ ngữ thượng dã; trung nhân dĩ hạ, bất khả dĩ ngữ thượng dã. – Ung dã – 19). Ông lại tìm sở đoản của mỗi môn sinh mà sửa cho, sở |
trường thì bồi bổ cho. Vì vậy bốn môn sinh cùng hỏi về đức hiếu, mà ông trả lời mỗi người một khác. Điểm này đã được Phan Bội Châu phân tích rất kĩ trong cuốn Khổng học đăng – quyển 1, chương XVII (Anh Minh – Huế 1967), tôi chỉ xin tóm tắt lại dưới đây: Mạnh Ý tử là người hay chiều cha mẹ mà không biết giữ lễ, nên Khổng tử bảo: “vô vi” [278], tức là đừng trái lẽ phải, tức đừng trái lễ (Vi chính – 5). Mạnh Vũ Bá thường có bệnh tật (có sách chú thích rằng có tính “càn dỡ, không thận trọng lấy thân” nên Khổng tử nhắc: “phụ mẫu duy kì tật chi ưu”, nghĩa là “cha mẹ chỉ lo ngại cho con mắc bệnh tật” [279]. (Phan Bội Châu giảng là: cha mẹ thương yêu các con ngang nhau, nhưng riêng đứa nào có tật bệnh thì cha mẹ lo lắng hơn nhiều. (Vi chính – 6). Tử Du tuy biết nuôi cha mẹ mà thiếu lòng kính, nên Khổng tử bảo: “Ngày nay ai biết nuôi nấng cha mẹ thì người ta cho là có hiếu, nhưng chó ngựa kia cũng “biết đem năng lực ra cung phụng chủ nhà” [280], nuôi nấng mà không cung kính thì có khác gì chó ngựa?” (Vi Chính – 7). Tử Hạ có thói cau có, không vui hoà với cha mẹ, nên Khổng tử đáp: “sắc nan”, nghĩa là giữ nét mặt vui hoà với cha mẹ, điều đó mới khó. (Vi chính – 8). Bốn bài hỏi về hiếu đó, sắp liên tiếp nhau trong chương Vi chính, là có ý nghĩa lắm. Về đức nhân cũng vậy, có cả chục lần môn đệ đem ra hỏi, mỗi lần Khổng tử dạy một khác. Về chính trị, lễ, nghĩa v.v… |
cũng có năm sáu bài, không bài nào giống bài nào. Vì mỗi vấn đề có nhiều khía cạnh, phải biết rõ câu chuyện xảy ra trong trường hợp nào mới hiểu hết được ý nghĩa, mà Luận ngữ lại ghi chép vắn tắt quá, các nhà chú thích đời sau không tra cứu được, nên trong các bài về nhân, lễ, nghĩa… chúng tôi không biết rõ được thâm ý của Khổng tử bằng bốn bài về hiếu đã dẫn ở trên. Tôi xin dẫn thêm một bài nữa, ý nghĩa thật rõ ràng, mà rất lí thú, có thể làm mẫu mực về cách dạy học, để các nhà nghiên cứu giáo dục suy ngẫm. Hai môn đệ Tử Lộ và Nhiễm Hữu cùng hỏi Khổng tử một câu: “Văn tư hành chư?” nghĩa là “Hễ nghe được điều gì[281] thì làm liền chăng?” Khổng tử đáp Tử Lộ: Ở trên còn cha anh, mình là con em, phải hỏi ý kiến cha anh đã chứ, đâu có thể nghe rồi làm liền được. Trái lại, ông khuyên Nhiễm Hữu: Ừ, nghe rồi thì làm liền đi. Công Tây Hoa (cũng là môn đệ) thấy ông trả lời hai lần trái ngược hẳn nhau, đâm ra nghi hoặc, hỏi tại sao, ông đáp: Tính Nhiễm hữu nhút nhát, rụt rè, nên thầy phải thúc đẩy; còn tính Tử Lộ hăng hái hơn người, nên thầy phải kéo lùi lại. (Tiên tiến – 21). Vậy lối dạy của ông đúng như lối mà người Pháp ngày nay gọi là “enseignement sur mesure”, tuỳ tính tình, trí tuệ, tư cách mỗi người, cũng như may áo phải tuỳ kích thước của mỗi người. Sau cùng còn một điểm nữa rất quan trọng, ta có thể đoán được, là ông luôn luôn làm gương cho môn sinh, vì ông chủ |
trương rằng người trên phải làm gương cho người dưới. Trong Luận ngữ, có cả chục bài khuyên vua chúa phải cư xử cho ra vua chúa, phải lấy đức mà trị dân, phải làm gương cho dân…[282]; đó không thuộc phạm vi của tập này, nên tôi chỉ xin chép lại bài Thuật nhi – 3, để độc giả thấy Khổng tử luôn luôn sửa mình. Ông bảo: “Đức hạnh không trao dồi, học vấn không tinh tường, nghe được điều nghĩa mà không làm theo, có điều gì chẳng phải mà không sửa đổi, đó là những điều ta lấy làm lo”. Vừa siêng năng học hỏi thêm, vừa tận tuỵ dạy học như vậy, mà bắt đầu từ hồi bốn mươi tuổi, ông lại còn thu thập tài liệu để viết sách nữa; ta phải phục sức làm việc của ông. Đành rằng những bài trong Kinh Thu, Kinh Thư đã lưu hành từ trước, ông chỉ có việc chép nhặt, sắp đặt lại; còn việc chú giải Kinh Dịch không chắc đã là của ông; nhưng việc nghiên cứu lễ, nhạc để soạn thành sách thì quả là công của ông, và Kinh Xuân Thu thì hiển nhiên là do ông trứ thuật. Chỉ một kinh đó cũng đủ cho ông lưu danh là tác giả đầu tiên của Trung Hoa, mở đường cho Lão tử[283], Trang tử, Mạnh tử, Tuân Tử… vì tập Chu Lễ tương truyền của Chu Công soạn, nhưng sự thực thì có lẽ viết từ trước thế kỉ thứ năm tới thế kỉ thứ ba trước T.L; còn cuốn Quản tử thì ai cũng cho là do đời sau (cuối thời Chiến Quốc?) nguỵ tác. Sở dĩ ông vất vả, mệt nhọc như vậy, lắm lúc thèm cái thú nhàn tản, (mà sau này Lão, Trang đề cao): tắm mát trên dòng |
sông Nghi rồi lên hóng gió ở nền Vũ Vu, là vì ông muốn cứu loạn cho đời; nếu đời không loạn thì ông đâu phải bận tâm sửa đổi xã hội làm chi – “Thiên hạ hữu đạo, Khâu bất dữ dịch dã”. (Vi tử – 6). Chương 5 TÌNH THẦY TRÒ Cách dạy của ông làm cho môn sinh ngưỡng mộ; cách cư xử của ông đối với họ làm cho họ yêu quí như cha. Tôi thường tự hỏi khắp thế giới chỉ có những dân tộc chịu ảnh hưởng của Trung Hoa là trọng thầy học hơn cha ( quân, sư, phụ) có phải vì Trung Hoa có Khổng tử không? Tôi có thể tin chắc rằng môn đệ của Lão tử, Trang tử, Liệt tử, Dương tử không được cái tình thắm thiết đối với thầy như bọn Nhan Hồi, Tử Lộ, Tử Cống, Tăng Sâm… đối với Khổng tử. Tôi không kể thầy trò họ Mặc vì Mặc tử gần như một giáo chủ rồi, tình của họ đối với nhau vẫn có cái gì khác tình thầy trò. Một trong những cái thú nhất của tôi là lâu lâu lật Luận ngữ ra đọc lại những bài chép các cuộc đàm thoại thân mật, tự nhiên mà sâu sắc, giữa thầy trò họ Khổng. Bài nào cũng cô động, có khi chỉ hai hàng chữ, mà cho ta thấy khía cạnh của tính tình mỗi người. Đúng như lời Lâm Ngữ Đường nói trong cuốn La sagesse de Confucius (bản Pháp dịch của nhà Victor Attinger – Paris 1949), Khổng tử có vẻ sung sướng giữa một nhóm đệ tử thân của ông; mà đệ tử cũng sung sướng được sống ở bên cạnh ông, cả trong những năm họ lao đao trôi dạt |
khắp nước này tới nước khác. Như vậy cũng chỉ là lẽ thừa trừ, vì cơ hồ ông không được hưởng nhiều lạc thú trong gia đình; về phương diện đó ông thua Tô Đông Pha, bà Tô biết chiều chồng, luôn luôn để dành một hũ rượu ngon để ông cùng bạn bè xách đi chơi ở Xích Bích, câu cá rồi nhắm, hoặc để rót cho ông một chén mỗi khi ông rầu rĩ về việc quan, việc nhà. Còn bà Khổng, thì theo Lâm Ngữ Đường, dở việc bếp núc, có lần không tìm ra được thịt tươi, phải sai con lại tiệm mua rượu và món ăn đã nấu sẵn, ông bất bình bảo: “Rượu thịt mua ở tiệm thì không ăn”. (Hương đảng – 8)[284]. Họ Lâm đã tưởng tượng ít nhiều, nhưng con người “ôn lương” như Khổng tử mà phải bỏ vợ hồi 23 tuổi, sau bốn năm sống thì cũng tội thật. Có sách nói ông không cưới bà sau, và ta có thể chắc chắn rằng từ hồi ông năm chục tuổi, đi lang thang khắp các nước chư hầu thì không có người đàn bà nào săn sóc cho ông cả (con gái ông chắc đã có chồng) các môn sinh hầu hạ ông hết mọi việc. Ông chỉ có một người con trai sinh từ hồi ông còn làm một chức quan nhỏ ở Lỗ, cho nên vua Lỗ mừng ông có mỗi một con cá chép, do đó, ông đặt tên cho con là Lí (cá chép) – tự là Bá Ngư. Cậu Lí chắc hiền lương, nhưng chậm chạp, không thông minh, không có tài gì đặc biệt, cho nên không sách nào nhắc đến cậu, và Khổng tử cũng ít khi hỏi chuyện cậu. Trong Luận ngữ, tôi chỉ thấy mỗi một bài Quí thị 13 là nói đến |
cậu: Trần Cang tức Tử Cầm, một môn đệ của Khổng tử, hỏi Bá Ngư (tức cậu Lí): Anh được nghe thầy dạy điều gì lạ không? Chắc Trần Cang không nghe được lời này của ông: “các anh ngờ rằng ta có điều gì giấu các anh chăng? Không đâu. Ta chẳng làm điều gì mà chẳng cho các anh hay” (Thuật nhị – 23), cho nên ngờ Khổng tử giữ những điều cao siêu để dạy riêng cho cậu con. Bá Ngư đáp: Chưa. Cha tôi lần đó đứng một mình, tôi đi nhanh qua sân. Cha tôi hỏi tôi: Học Thi chưa? Tôi thưa: Chưa. Cha tôi bảo: Không học Thi thì không biết ăn nói. Tôi bèn lui vào học Thi. (Cha con họ Khổng thật cũng lạ lùng. Con đi ngang qua chỗ cha đứng mà phải rảo bước. Cha dạy học mà không biết con đã học những gì). Lần khác, cha tôi đứng một mình – vẫn lời của Lí – tôi đi nhanh qua sân (cũng lại đi nhanh nữa). Cha tôi hỏi: Học Lễ chưa? Tôi thưa: Chưa. Cha tôi bảo: Không học Lễ thì không vững chí[285] lập thân. Tôi bèn lui vào học Lễ. Tôi chỉ được cha tôi dạy hai lần đó thôi. Trần Cang mừng quá, cho rằng hỏi một điều mà biết được ba điều: 1 phải học Thi, 2 phải học Lễ, 3 và người quân tử (ở đây là Khổng tử) “không hay gần con”, ( quân tử chí viễn kì tử dã) nghĩa là không săn sóc tới con bằng săn sóc học trò. Ý nghĩa rõ ràng như vậy mà có người còn bênh vực Khổng tử vì ông lúc thì bận việc quan, lúc thì chu du thiên hạ, xa nhà, nên không biết con đã học những gì. |
Một triết nhân đâu có cần ta bênh vực, huống hồ tâm lí của ông ta có thể hiểu được. Các cụ đồ ta hồi xưa, khi con đã hơi lớn thường nhờ bạn bè dạy cho, mặc dầu mình đủ sức dạy, vì lẽ cha đối với con thường hoặc là nghiêm khắc quá mà con sẽ oán mình, hoặc là nhu nhược quá mà con dễ sinh hư. Nhưng đọc bài trên, so sánh với những bài khác chép các cuộc trò chuyện của Khổng tử đối với môn đệ, ta thấy rõ tình của Khổng tử với con không đằm thắm lắm, mà cậu Lí quả là kém lanh lợi, vào hạng cha bảo gì thì làm nấy. Như vậy, ông không hi vọng gì ở cậu nhiều mà dạy cậu chắc cũng không vui gì lắm. Như hầu hết các vĩ nhân khác, ông phải chịu cảnh cô độc trong gia đình. Các sách thường nói đến số ba ngàn đệ tử của Khổng tử. Ta chỉ nên hiểu “ba ngàn” đó là khoảng vài ba ngàn, mà con số này không có gì quá đáng. Ta nên nhớ ai đến xin học ông cũng nhận, cả thanh niên trong những làng không có tiếng tốt, cả những em nhỏ (đồng tử) chưa hiểu đạo lí được, mới đầu ông chỉ sai đi đây đi đó để học tập lễ nghi, cách đi đứng, ăn nói (bài Hiến vấn – 47), mà ông dạy học trước sau trên 50 năm thì số “ba ngàn” đó đáng tin được, nhất là theo quan niệm hồi xưa, dù học một ngày cũng gọi là môn sinh được rồi. Trung bình mỗi năm ông thu nhận năm sáu chục môn sinh mới, không phải là nhiều, đủ để bù số thôi học. Một số ở tại nhà ông, một số về |
nhà mình hoặc ở trọ hàng xóm. Lúc nào đông quá thì các trò lớn có thể giúp ông dạy các trò nhỏ được, như trong trường các cụ đồ hồi xưa. Trong số ba ngàn môn sinh đó, có sách nhắc tới “ thất thập nhị hiền”. Con số 72 này, cũng như các con số 12, 28, 36… khả nghi lắm. Sự thực Luận ngữ chỉ ghi chuyện của khoảng ba chục môn sinh, và chỉ một nửa số đó được nhận là có tài hoặc có đức. Đáng gọi là thân nhất chỉ có sáu bảy người: Nhan Hồi, tên tự là Uyên, tính tình trầm mặc, cần mẫn, được Khổng tử khen là có nhân, nhưng chết yểu (31 tuổi ta), ông rất thương tiếc; Tử Lộ, tên là Trọng Do, lại có tên là Quí Lộ, mà Lâm Ngữ Đường trong cuốn La sagesse de Confucius gọi là thánh Pierre của đạo Khổng, vì hay thắc mắc, nghi ngờ hành động của thầy; có tài, tính tình quả cảm, cương trực, không biết biến thông, làm quan đại phu nước Vệ, bị tội phải giết; Tử Cống, tên là Đoan Mộc Tứ, hay nói, có tài biện thuyết, nhà giàu, thích buôn bán, làm quan nước Lỗ, nước Vệ; Tăng Tử, tức Tăng Sâm, tên tự là Dư (con Tăng Tích, Tích cũng là học trò Khổng tử), rất có hiếu, nghiêm trang, đôn hậu, học rộng mà vững, sau này truyền bá đạo của thầy trong cuốn Đại học, (một trong tứ thư), và có lẽ soạn cả cuốn Hiếu kinh nữa; Tử Hạ, tên là Bốc Thương, giỏi về Thi, biết rộng và sâu, thận trọng, đốc tín, nhưng qui mô hẹp hòi. Nên kể thêm: Nhiễm Cầu khiêm tốn, giản dị; Mẫn Tử Khiên có hiếu; Nhiễm Ung, tự là Trọng Cang, tính tình ung dung, hoà |
nhã; Tử Trương, tên là Chuyên Tôn Sư, ung dung, khiêm tốn; Nguyên Hiến nghèo mà vui đạo, sau thành ẩn sĩ… Đối với môn sinh, nếu cần, ông cũng rất nghiêm khắc, mắng như tát nước vào mặt. Chẳng hạn Tử Dư, tự Tể Ngã, hay nói, hay khoe mà lại làm biếng học, có tật ngủ ngày, ông rầy: “Gỗ mà mục thì không chạm khắc gì được, vách bằng đất bùn thì không tô vẽ gì lên được. Ta còn trách thằng Dư làm gì nữa?” Rồi ông nói thêm: “Trước kia, nghe ai nói, ta tin rằng đức hạnh của họ hợp với lời của họ, ngày nay thì ta đâm ngờ, phải quan sát xem hành động của họ có đúng với lời nói của họ không. Vì thằng Dư mà ta thay đổi thái độ như vậy đấy. (Công Dã Tràng – 9). Cả khi môn sinh đã lớn, đã ra làm quan rồi, ông vẫn theo dõi hành vi của họ, hễ làm bậy thì ông rầy (một số nhà Nho của ta hồi xưa cũng vậy, cho nên có những ông phủ, ông án chính tích xấu xa thì len lét mỗi khi lại nhà thầy học, bị thầy mắng thì đứng lên mà nghe, không dám đáp, mà thầy chẳng có chức tước gì cả). Luận ngữ chép bốn năm trường hợp, tôi xin trích dẫn hai bài làm thí dụ. “Họ Quí là một quyền thần của nước Lỗ, sắp đem quân đánh nước Chuyên Du, một nước nhỏ lệ thuộc vào Lỗ, Nhiễm Hữu và Tử Lộ làm gia thần[286] của họ Quí, vào yết kiến Khổng tử, cho hay tin đó. Ông trách riêng Nhiễm Hữu có lẽ vì ông biết Nhiễm Hữu chịu trách nhiệm trong vụ ấy: |
Này Cầu (tên của Nhiễm Hữu), đó chẳng phải là lỗi của anh sao? Hồi xưa tiên vương đã cho Chuyên Du làm chủ tế ở núi Đông Mông, mà nước ấy lại ở trong khu vực của nước nhà (tức của Lỗ), thế là bề tôi của xã tắc rồi, sao lại đem quân đánh người ta? [287] Nhiễm Hữu thưa: Đó là thầy Quí muốn vậy, chứ hai chúng con là gia thần không muốn. Khổng tử mắng một hơi: Sử thần Chu Nhâm hồi xưa bảo: “Có thể đem tài lực ra giúp thì nên giữ chức; bằng không thì nên từ chức đi. Nếu nước nguy biến mà mình không bảo vệ, nước nghiêng ngả mà mình không chống đỡ lại được, thì ai dùng mình làm tướng (tức để giúp việc) làm gì?” Vả lại anh nói bậy rồi. Con hổ, con trâu rừng sổ cũi, mai rùa và ngọc quí bể nát ở trong rương, thì lỗi ở ai? [288] Nhiễm Hữu lại thưa nữa: Nước Chuyên Du có thành quách kiên cố lại ở gần ấp của họ Quí. Nay họ Quí không chiếm lấy thì sẽ thành mối hoạ cho con cháu đời sau. Này Cầu! Người quân tử rất ghét kẻ viện lẽ này lẽ nọ để biện hộ cho cái lòng tham của mình. Khâu này nghe nói người có nước có nhà không lo ít mà lo không[289] được quân bình, không lo nghèo mà lo không được yên ổn. Đã quân bình thì không lo nghèo, hoà thuận với nhau thì người sẽ không ít, yên ổn thì không nghiêng đổ. Như vậy mà người ở xa chưa phục thì sửa văn đức để họ đến với mình, họ đến với mình rồi thì nên làm sao cho họ được yên ổn. Nay hai anh (Tử Lộ và Nhiễm Hữu) giúp họ Quí, người ở xa không phục, mà không biết làm cho người ta đến với mình, nước chia rẽ lìa tan mà không biết bảo vệ, lại tính dấy binh ở trong nước[290], thì ta e rằng mối lo của con cháu họ Quí không phải ở nước Chuyên Du mà ở ngay sau bức bình phong đấy”. (Quí thị – 1). |
Bài đó là một trong những bài dài nhất mà hay nhất trong Luận ngữ, cho thấy một khía cạnh tính tình của Khổng tử. Ông vốn ít nói, hoặc chỉ nói vắn tắt vài lời (dư dục vô ngôn[291]– Dương Hoá – 18); nhưng lần này ông thật hùng hồn, giọng gay gắt (chắc ông giận lắm), lí luận minh bạch, khéo dẫn lời cổ nhân, mà ý tưởng lại cao đẹp: câu “Hữu quốc hữu gia giả, bất hoạn quả nhi bất hoạn quân, bất hoạn bần nhi bất hoạn an” là một trong những câu bất hủ của ông, vào hàng sâu sắc nhất trong tư tưởng nhân loại, hiện nay càng đáng làm châm ngôn cho các chính khách khắp thế giới. Bài thứ nhì (Tiên tiến – 16) cũng liên quan tới Nhiễm Hữu nữa. Không rõ việc này xảy ra trước hay sau việc mưu đánh nước Chuyên Du, có lẽ sau. Họ Quí đã làm chủ được một nửa nước Lỗ rồi, giàu có như vậy rồi mà Nhiễm Hữu làm gia thần, thâu thuế cho chủ, còn bóp chẹt dân, để cho chủ giàu thêm. Khổng tử nổi giận, bảo môn sinh: “Nó không phải là môn đồ của ta nữa. Các con hãy nổi trống mà công kích nó đi”. ( Tiểu tử minh cổ nhi công chi, khả dã). Như vậy, tuy ông “ôn lương”, nhưng cũng có lúc ông biết nổi giận một cách chính đáng. Người ta sợ ông ở điểm đó; mà chúng ta cũng thấy ông gần chúng ta chúng ta cũng ở điểm đó: làm người thì phải có những lúc bất bình, phẫn nộ, đâu có thể như ông Phật ngồi trên toà được. Có lần ông cũng bạo miệng lắm. Một nhóm môn sinh đứng hầu ông: Mẫn Tử Khiên vẻ mặt vui vẻ; Nhiễm Hữu và Tử Cống |
thì có vẻ cương trực; Tử Lộ có vẻ quá cương cường. Ông răn Tử Lộ phải coi chừng, kẻo mà “bất đắc kì tử” đấy (Tiên tiến 12). Quả là một lời tiên tri: Tử Lộ tự phụ về sức khoẻ của mình, sau bị giết ở Tích Thành nước Vệ. Nhưng xét chung thì ông khen môn đồ của mình nhiều hơn là mắng, và khi khen ông cũng không tiếc lời. Nhan Hồi được ông khen nhiều nhất (non mười lần trong Luận ngữ), khen trước các môn sinh, khen với cả người ngoài là “hiếu học, giận ai thì không giận lây, rủi có lần lầm lỗi thì chỉ một lần thôi” (Ung dã – 2); có thể giữ được đức nhân liên tiếp trong ba tháng, còn những trò khác thì chỉ có một tháng là cùng” (Ung dã – 5); “nghèo mà không buồn, ở trong ngõ hẻm, sống với một giỏ cơm, một bầu nước, thật là người hiền” (Ung dã – 9); “tiến hoài trên con đường đạo lí mà không ngừng” (Tử hãn – 20). Câu này ông nói với Nhan Hồi (Thuật nhi 10), có lẽ làm cho Nhan Hồi vui lòng nhất: “Người ta dùng mình thì mình đem đạo lí ra thi hành, chẳng dùng mình thì ở ẩn mà giữ đạo lí; chỉ có thầy trò mình là được như vậy mà thôi”. Mối tình giữa hai thầy trò đó thật cảm động. Họ hợp ý với nhau tới cái mức thầy nói điều gì là trò hiểu liền, tin liền, làm theo liền, không hồ nghi một chút, và có lần thầy trách yêu trò: “Thầy giảng điều gì, anh Hồi cũng vui thích, cho là phải, thành thử không giúp thầy được điều gì cả”. (Tiên tiến – 3). Ý ông muốn nói, không tỏ ý nghi ngờ, để thầy trò biện luận với nhau |
mà ông tìm thêm được chân lí. Nhan Hồi phục ông như một bực thánh: “Đạo của thầy ta, càng ngửng lên nhìn càng thấy cao; càng dùi vào càng thấy kiên cố; mới nhìn thì thấy ở trước thì bỗng nhiên hiện ở sau lưng, (…) ta có muốn theo cho cùng, mà không làm sao theo được”. (Tử hãn – 10). Hai thầy trò xa nhau thì nhớ, gặp lại được thì mừng rỡ vô cùng, nói đùa với nhau y như cha con, nếu không sợ vô lễ thì tôi sẽ nói như một cặp tình nhân. Lần đó họ bị một cơn hoảng ở đất Khuông; người Khuông tưởng lầm ông là Dương Hổ mà họ rất ghét, vây bắt ông; sau họ biết là lầm, thả ông ra. Lúc đó Nhan Hồi lạc ở phía sau. Tới khi thầy trò gặp lại nhau, Khổng tử bảo: Ngô dĩ nhữ vi tử hĩ: thầy tưởng anh [choảng nhau với họ] mà chết rồi chứ! Nhan Hồi đáp: Tử tại, Hồi hà cảm tử: Thầy còn sống, con đâu dám chết. (Tiên tiến – 22). Các nhà chú giải và dịch Luận ngữ thường cho cuộc đàm thoại đó là nghiêm trang; tôi nghĩ rằng hai thầy trò đó nói đùa nhau, như vậy có phần cảm động hơn. Nhan Hồi bất hạnh mất hồi 31 tuổi. Khổng tử đau xót vô cùng, khóc nức nở: “Trời hại ta! Trời hại ta!” ( Thiên táng dư! Thiên táng dư! – Tiên tiến – 8), tới nỗi môn đồ phải ngạc nhiên, khuyên ông: “Thầy nức nở thái quá”; ông đáp: “Ta nức nở lắm sao? Nhưng ta chẳng vì người ấy mà nức nở, thì vì ai?” (Tiên tiến – 9). Không rõ việc xảy ra năm nào, nhưng chắc chắn sau khi ông |
bị nguy ở Trần, Thái và khi ông cùng môn đồ tiếp tục bôn ba các nước chư hầu. Có thể đoán rằng sớm lắm là vào khoảng 491 489[292], ông từ 60 tới 62 tuổi. Lúc đó cậu Lí đã chết (coi bài Tiên Tiến 7)[293]; mà ông ngờ rằng đạo của mình khó thi hành trong đời mình được, chỉ trông cậy vào Nhan Hồi, cho nên mới thốt ra lời đứt ruột đó: Thiêng táng dư! Không bao giờ ông quên được môn sinh gương mẫu đó; khi vua Lỗ Ai Công hỏi ông trong số đệ tử có ai hiếu học, ông đáp: “Có Nhan Hồi, nhưng chẳng may đã chết sớm, nay không còn ai nữa”. (Ung dã – 2). Rồi Quí Khang tử cũng hỏi ông câu đó, ông cũng trả lời y như vậy (Tiên tiến – 6). Một lần khác, chắc vào hồi ông gần bảy chục tuổi, chán chu du thiên hạ mà trở về Lỗ, nhớ lại những môn sinh cùng chia xẻ cay đắng hoạn nạn với ông ở nước Trần, Thái, nay kẻ sống người chết, mỗi người một ngả, không còn ai bên cạnh nữa, ông rầu rĩ nhắc tên từng người: “Về đức hạnh có Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung; có tài ăn nói là Tể Ngã, Tử Cống; có tài về chính trị là Nhiễm Hữu, Quí Lộ; về văn học có Tử Du, Tử Hạ”. Nhan Hồi cũng lại được ông nhắc tới đầu tiên. Ông khen Mẫn Tử Khiên là có hiếu (Tiên tiến – 4), là ít nói nhưng nói điều gì cũng trúng (Tiên tiến – 13). Xét chung thì người nào cũng có một điểm (hoặc đức hoặc tài) cho ông khen: Khi Quí Khương tử hỏi ông: |
Trọng Do (tức Tử Lộ) có thể dự việc chính trị (tức làm đại phu) được không? Đó là người quả quyết, dự việc chính trị sao lại không được? Lại hỏi về Tử Cống, về Nhiễm Hữu; ông đều đáp: Được hết, vì Tử Cống thông hiểu đạo lí, và Nhiễm Hữu có tài nghệ. (Ung dã – 6). Ông nhận người nào cũng có một sở trường. Tử Lộ có thể điều khiển quân đội của một nước ngàn cỗ xe; Nhiễm Hữu có thể làm quan tể cho một ấp có ngàn nhà, hoặc một nước có trăm cỗ xe; Tử Hoa có thể mặc lễ phục đứng ở triều chính mà tiếp tân khách. (Công Dã Tràng – 7). Sở trường của họ có thể hơn ông nữa, Theo Khổng tử gia ngữ, một hôm Tử Hạ hỏi ông về Nhan Hồi, Tử Cống, Tử Lộ, Tử Trương; ông đáp Nhan Hồi có đức tin hơn ông, Tử Cống nhanh hơn ông, Tử Lộ dũng cảm hơn ông, Tử Trương trang nghiêm hơn ông. Tử Hạ ngạc nhiên, đứng dậy hỏi: Thế thì tại sao bốn anh ấy lại phải đến học thầy? Ở đấy, ta bảo cho: Hồi biết tin mà không biết nghĩa lại [có lẽ là không biết thắc mắc – coi lại bài Tiên tiến 3 ở trang 66]; Tứ [Tử Cống] biết nhanh mà không biết chậm; Do [Tử Lộ] có dũng mà không biết có lúc nên nhát; Sư [Tử Trương] trang nghiêm mà không biết ung dung để hoà với mọi người. Nghĩa là người nào có sở trường thì cũng có sở đoản, sở trường ở đâu thì sở đoản ở đó. Lần khác ông lại bảo: Tử Cao thì kém học thức; Tăng Sâm thì chậm chạp, thật thà; |
Tử Trương hay chưng diện; Tử Lộ thì thô, không nhã. (Tiên tiến – 17). Đúng lắm. Tử Lộ quả là cương trực tới thô lỗ, không có ý tứ, đôi khi vô lễ nữa, dám tỏ vẻ không phục thầy. Lần đó ông đến nước Vệ, vợ vua Vệ Linh Công nước Vệ là nàng Nam tử, nổi tiếng là dâm đãng; theo phong tục nước Vệ, ông phải vào ra mắt nàng. Nàng ngồi sau một bức màn, ông vào, quay mặt về phương Bắc, quì xuống lạy; nàng xá lại hai xá, tiếng vàng tiếng ngọc rổn rảng. Ông bước ra, mừng quá bảo: Tôi không muốn vào yết kiến, bất đắc dĩ phải vậy, nhưng cuộc hội kiến này không có gì trái lễ. Vậy mà khi ông về tới nhà trọ, Tử Lộ tỏ vẻ bất bình, khiến ông phải thề độc: “Ta mà có làm điều gì chẳng phải thì Trời hại ta, Trời hại ta!”. ( Dư sở phủ giả, Thiên yếm chi! Thiên yếm chi! – Ung dã – 26). Lần khác, Phất Nhiễu, họ Công Sơn là gia thần họ Quí, làm phản, chiếm đất của chủ, rồi sai người đến mời Khổng tử. Ông muốn đi, Tử Lộ tỏ vẻ bất bình, can: Không có nơi nào hành đạo được thì thôi, đến với họ Công Sơn làm gì! Người ta vời mình tới, đâu phải là vô cớ. Nếu có người biết dùng ta thì ta sẽ dựng một nước Chu ở phương Đông được chứ”. (Dương Hoá – 5), nghĩa là một nước ở Lỗ, để thay nhà Chu, làm thiên tử. (Lỗ ở phương Đông). Ông nhiệt tâm muốn cứu đời quá, lần đó quả là tính sai. Tử Lộ can ông là phải. Và ông nghe, không đi nữa. |
Lần sau, Phật Bật, một đại phu nước Tấn, cai quản ấp Trung Mâu của họ Triệu cũng phản chủ, rồi cũng sai người mời ông tới. Ông cũng muốn đi nữa. Tử Lộ lại can: Xưa kia Do (tên Tử Lộ) nghe thầy dạy: Người quân tử không vào bè với kẻ làm bậy. Nay Phật Bật chiếm ấp Trung Mâu làm phản, mà thầy muốn qua với nó là nghĩa làm sao? Khổng tử đáp: Phải, ta có nói như vậy, Nhưng ta chẳng thường nói câu này ư: “Chỉ sợ không thật cứng, nếu thật cứng thì mài cũng không mòn; chỉ sợ không thật trắng, nếu thật trắng thì nhúng chàm cũng chẳng đen”. Ta há như trái bầu, chỉ treo thôi chứ không ăn được sao? [294] (Dương hoá – 7). Thái độ của ông là: “vô khả, vô bất khả” nhưng rồi ông nghe lời can của Tử Lộ mà không đi. Không một môn đồ nào trực ngôn với ông như Tử Lộ. Chắc ông hiểu như vậy là Tử Lộ yêu quí ông lắm[295]; cho nên ông cũng mến Tử Lộ, khen là người có nhiệt tâm, trung tín, hễ hứa với ai điều gì thì làm ngay, không chần chờ (Nhan Uyên – 12), và có lần ông nói đùa với Tử Lộ nữa: Đạo thầy mà không thi hành được, thầy sẽ thả cái bè, lênh đênh trên mặt biển, lúc đó theo thầy có lẽ chỉ có anh Do chăng? Tử Lộ tưởng thật, mừng lắm. Ông liền nói thêm: Anh dũng cảm hơn ta, nhưng thiếu óc phán đoán. (Công Dã Tràng – 6). Ông “hiền” đó – vì Tử Lộ ở trong “thất thập nhị hiền” – có lần được một lời khen của thầy mà vui như con nít được kẹo. |
Anh Do mặc áo xấu rách đen, đứng cạnh bên người mặc áo tốt bằng da con hồ, con lạc mà không lấy làm hổ thẹn, đúng như lời trong Kinh Thi: “Chẳng đố kị, chẳng tham lam, thì làm việc gì mà chẳng tốt? ” [296]. Tử Lộ khoái quá, ngâm đi ngâm lại câu đó, e đến trọn đời; Khổng tử phải răn thêm: Chẳng đố kị, chẳng tham lam, bấy nhiêu đâu đủ đã là tốt. (Tử hãn – 25). Tử Cống cũng là một môn sinh rất thân, nhưng trái hẳn với Nhan Hồi, thích làm giàu, thích buôn bán, có tính khoe khoang, có lần tự hào rằng: “Việc gì tôi không muốn người khác làm cho tôi thì tôi cũng không làm cho người khác”. Như vậy là tự cho mình đạt được đức thứ, đức nhân, Khổng tử liền chặn lại: Này Tứ, anh chưa đạt được mức đó đâu. (Công Dã Tràng – 11). Hay xét người, Tử Cống lại còn muốn được ông khen nữa, hỏi: Thầy thấy con là người như thế nào? Ông lại hạ một câu, chắc Tử Cống không được vui lắm: Anh như một món đồ (nghĩa là chỉ dùng được vào một việc mà Tử Cống hỏi tiếp: Thưa món đồ gì? Cái hồ liễn. Hồ liễn là một thứ bát hay liễn đựng xôi để cúng tế ở tôn miếu. Ông nén xuống rồi lại khen để Tử Cống khỏi buồn. (Công Dã Tràng – 3). Con người đó thông minh, lanh trí có thể tế nhị nữa. Lần đó Khổng tử đương ở nước Vệ mà vua Vệ bất hiếu, cướp ngôi của cha trong khi cha tị loạn ở nước ngoài; rồi khi cha về, đem quân ta cự cha. |
Nhiễm Hữu không hiểu thái độ của Khổng tử ra sao, hỏi Tử Cống: “Thầy có vị vua Vệ không?” Tử Cống đáp: “Ừ, chính tôi cũng định hỏi thầy về việc ấy”. Rồi Tử Cống vào hỏi, nhưng không hỏi thẳng về vua Vệ, như vậy Khổng tử sẽ khó trả lời: theo đạo lí thì không thể bênh vực vua Vệ được, mà theo phép xử thế, đương làm khách ở Vệ thì không nên bài xích vua Vệ. Cho nên Tử Cống đem việc Bá Di, Thúc Tề ra hỏi: Bá Di và Thúc Tề là hai anh em ruột, con vua nước Cô Trúc ở cuối đời Thương, đầu đời Chu. Bá Di là anh cả, Thúc Tề là em út. Vua Cô Trúc yêu Thúc Tề, lập di mệnh cho Thúc Tề nối ngôi. Quốc dân theo di mệnh lập Thúc Tề, Thúc Tề không chịu, nhường lại Bá Di cho phải lẽ. Bá Di cũng không chịu, nhường lại cho Thúc Tề để tuân mệnh cha. Không ai chịu nhận rồi trốn cả vào núi, quốc dân phải lập người con giữa. Vậy hai người đó lấy nghĩa làm trọng, trái hẳn với vua nước Vệ. Nếu Khổng tử khen Bá Di, Thúc Tề, tức là chê vua Vệ rồi. Tử Cống nghĩ vậy rồi vào hỏi: Thưa thầy, Bá Di, Thúc Tề là người ra sao? Đáp: Là người hiền đời xưa. Tử Cống hỏi thêm: Hai ông ấy sau khi nhường ngôi, trốn vào núi, có ân hận gì không? Hai ông ấy cầu được vẹn chữ nhân, và đã làm được điều nhân thì còn ân hận gì nữa? Thấy thầy khen Bá Di, Thúc Tề, Tử Cống trở ra đáp Nhiễm Hữu: Không, thầy chẳng vị vua Vệ đâu. |
Quả nhiên, sau Khổng tử dắt môn đồ bỏ nước Vệ mà đi. Truyện đó chép trong chương Thuật nhi, bài 14. Nhưng hình như Tử Cống có hồi nóng lòng thầy trò ra làm quan, nên hỏi thầy: Có thứ ngọc đẹp thì nên cất trong hộp, hay là nên cầu được giá mà bán đi? Bán đi chứ! Bán đi chứ! Ta đợi giá đây. (Tử hãn – 12). Lời đó là lời nói đùa. Nhưng có thể hiểu rằng Khổng tử vẫn mong có một ông vua biết trọng dụng mình; và bài 13 kế bài đó, chép rằng có lần ông chán nản muốn bỏ Hoa Hạ ra miền Đông ở với chín rợ Di (có lẽ là miền Triều Tiên, tức Đại Hàn ngày nay). Như vậy ta thấy Tử Cống cũng ngay thẳng, được Khổng tử mến. Chính Tử Cống tự xét mình là “ghét kẻ dò xét hành vi của người khác mà tưởng như vậy là trí (khôn); ghét kẻ thiếu khiêm tốn mà tự cho mình là dũng; ghét kẻ công kích người mà tưởng như vậy là ngay thẳng”. (Dương Hoá – 23). Tử Cống có tính hay so sánh người này với người kia. Một lần đã hỏi thầy (Tiên tiến – 15): Anh Trương (Tử Trương) và anh Thương (Tử Hạ), hai anh đó, ai hơn ai? Sư thì thái quá, Thương thì bất cập. Tử Cống vẫn chưa thoả mãn, vì Khổng tử vẫn chưa trả lời dứt khoát câu hỏi của mình. Vậy thì anh Sư hơn chăng? Thái quá cũng như bất cập. Câu đáp đó cho ta thấy Khổng tử chủ trương trung dung: trong việc học tập, tu thân, thái quá thì dễ mất kiên nhẫn, mà |
bất cập thì khó mà tiến được. Chắc Tử Cống thường gợi chuyện để Khổng tử so sánh các môn đệ khác, mà nhiều khi khen người này, chê người nọ, cho nên ông phải ngăn lại: Anh Tứ hiền (có đức cao) nhỉ! Thầy thì tự xét mình để sửa lỗi mà không xong, có đâu rảnh mà xét người. (Hiến vấn – 31). Lời mỉa mai nhẹ nhàng mà thấm thía, có lẽ chỉ có cách đó mới sửa được tật cho Tử Cống. Lần khác ông mỉa Tử Du, nhưng không phải là trách, chỉ là nói đùa. Nguyên Tử Du cai trị Võ Thành, một ấp ở Lỗ. Tử Du theo đúng chính sách của ông, dùng lễ nghĩa để trị dân, dân trong ấp đều tập đàn ca. Một hôm đi ngang qua đó, thấy tiếng đàn ca ở trong nhà dân đưa ra, ông bảo Tử Du: Giết gà đâu cần đến dao để mổ trâu. Tử Du đáp: Trước con nghe thầy dạy: “Người quân tử học đạo thì yêu người, kẻ tiểu nhân học đạo thì dễ khiến”. Quân tử ở đây trỏ hạng cầm quyền, tiểu nhân trỏ người dân. Ý Tử Du muốn nói, nước lớn hay ấp nhỏ thì cũng phải dạy cho dân học lễ nhạc. Khổng tử nhận là đúng, quay lại nói với các môn sinh: Này các con, lời anh Yển (Tử Du) đúng đấy. Lời ta nói trước là đùa đấy thôi. (Dương Hoá – 4). Trong số các môn đệ, Trọng Cung (tên là Ung) không vào hàng xuất sắc nhất, nhưng riêng được ông khen là có đức độ một ông vua (Ung dã, khả sử nam diện – Ung dã – 1). Trọng Cung nói được một câu ông rất khen: “Tự mình ăn ở thì cung kính, mà trị dân thì thi hành những phép giản tiện – cư kính, hành giản – như vậy mới là phải chăng? Còn như tự mình cư xử |
lại xuề xoà, trị dân cũng xuề xoà ư? Thì chẳng là quá xuề xoà ư?”. Bốn chữ “ cư kính hành giản” thành bất hủ, tóm tắt được phép cư xử của nhà cầm quyền theo quan niệm nhà Nho. Nhưng có một môn sinh trẻ ông ít trò chuyện, hình như không nhận định đúng giá trị, không ngờ rằng sau này truyền được đạo của ông. Môn sinh đó là Tăng Sâm (con của Tăng Tích tôi đã nhắc ở trên), rất có hiếu, đôn hậu, ít nói, mà ông chê là “lỗ” (Tiên tiến – 17), tức chậm chạp, gần như ngu đần. Tôi cho rằng khi ông chỉ nói “Ngô đạo nhất dĩ quán chi” (Đạo ta chỉ có một lẽ mà quán thông tất cả), mà Tăng Sâm hiểu được lẽ đó là trung thứ (Lí nhân – 15: Phu tử chi đạo, trung thứ dĩ hĩ)[297] thì quả là một đệ tử xuất sắc, hiểu được tư tưởng của thầy, vượt cả Tử Lộ, Tử Cống, chưa chắc Nhan Hồi đã hơn được. Trong Luận ngữ có khoảng mười bài chép lời Tăng Sâm, bài nào cũng tỏ ông là một hiền triết, như bài Học nhi – 4: Mỗi ngày tôi tự xét ba điều này: giúp ai có hết lòng không, giao du với bạn có giữ được đức tín không, có học tập điều thầy dạy không; hoặc như bài Nhan Uyên – 23: Người quân tử nhờ văn chương học vấn mà hội họp bạn bè và nhờ bạn bè mà tiến lên đức nhân. Khổng tử yêu quí một số môn sinh, tới cái mức một người tên là Công Dã Tràng, mặc dầu bị bắt giam, mà ông cũng đem con gái gả cho, vì ông biết rằng bị bắt oan (Công Dã Tràng – 1). |
Ông lại đem con gái người anh gả cho một môn sinh khác: Nam Dung, vì ông thấy Nam Dung đọc đi đọc lại bài thơ Bạch khuê trong Kinh Thi[298], biết Nam Dung thận trọng về ngôn hạnh (Tiên tiến – 5), biết giữ mình dù nước yên trị hay loạn lạc (Công Dã Tràng 1). Và khi Nhiễm Canh tự là Bá Ngưu mắc bệnh nan y (tiên Nho cho là bệnh cùi), ông đứng ngoài cửa sổ, cầm tay Bá Ngưu mà than: Con khó sống được[299], chẳng qua là số mạng. Ôi! Con người như vậy mà phải mang bệnh như vậy! Con người như vậy mà phải mang bệnh như vậy! (Ung dã – 8). Tóm lại ông tận tâm săn sóc từng môn sinh một, tuỳ theo khả năng từng người mà dìu dắt, khuyến khích, lúc nào cần thì nghiêm, bình thường thì hoà nhã, vui tính, chuyện trò với họ, không chút cách biệt, chấp nhận được lời trách của họ nữa – điều này ít ai kịp được ông – và yêu một số môn sinh hơn cả con ông. Cho nên họ tuy kính ông, sợ ông mà không tới nổi nhút nhát, có điều gì thắc mắc thì tự nhiên, thẳng thắn hỏi, và ông thẳng thắn trả lời một cách cũng rất tự nhiên, khiến đôi khi tư tưởng của ông có vẻ như mâu thuẫn. Lớp học của ông đúng là lớp học của một triết nhân: thầy trò cùng bàn luận với nhau để tìm đạo chứ không phải lớp học của một triết gia đem thuyết của mình ra mà bênh vực, để đả thuyết của một người khác, như lớp học của Mặc tử chẳng hạn. Tôi thích tư tưởng ông ngồi ở dưới hiên một buổi chiều đẹp gẩy từng tưng cây đàn cầm hay cây đàn sắt, có khi cao hứng hát lên một điệu nữa, còn Nhan Hồi, Tử Lộ, Tử Cống, Mẫn Tử |
Khiên… thì mỗi người ngồi một nơi, chăm chỉ nhìn nét mặt ông, lắng tai nghe mà mỉm cười. Hoặc thầy trò lang thang ở Trần, ở Thái, ngồi nghỉ trên một bờ suối, dưới bóng mát, môn sinh kẻ đi nấu ăn, người đi giặc áo cho ông, ăn xong rồi người ngâm thơ, người gẩy đàn, rồi thình lình ông bảo họ: Các con kể ý chí cho thầy nghe nào. Tử Lộ thì mong có xe đi, có ngựa để cưỡi, có áo lông cừu mịn để mặc, và chia sẻ cùng các bạn; Nhan Uyên khiêm tốn, chỉ mong không khoe khoan những điều thiện của mình (Công Dã Tràng – 25); Tử Cống thì mong buôn bán để làm giàu; Tử Du mong cai trị một ấp nhỏ mà thực hiện đạo của thầy. Họ đáp xong rồi, Tử Lộ hỏi lại ông: Chúng con xin được nghe chí nguyện của thầy. Thầy muốn cho người già cả được an vui, bạn bè tin nhau, còn bọn trẻ được nuôi nấng dạy dỗ[300]. (Công Dã Tràng). Nghĩa là ông mong xã hội bình trị, mọi người đủ ăn, thân ái với nhau, trẻ con được âu yếm. Thật bình dị, mà tới nay, non hai ngàn năm rưỡi rồi, vẫn chưa ai thực hiện được. Có sống vào thời này, thấy những ông già bảy chục tuổi phải làm chật vật để cưu mang con cháu làm quân nhân hay công chức, thấy những đứa trẻ “bụi đời” lang thang ở vỉa hè Saigon[301] vì không nơi nương tựa, còn người lớn thì chia rẽ, chém giết nhau vì đồng tiền, vợ chồng cũng không tin nhau được, chúng ta mới cảm thấy tất cả sự thâm thuý của lời Khổng tử. |
Tính tình, tư cách, tư tưởng của ông như vậy cho nên môn đệ ngưỡng mộ ông vô cùng. Ở trên tôi đã dẫn lời Nhan Hồi thán phục ông. Dưới đây tôi dẫn thêm mấy lời của Tử Cống nữa. Tử Cống làm quan ở nước Lỗ, nước Vệ, khéo kinh doanh, lại có tài biện thuyết, cho nên được Thúc tôn Võ Thúc, một đại phu nước Lỗ khen là tài giỏi, hiền đức hơn Khổng tử. Có người kể lại lời đó cho Tử Cống hay, Tử Cống bảo: Thúc tôn Võ Thúc nói bậy. Lấy vách tường cung thất ra làm thí dụ. Bức tường của tôi chỉ cao tới vai, nên đứng ngoài tường trông vào người ta có thể thấy đồ vật tốt đẹp ở bên trong; còn vách tường của thầy tôi cao mấy nhẫn[302], nếu không được vào, chỉ đứng ngoài tường thì không thấy được những đồ hoa mĩ trong tôn miếu, những đồ trang sức của bá quan. (Tử Trương – 23). Một người nữa, Trần Tử Cầm (có sách nói là môn đệ Khổng tử, có sách nói là môn đệ Tử Cống, nhưng không dẫn chứng), cũng phục Tử Cống lắm, cho rằng Khổng tử không hơn gì Tử Cống. Tử Cống mắng liền: Người quân tử nói một lời được người ta khen là khôn, nói một lời bị người ta chê là ngu, cho nên lời nói không thể không thận trọng. Thầy chúng ta không ai có thể theo kịp, cũng như Trời, không ai bắt thang mà lên tới được. (Tử Trương – 25)[303]. Trong lịch sử nhân loại, tôi không thấy một nhà giáo nào được ca tụng như Khổng tử. Mà cũng không có nhà giáo nào được học trò thương tiếc như ông. |
Chương 6 VẠN THẾ SƯ BIỂU Năm 480, trong một cuộc đảo chính ở Vệ, Tử Lộ vì hiếu dũng, chống với phe đảo chánh, nên bị bất đắc kì tử, đúng như lời tiên đoán của Khổng tử. Từ đó Khổng tử đau yếu dần. Bá Ngư, tức Khổng Lí, và Nhan Hồi chết cả rồi. Các môn sinh thân nhất của ông chắc chỉ còn ít người. Qua năm sau, một hôm Tử Cống tới thăm ông, thấy ông chống gậy, dạo bước ở trước cửa. Thấy Tử Cống, ông ngửng đầu lên, bảo: Tứ, sao anh tới trễ vậy? Rồi ông thở dài, hát: Núi Thái Sơn sắp sụp, Ông rớt nước mắt, nói với Tử Cống: Thiên hạ loạn từ lâu mà không một ông vua nào chịu theo lời khuyên của thầy. Thầy sắp đi đây[304]. Bảy ngày sau, ông mất ở Lỗ, vào tháng tư năm thứ 16 đời vua Ai Công nước Lỗ ( 479), hưởng thọ 73 tuổi (tính theo Tây là 72). Vua quan nước Lỗ và môn đồ làm lễ táng ông rất trọng hậu. Ai Công gửi lời điếu, có câu: “Trời không thương quả nhân, mới cướp của quả nhân bậc hiền nhân đó đi. Quả nhân nay cô độc mà lại bệnh tật, một mình trị nước, không được ai giúp đỡ. Lòng quả nhân thật đau xót!”. Tử Cống trách: Lúc phu tử sống thì nhà vua không dùng, bây giờ phu tử mất thì nhà vua gửi lời điếu! Người ta mai táng Khổng tử ở trên bờ con sông Tứ, phía Bắc kinh thành nước Lỗ, hiện nay ở huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông. Mộ Khổng tử[305] Nguồn: Môn đồ để tang ba năm, mãn tang họ họp nhau lần cuối cùng ở trước mộ để khóc ông rồi mới chia tay nhau mỗi người |
đi một nơi. Tâm trạng đó ra sao? Chắc họ đau lòng hơn là từ biệt gia đình họ. Riêng Tử Cống còn ở lại trong một căn nhà lá để giữ mộ thầy thêm ba năm nữa. Khi Tử Cống đi rồi, không khí bên cũng không lạnh lẽo vì trên trăm gia đình lần lần đến cất nhà ở gần mộ, họp thành một làng gọi là Khổng Lí. Khu đất chôn ông rộng một trăm mẫu – mỗi mẫu hồi đó vào khoảng 660 mét vuông – giữa cất một ngôi miếu để thờ ông và bảo tồn y phục, đồ dùng, đàn, sách, xe của ông. Ông chỉ có mỗi một người con trai, cậu Lí, tư cách trung bình. Nhưng Lí sinh được một người con có tài đức, tên là Cấp, tự là Tử Tư, tác giả cuốn Trung dung, diễn được một phần thâm thuý trong tư tưởng của ông. Bọn môn sinh khi từ biệt nhau rồi, đi khắp các nước truyền bá đạo của thầy. Một số như Tăng Sâm, Tử Hạ, Tử Trương, Trọng Cung… theo gót thầy, mang theo một bản các kinh của ông để mở trường dạy học, do đó mà tư tưởng trong lục kinh lần lần nhiễm sâu vào tâm hồn dân tộc Trung Hoa. Trong số môn sinh đó, Tăng Sâm có công nhất nhờ viết cuốn Đại học và cuốn Hiếu kinh, điều đó, hồi còn sống, Khổng tử chắc không ngờ được. Những người con làm vẻ vang cho gia đình, hồi trẻ thường ít được cha mẹ lưu ý tới. Tăng Tử đã nắm được cái lí nhất quán – là trung thứ – của thầy, trong chương đầu Đại học lại vạch được mục đích của đạo Khổng và bắt cho ta chiếc thang để leo lên. |
Chương đó ai cũng biết, nhưng tôi cũng xin chép lại dưới đây một đoạn vì nó quan trọng đối với Khổng giáo cũng như thuyết bát chánh đối với Phật giáo. thì trước hết phải có trí thức xác đáng. Trí thức xác đáng ở chỗ xét kĩ mọi vật”. Phật khuyên phải chính kiến, chánh tư duy, chính ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh tiến, chánh định, thì đại khái cũng như Khổng nói phải chánh tâm, thành ý, trí tri. Một số môn sinh khác rán thi hành đạo của thầy về chính trị, mặc dầu không thực hiện được gì lớn lao, không được vua chúa nghe nhưng vẫn được họ trọng, và chủ trương “lấy đức trị dân” thành một lí tưởng chính trị, tuy cuối thời Chiến Quốc bị bọn pháp gia như Hàn Phi cho là sai, nguy hại, nhưng từ đời Hán trở đi lại được đề cao, dù chỉ đề cao ngoài miệng. Lần lần, những lời của Khổng tử, khuyên bảo khen mắng, hay đàm đạo với môn sinh được họ coi là châm ngôn, tới nỗi trước khi bàn về một vấn đề gì, họ cũng bắt đầu bằng hai chữ: “Tử viết” (Thầy dạy rằng), cũng như trước kia, người ta bắt đầu bằng hai chữ: “Thi vân” (Kinh Thi có câu). Một số môn đệ chép những lời đó lại truyền cho học trò, con cháu, rồi trong bọn này có người gom lại thành bộ Luận ngữ. Non bốn trăm năm sau khi ông mất, Tư Mã Thiên chép lại đời ông mà vô cùng xúc động: “Tôi đọc sách Khổng tử, tưởng tượng hình dáng, tư cách của ngài. Rồi khi tới nước Lỗ, tôi nhìn xe, áo, lễ khí trong miếu của ngài, nhận xét các môn sinh học lễ ở nhà ngài, mà lưu luyến không muốn rời chân. Các quân vương, hiền nhân trong thiên hạ không phải là ít, còn sống thì vinh quang, chết rồi là hết. Duy có Khổng tử là người áo vải, tới nay đã trên mười đời, vẫn được các học giả (trỏ các nhà Nho) tôn sùng. Ở Trung Quốc, từ bậc |
thiên tử, vương hầu trở xuống, hễ bàn tới lục nghệ (tức lục kinh) đều lấy ngài làm tiêu chuẩn. Ngài thật đáng là bậc chí thánh”. Ở thời đó, Tư Mã Thiên chưa nhận định được hết ảnh hưởng vĩ đại của Khổng tử. Ngoài cái công mở truyền thống dạy tư, bình dân hoá giáo dục, chính trị hoá giáo dục, đạo đức hoá chính trị, gây phong trào thầy trò cùng nhau đi du thuyết các nước chư hầu, nêu gương trứ thư lập ngôn cho người sau, như tôi đã trình bày ở trên, Khổng tử còn tạo được cho Trung Quốc một giai cấp mới, gọi là kẻ sĩ. Trước ông đã có một số người tài giỏi trong giai cấp bình dân nhảy lên được địa vị cao, như Bách Lí Hề, Quản Trọng, Ninh Thích… nhưng từ ông trở đi, số kẻ sĩ đó mới mỗi ngày một đông, cuối thời Chiến Quốc họ thành một giai cấp có thế lực mạnh và qua đời Hán thì họ hoàn toàn thắng giai cấp quí tộc trong các địa vị quan trọng ở triều đình. Phần tinh hoa trong giai cấp đó, giữ được tinh thần của Khổng tử: liêm khiết, cương trực, “bang hữu đạo tắc hiện”, ra làm quan giúp đời, “bang vô đạo tắc ẩn” [306], lui về vườn dạy học, cố giữ tiết tháo của người quân tử, thành một giới đặc biệt, không có tại một nền văn minh nào khác trên thế giới, tức giới sĩ phu, cao quí mà vẫn bình dân, nghèo mà được trọng hơn vua chúa, không có một đặc quyền mà uy tín rất lớn trong dân gian, không có tổ chức mà lại chặt chẽ, trường tồn hơn tất cả các giai cấp khác, nửa thế kỉ trước vẫn còn ở Việt Nam. Tôi bồi hồi nhớ |
lại lớp học của một cụ đồ Nho vô danh, bác tôi, tại một làng hẻo lánh ở Sơn Tây, làng Phương Khê, cách đây mới trên bốn mươi năm. Không khí trong lớp học của cụ chính là không khí trong lớp Khổng tử tôi đã tả trong một đoạn trên: môn sinh cũng vừa kính, vừa yêu cụ, thầy trò cũng thân mật với nhau như thầy trò Khổng tử. Tại sao cách hai mươi bốn thế kỉ mà lại giống nhau như vậy, trong khi bao nhiêu ảnh hưởng khác của Trung Hoa về âm nhạc, kiến trúc… thì mỗi ngày một phai? Càng suy nghĩ tôi càng tin rằng chỉ nhờ bộ Luận ngữ: Khi các nhà Nho của ta thuộc lòng bộ đó từ hồi trẻ, rồi ngày nào cũng đem ra dạy học suốt ba chục năm, thì tự nhiên thấm nhuần tư tưởng trong đó và bất giác hành động như nhân vật trong đó. Ngoài ra tôi không thấy có lí do nào khác để giảng được nữa. Khổng học ngày nay đã tàn. Chính vì vậy mà tôi muốn tìm hiểu thêm nó, quyến luyến với nó. CÁC BÀI TRONG LUẬN NGỮ NÓI VỀ VIỆC HỌC Chữ học trong đạo Khổng tử có nghĩa là tu thân, luyện trí để giúp nhà, giúp nước, cho nên có thể bảo bất kì bài nào trong Luận ngữ, cả những bài nói về chính trị, về tư cách người quân tử, đều liên quan tới việc học cả; chép hết tức là dịch trọn bộ Luận ngữ, cho nên ở đây tôi chỉ lựa một số bài trực tiếp xét về việc học thôi. HỌC NHI 1 學而時習之,不亦說乎?有朋自遠方來,不亦樂乎?人不知而不慍,不亦君 子 乎? Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ? Nhân bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ? |
Học mà mỗi buổi tập, chẳng cũng thích ư? Có những bạn cùng chí hướng ở xa lại cùng bàn bạc về đạo, chẳng cũng vui ư? Nhưng nếu không ai biết tới mình, mình cũng không buồn giận, như vậy mới là quân tử. HỌC NHI 6 弟子入則孝,出則悌,謹而信,汎愛眾而親仁。行有餘力則以學文。 Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái[307] chúng nhi thân nhân; hành hữu dư lực tắc dĩ học văn. Kẻ đệ tử cư xử hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng bậc huynh trưởng, làm việc thì cẩn thận và để cho người ta tin cậy, thương tất cả mọi người mà thân cận với người nhân đức. Được như vậy rồi, nếu còn dư sức thì hãy học lục nghệ[308]. HỌC NHI 14 君子食無求飽,居無求安,敏於事 而慎於言,就有道而正焉,可謂好學也 已。 Quân tử, thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫn ư sự nhi thận ư ngôn, tựu hữu đạo nhi chính yên, khả vị hiếu học dã dĩ. Người quân tử miễn có ăn, có chỗ thì thôi (không cần sướng miệng, sang trọng), siêng năng làm việc, thận trọng lời nói, tìm người đạo đức để noi theo mà sửa mình; được như vậy mới đáng gọi là người ham học. VI CHÍNH 11 溫故而知新,可以為師矣。 Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ. Ôn lại những điều cũ mà biết được điều mới, như vậy có thể làm thầy. VI CHÍNH 15 學而不思則罔,思而不學則殆。 Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi. Học mà không suy nghĩ thì không hiểu được gì, suy nghĩ mà không học thì nguy hại[309]. VI CHÍNH 18 子張學干祿。子曰:多聞,闕疑,慎言其餘則寡尤。多見,闕殆,慎行其餘 則寡悔。言寡尤,行寡悔,祿在其中矣。 Tử Trương học can lộc. Tử viết: “Đa văn, khuyết nghi, thận ngôn kì dư, tắc quả vưu. Đa kiến[310], khuyết đãi, thận hành kì dư, tắc quả hối. Ngôn quả vưu, hạnh[311] quả hối, lộc tại kì trung hĩ”. |
Tử Trương muốn học để làm quan, được bổng lộc. Khổng tử bảo: “Nên nghe cho nhiều, điều gì còn nghi ngờ thì để đó, đừng nói, còn những điều đã biết chắc thì cũng thận trọng lời nói, như vậy sẽ ít bị người ta trách. Nên thấy nhiều, những gì chưa biết rõ thì để đó, đừng làm, còn những điều đã biết rõ thì cũng phải cẩn thận trong việc làm, như vậy sẽ ít phải ăn năn. Lời nói thì ít bị người ta trách, việc làm thì ít phải ăn năn, như vậy tự nhiên sẽ có bổng lộc”. BÁT DẬT 15 子入太廟,每事問。 Tử nhập thái miếu, mỗi sự vấn. Khổng tử vào thái miếu, thấy việc gì cũng hỏi. CÔNG DÃ TRÀNG 13 子路有聞,未之能行,唯恐有聞。 Tử Lộ hữu văn, vị chi năng hành, duy khủng hữu văn. Tử Lộ nghe được điều gì mà chưa kịp thi hành được thì sợ được nghe thêm điều khác nữa. CÔNG DÃ TRÀNG 14 子貢問曰:孔文子何以謂之文也? 子曰:敏而好學,不聇[312]下問,是以謂之文也。 Tử Cống vấn viết: “Khổng Văn tử hà dĩ vị chi Văn dã?” Tử viết: “Mẫn nhi hiếu học, bất sỉ hạ vấn, thị dĩ vị chi Văn dã”. Tử Cống hỏi: “Ông Khổng Văn tử sao được đặt tên thuỵ[313] là Văn?” Khổng tử đáp: “Ông ấy minh mẫn mà lại ham học, chịu hỏi người kém hơn mình mà không lấy làm thẹn, cho nên được đặt tên thuỵ là Văn”. CÔNG DÃ TRÀNG 27 子曰:十室之邑,必有忠信如丘者焉,不如丘之好學也。 yên, bất như Khâu chi hiếu học dã”. Khổng tử nói: “Trong một ấp có mười nhà tất có người trung tín như Khâu này, nhưng chẳng có ai ham học như Khâu này đâu”. UNG DÃ 2 哀公問:弟子孰爲好學?孔子對曰:有顏回者好學,不遷怒,不貳過。不幸 短命死矣,今也則無[314],未聞好學者也。 “Hữu Nhan Hồi giả hiếu học, bất thiên nộ, bất nhị quá. Bất hạnh đoản mệnh tử hĩ, kim dã tắc vô, vị văn hiếu học giả dã”. |
Ai Công hỏi: “Trong số đệ tử của thầy, ai là người ham học?” Khổng tử đáp: “Có Nhan Hồi ham học, anh ấy không giận lây, không mắc tới hai lần một lỗi; chẳng may anh ấy chết sớm; nay không còn ai nữa, tôi chưa được nghe nói có ai là người ham học”. UNG DÃ 10 冉求曰:非不說子之道,力不足也。子曰:力不足者,中道而廢。今女畫。 viết: “Lực bất túc giả, trung đạo nhi phế, kim nhữ hoạch”. Nhiễm Cầu thưa: “Không phải con không ham đạo của thầy, nhưng sức con không đủ để theo. Khổng tử bảo: “Sức không đủ thì bỏ nửa chừng; còn anh thì vạch sẵn mức đường, tới đó ngừng lại”. UNG DÃ 18 知之者不如好之者,好之者不如樂之者。 Tri chi giả bất như hiếu chi giả; hiếu chi giả bất như lạc chi giả. Biết đạo không bằng ham đạo; ham đạo không bằng vui theo đạo. UNG DÃ 25 君子博學於文,約之以禮,亦可以弗畔矣夫! Quân tử bác học ư văn[315], ước chi dĩ lễ, diệc khả dĩ phất bạn hĩ phù! Người quân tử học rộng về lục nghệ, dùng lễ kiềm thúc mình, như vậy có thể khỏi trái đạo. THUẬT NHI 3 德之不修,學之不講,聞義不能徒,不善不能改,是吾憂也。 Đức chi bất tu, học chi bất giảng, văn nghĩa bất năng tỉ, bất thiện bất năng cải, thị ngô ưu dã. Đạo hạnh không trao giồi, học vấn không tinh tường, nghe được điều nghĩa mà không làm theo, có điều chẳng phải mà không sửa đổi, đó là những điều ta lấy làm lo. THUẬT NHI 8 不憤不啟,不悱不發。擧一隅不以三隅反,則不復也。 Bất phẫn bất khải, bất phỉ bất phát. Cử nhất ngung bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục dã. Kẻ nào không hăng hái muốn hiểu thì ta không thể giúp cho hiểu được; kẻ nào không rán tỏ ý kiến thì ta không thể giúp cho phát biểu ý kiến được. Ta vén lên cho một góc mà chẳng tự tìm |
được ba góc kia thì ta không giảng thêm cho nữa. THUẬT NHI 16 加我數年卒以學易,可以無大過矣。 Gia ngã sổ niên tốt dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá hĩ. Nếu Trời cho ta sống thêm ít tuổi nữa để ta học thêm đạo Dịch[316], thì ta có thể không mắc những lỗi lớn. THUẬT NHI 21 三人行,必有我師焉:擇其善者而從之,其不善者而改之。 Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên: trạch kì thiện giả nhi tòng chi, kì bất thiện giả nhi cải chi. Ba người cùng đi đường với mình, thì thế nào cũng có người làm thầy cho mình: người thiện thì mình noi gương, người không thiện thì coi đó mà sửa lỗi của mình. THÁI BÁ 12 三年學,不至於穀,不易得也。 Tam niên học, bất chí ư cốc, bất dị đắc dã. Khó thấy được một người học ba năm mà không có ý cầu bổng lộc. THÁI BÁ 17 學如不及,猶恐失之。 Học như bất cập, do khủng thất chi. Phải rán học như sợ không kịp, như sợ mình bỏ lỡ mất. TỬ HÃN 4 子絕四:毋意,毋必,毋固,毋我。 Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã. Khổng tử rán tránh bốn tật này: 1 “vô ý” nghĩa là xét việc gì, không đem ý riêng của mình vào mà cứ theo lẽ phải; 2 “vô tất”, tức không quyết rằng điều đó tất đúng hoặc việc đó tất làm được; 3 “vô cố”, tức không câu nệ, cố chấp; 4 “ vô ngã”, tức phải quên mình đi, đừng để cái “ta” làm mờ ám. TỬ HÃN 18 譬如爲山,未成一簣,止,吾止也。譬如平地,雖覆一簣,進,吾往也。 Thí như vi sơn, vị thành nhất quĩ, chỉ, ngô chỉ dã. Thí như bình địa, tuy phúc nhất quĩ, tiến, ngô tiến dã. Tỉ như đắp núi, chỉ còn một sọt nữa là xong mà ngừng, là tại ta muốn bỏ dở vậy. Tỉ như lấp cái vũng (cho thành đất bằng)[317], tuy mới đổ xuống một sọt đất, mà đổ tiếp, là tại ta muốn làm tới vậy. |
TỬ HÃN 30 唐棣之華,偏其反而。豈不爾思,室是遠而。 子曰:未之思也,未何遠之有? Đường lệ chi hoa, thiên kì phiên nhi. Khởi bất nhĩ ti, thất thị viễn nhi. Tử viết: “Vị chi tư dã, phù hà viễn chi hữu?” Đọc bốn câu này trong Kinh Thi: Hoa đường lệ kia Lay động dưới gió, Ta nhớ ai lắm chứ Nhưng xa không tới được. Khổng tử bảo: “Như vậy là chưa thật nhớ, thật nhớ thì đâu có ngại xa”. (Ý nói: chưa thật mộ đạo thì mới không chịu gắng công; nếu thật mộ đạo thì đâu có ngại khó – Nên so sánh bài này với bài Ung dã – 10 ở trên). TIÊN TIẾN 24 子路使子羔爲費宰。子曰:賊夫人之子。 子路曰:有民人焉,有社稷焉,何必讀書然後爲學? 子曰:是故惡夫佞者。 Tử Lộ sử Tử Cao vi Phí tể. Tử viết: “Tặc phù nhân chi tử”. Tử Lộ viết: “Hữu dân nhân yên, hữu xã tắc yên, hà tất độc thư nhiên hậu vi học?” Tử viết: “Thị cố ố phù nịnh giả”. Tử Lộ (làm gia thần họ Quí ở Lỗ) dùng Tử Cao làm quan Tể cai trị đất Phí. Khổng tử mắng: “Anh làm hại con người ta” (tức hại dân đất Phí, vì Tử Cao là người không có học)[318]. Tử Lộ thưa: “Cai trị có nhân dân, cúng tế thần đất đai, mùa màng (thì cũng là học); hà tất phải đọc sách rồi mới gọi là học”. Khổng tử bảo: “Thế cho nên ta ghét kẻ mồm mép nói càn” (để tự biện hộ cho mình). TỬ LỘ 5 誦詩三百,授之以政,不達;使於四方,不能專對雖多,亦奚以爲? Tụng Thi tam bách, thụ chi dĩ chính, bất đạt; sứ ư tứ phương, bất năng chuyên đối. Tuy đa, diệc hề dĩ vi? Học hết ba trăm bài Kinh Thi, giao cho việc trị dân mà không được việc; sai đi sứ bốn phương mà không biết ứng đối, thì tuy |