id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
19850830
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tu%E1%BB%87%20phi%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Tuệ phi (định hướng)
Tuệ phi (chữ Hán: 慧妃) là tên vợ lẽ của hoàng đế Trung Quốc. Tuệ phi Hoa Nhị phu nhân Thục Thận Hoàng quý phi
19850831
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ammer%C3%B6n
Ammerön
Ammerön là hòn đảo lớn thứ 19 của Thụy Điển. Nằm ở hồ Revsundssjön. Tham khảo
19850840
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%B9%20sao%20Tr%C3%A1i%20%C4%90%E1%BA%A5t%20v%E1%BA%ABn%20quay
Dù sao Trái Đất vẫn quay
"Dù sao Trái Đất vẫn quay" (tiếng Ý: E pur si muove hoặc Eppur si muove ; dịch trực tiếp: Dù sao nó vẫn chuyển động) là một câu nói được cho là của nhà toán học, nhà vật lý học và triết gia Galileo Galilei (1564-1642) vào năm 1633 sau khi ông bị buộc phải công khai rút lại sự ủng hộ của mình với thuyết nhật tâm, rằng Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời. Ở đây, hàm ý của câu nói này là: bất chấp việc ông phải rút lại sự ủng hộ của mình với thuyết nhật tâm, phán quyết của Tòa án dị giáo Rôma, hay bất kì học thuyết hay niềm tin nào của con người, Trái Đất vẫn chuyển động quanh Mặt Trời, chứ không phải ngược lại. Lịch sử Theo Stephen Hawking, một số sử gia cho rằng sự kiện này đã xảy ra khi Galileo được chuyển đi từ quản thúc tại gia vĩnh viễn dưới sự giám sát của Tổng giám mục Ascanio Piccolomini đến "một căn nhà khác trên một ngọn đồi ở Firenze". Căn nhà này cũng thuộc quyền sở hữu của ông, biệt thự Villa Il Gioiello ở Arcetri. Cuốn tiểu sử đầu tiên về Galileo, do Vincenzo Viviani, học trò của ông, viết vào năm 1655-1656, không hề nhắc đến câu nói này, và những bản ghi chép từ phiên tòa của ông cũng không đề cập đến nó. Một số tác giả cho rằng việc Galileo nói điều đó trước Tòa án dị giáo Rôma nếu có xảy ra là rất bất thận trọng. Sự kiện này được ghi lại lần đầu tiên bằng tiếng Anh vào năm 1757 bởi Guiseppe Baretti trong sách The Italian Library, hơn một thế kỷ sau khi Galileo đã qua đời:Lúc được trả tự do, ông nhìn lên trời rồi nhìn xuống đất, giẫm chân và nói trong sự trầm ngâm, Eppur si muove, nghĩa là, dù sao Trái Đất vẫn quay.Sách này được xuất bản trong cuốn Querelles Littéraires năm 1761. Vào năm 1911, cụm từ "E pur si muove" được tìm thấy trên một bức tranh thuộc sở hữu của nhà sưu tầm nghệ thuật Jules van Belle từ Roeselare, Bỉ. Bức tranh này được vẽ vào năm 1643 hoặc 1645 (chữ số cuối của năm vẽ không đọc được rõ), trong vòng một hoặc hai năm từ khi Galileo qua đời. Chữ ký trên tranh cũng không rõ nhưng van Belle cho rằng tác giả là một họa sĩ người Tây Ban Nha ở thế kỷ 17 tên là Bartolomé Esteban Murillo. Có vẻ như bức tranh này chứng minh rằng một dị bản của câu chuyện về câu nói "Eppur si muove" đã được lan truyền ngay sau khi ông chết, khi mà những người gần gũi với ông vẫn còn sống để có thể xác thực câu chuyện, và câu chuyện đã được lan truyền hơn một thế kỷ trước khi được ghi lại trong sách vở. Tuy nhiên, bức tranh này được phát hiện là gần giống y hệt với một bức tranh khác được vẽ vào năm 1837 bởi Eugene van Maldeghem, và các chuyên gia nghệ thuật nghi ngờ rằng bức tranh của van Belle không phải do Murillo vẽ, thậm chí họ còn nghi ngờ rằng bức tranh này không được vẽ trước thế kỳ 19. Thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ Antonin Scalia được đồn là đã trao các giải thưởng "E pur si muove" cho những thẩm phán tòa án quận bị tòa phúc thẩm hủy bản án nhưng sau đó được chấp nhận bởi Tòa án Tối cao. Tham khảo Galileo Galilei Cách mạng Copernic Bất đồng chính kiến
19850853
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n%20gi%E1%BA%A3i%20ph%C3%B3ng%20%28b%C3%A1o%29
Quân giải phóng (báo)
Tờ Quân giải phóng (mật danh A4) là cơ quan ngôn luận của Bộ tư lệnh Miền, trực thuộc Phòng Chính trị Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Được thành lập từ năm 1963 sau quyết định của Ban Quân sự Miền trực thuộc Trung ương Cục miền Nam, nhằm tuyên truyền về các chủ trương và hoạt động của Quân giải phóng tại miền Nam Việt Nam. Lịch sử Trong bối cảnh Hoa Kỳ đang thực hiện chiến lược Staley–Taylor. Ngày 2 tháng 1 năm 1936, sự kiện Quân giải phóng đánh bại cuộc hành quân của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tại trận Ấp Bắc, đã gây nên phong trào kháng chiến trên toàn miền Nam Việt Nam suốt một thời gian dài. Để kích động tinh thần, Ban Quân sự Miền quyết định xuất bản một tờ báo cho lực lượng vũ trang. Ngày 25 tháng 3 năm 1963, trong hội nghị tại căn cứ Trảng Chiên, Trưởng Ban Quân sự Miền Trần Nam Trung phổ biến chủ trương thành lập tờ Quân giải phóng. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 2 tháng 8 năm 1963, Chủ nhiệm Chính trị Lê Văn Tưởng triệu tập hội nghị nhằm xác định chủ trương, thành phần, cơ chế duyệt bài và phân công nhiệm vụ: Tờ Quân giải phóng (mật danh A4) sẽ trực thuộc Phòng Chính trị, do Trưởng ban Tuyên huấn Lê Đình Lệ phụ trách. Hòm thư mang số hiệu 1820B, Võ Thành Liên và Trần Nam Hương phụ trách thường trực tòa soạn. Với vị thế là "tiếng nói của lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam", tờ sẽ thay đổi chủ đề tùy vào thời điểm nhằm tuyên truyền chủ trương của Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền. Các chuyên mục của tờ bao gồm bình xã luận, thời sự, phóng sự, thơ, biếm họa, cổ động và thơ văn. Ngoài hệ thống cộng tác viên từ các tổ chức khác, Phòng Chính trị; trong Ban Tuyên huấn (bao gồm Huấn học–mật danh A1; Tuyên truyền–A2; Ban chuyên trách–A5; tờ Văn nghệ Quân giải phóng–A6) quy định tất cả nhân sự thuộc Phòng phải có trách nhiệm viết bài cho báo, mỗi bộ phận sẽ được giao nhiệm vụ khác nhau. A1 viết về chính trị, A2 viết về chiến sự, A5 viết xã bình luận. A6 phụ trách mục văn nghệ và thành lập nhà in sau này. Báo gồm 4 trang khổ 27x39 centimet, tùy vào trường hợp đặc biệt sẽ nâng lên thành 6, 8 hoặc 12 trang. Số đầu tiên chính thức được phát hành vào ngày 1 tháng 11 năm 1963. Tham khảo Nguồn
19850857
https://vi.wikipedia.org/wiki/Steven%20Zucker
Steven Zucker
Steven Mark Zucker (12 tháng 9 năm 1949 – 13 tháng 9 năm 2019) là một nhà toán học người Mỹ, người đã đưa ra giả thuyết Zucker. Giả thuyết mà ông đưa ra đã được chứng minh theo những cách khác nhau bởi Eduard Looijenga (1988) và Leslie Saper cùng với Mark Stern (1990). Zucker hoàn thành chương trình Tiến sĩ vào năm 1974 tại Đại học Princeton với sự hướng dẫn của Spencer Bloch. Ông đã nghiên cứu với David A. Cox và tạo ra Máy Cox–Zucker. Ông làm việc tại Khoa Toán học tại Đại học Johns Hopkins. Năm 2012, ông trở thành hội viên của Hội Toán học Hoa Kỳ. Thư mục Saper, Leslie; Stern, Mark L2-cohomology of arithmetic varieties, Annals of Mathematics (2) 132 (1990), no. 1, 1–69. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1949 Mất năm 2019 Nhà hình học đại số Cựu sinh viên Đại học Princeton Giảng viên Đại học Johns Hopkins Thành viên Hội Toán học Hoa Kỳ Nhà toán học Mỹ thế kỷ 20 Nhà toán học Mỹ thế kỷ 21 Nhà toán học Maryland Nhà khoa học Baltimore
19850860
https://vi.wikipedia.org/wiki/Talia%20Zucker
Talia Zucker
Talia Zucker là một nữ diễn viên người Úc. Tiểu sử Cô thủ vai Claire Jardine trong loạt phim Dirt Game của ABC cùng với Joel Edgerton và Gerald Lepkowski năm 2009. Cô xuất hiện với vai trò khách mời trong bộ phim truyền hình City Homicide của Úc và thủ vai chính trong loạt phim thiếu nhi Scooter: Secret Agent và Legacy of the Silver Shadow. Cô thủ vai nhân vật Erin Perry trong vở kịch xà phòng Neighbours năm 2003 và xuất hiện trong loạt phim nổi tiếng của Úc Blue Heelers. Cô thủ vai Sarah Wicks trong bộ phim Ned Kelly có sự tham gia của Heath Ledger. Năm 2008, Talia tham gia vào bộ phim Lake Mungo do Joel Anderson đạo diễn trong vai Alice Palmer. Năm 2018, cô đã tự mình chỉ đạo sản xuất bộ phim ngắn đầu tiên. Sự nghiệp điện ảnh Loạt phim Tham khảo External links Năm sinh thiếu (nhân vật còn sống) Nơi sinh thiếu (nhân vật còn sống) Nhân vật còn sống Nữ diễn viên điện ảnh Úc Nữ diễn viên truyền hình Úc
19850875
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zuckerkandl%20%28phim%29
Zuckerkandl (phim)
Zuckerkandl là một bộ phim hoạt hình năm 1968 của đạo diễn John Hubley. Bộ phim được lồng tiếng bởi Robert Maynard Hutchins, cựu chủ tịch Đại học Chicago và hiệu trưởng Trường Luật Yale, sau này được chuyển thể thành một truyện tranh cùng tên. Bộ phim kể về nhà triết học giả tưởng Alexander Zuckerkandl, được coi là để chế giễu Sigmund Freud. Xem thêm Danh sách phim Mỹ năm 1968 Tham khảo Liên kết ngoài Zuckerkandl! tại Viện phim Vương quốc Liên hiệp Anh Discussion at Michael Sporn Animation Phim năm 1968 Phim hoạt hình Mỹ thập niên 1960 Phim giễu nhại Mỹ Phim về nhà triết học Phim do John Hubley đạo diễn Phim hài năm 1968 Người Áo hư cấu
19850904
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B9ng%20%C4%91%E1%BA%BF%20ch%E1%BA%BF%20Th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20Sachsen
Vùng đế chế Thượng Sachsen
Vùng đế chế Thượng Sachsen (tiếng Đức: Obersächsischer Reichskreis) là Vùng Hoàng gia của Đế quốc La Mã Thần thánh, được thành lập vào năm 1512. Vùng đế chế được thống trị bởi Tuyển hầu xứ Sachsen (điều hành vùng) và Tuyển hầu xứ Brandenburg. Nó còn bao gồm Các công quốc Ernestine của Sachsen và Công quốc Pomerania. Lusatia rơi vào tay Sachsen theo Hòa ước Praha (1635) chưa bao giờ thuộc vùng đế chế. Thành phần Vùng đế chế được tạo thành từ các nhà nước sau: Nguồn The List of states making up the Upper Saxon Circle is based on that in the German Wikipedia article Obersächsischer Reichskreis. Liên kết ngoài Imperial Circles in the 16th Century – Historical Maps of Germany Vùng đế chế Thượng Sachsen Vùng đế chế của Đế quốc La Mã Thần thánh
19850905
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93%20ho%C3%A0ng%20h%E1%BA%ADu
Hồ hoàng hậu
Hồ hoàng hậu () có thể là: Ngô hoàng hậu, Hoàng hậu duy nhất của Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế trong lịch sử Trung Quốc. Hồ hoàng hậu, hoàng hậu thứ hai của Bắc Tề Hậu Chủ Cao Vĩ trong lịch sử Trung Quốc. Hồ hoàng hậu, hoàng hậu của Bắc Tề Vũ Thành Đế trong lịch sử Trung Quốc. Hồ thái hậu, phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp chính dưới thời Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế trong lịch sử Trung Quốc. Cung Nhượng Chương Hoàng hậu, hoàng hậu thứ nhất của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ.
19850912
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20c%C3%B4ng%20qu%E1%BB%91c%20Ernestine
Các công quốc Ernestine
Các công quốc Ernestine (tiếng Đức: Ernestinische Herzogtümer), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm Weißenfels, Merseburg và Zeitz cũng là "các công quốc Sachsen" và liền kề với một số công quốc của nhánh Ernestine), là một nhóm nhỏ các nhà nước có số lượng đa dạng, phần lớn lãnh thổ nằm ở bang Thüringen ngày nay của Đức và được cai trị bởi các công tước thuộc dòng Ernestine của Nhà Wettin. Năm trong số các công quốc Ernestine là thành viên của Vùng đế chế Thượng Sachsen, vì thế có tư cách bỏ phiếu trong Đại hội Đế chế của Thánh chế La Mã, còn những công quốc không thuộc vùng đế chế thì không có tư cách bỏ phiếu, dù vẫn được quyền tự trị trong lãnh thổ của mình. Tuy nhánh Ernestine của Nhà Wettin là dòng chính, lúc đầu nắm quyền Tuyển hầu xứ Sachsen, sở hữu 1 trong 7 phiếu bầu ra Hoàng đế Thánh chế La Mã, nhưng sau chiến tranh Tin Lành, dòng thứ Albertin đã chiếm lấy quyền và lãnh thổ, đẩy dòng Ernestine xuống. Tuy nhiên về sau này, dòng Ernestine đã hôn phối với nhiều hoàng gia và được bầu lên ngai vàng của nhiều nước, trở thành vương tộc cai trị ở nhiều nơi, trong đó có Vương quốc Anh, Vương quốc Bồ Đào Nha, Vương quốc Bỉ, Vương quốc Bulgaria. Ngày nay, vương quốc Bỉ vẫn còn được cai trị bởi hậu duệ của dòng Ernestine, trong khi dòng Albertin đã mất ngai vàng từ năm 1918. Tổng quan Công quốc Sachsen bắt đầu bị phân mảnh vào thế kỷ XV do luật kế vị cũ của Đức chia quyền thừa kế cho tất cả các con trai. Ngoài ra, mọi con trai của công tước xứ Sachsen đều được thừa kế danh hiệu công tước. Hai anh em đôi khi cùng nhau cai trị lãnh thổ được thừa kế từ cha mình, nhưng đôi khi họ lại chia cắt nó. Một số công quốc Ernestine vẫn tồn tại riêng biệt cho đến năm 1918. Những hoạt động tương tự trong các dòng của Nhà Reuss và Schwarzburg đã khiến toàn bộ Thuringia trở thành một mớ các nhà nước nhỏ từ cuối thế kỷ XV cho đến đầu thế kỷ XX. Hình thành Sự phân chia Tiền Ernestine Nhằm trả công cho Bá tước xứ Ballenstedt là Albrecht Gấu (Albrecht der Bär) vì đã ủng hộ mình lên ngai vị, năm 1138, Vua La Mã Đức Konrad III đã phong cho Albrecht là Công tước Sachsen. Tuy nhiên, Albrecht không thể giữ được quyền lực của mình trước sự chống đối của thế lực ủng hộ cho vị công tước tiền nhiệm là Heinrich Kiêu hãnh (Heinrich der Stolze), đồng thời cũng là ứng viên thua cuộc của ngai vị Vua La Mã Đức. Tháng 5 năm 1142, con trai của Heinrich Kiêu hãnh là Heinrich Sư tử (Heinrich der Löwe) được Konrad III trả lại ngôi vị Công tước Sachsen. Năm 1156, Heinrich Sư tử cũng được vị tân đế Friedrich I trả lại xứ Bavaria. Tuy nhiên, vùng Ostmark, vốn là một phần của xứ Bavaria, thì vĩnh viễn bị tách rời, sau đó thành lập nên Công quốc Áo. Tuy nhiên, Heinrich Sư tử nhanh chóng xuất hiện mâu thuẫn với Friedrich I. Năm 1174, ông từ chối hỗ trợ Friedrich I trong một cuộc xâm lược mới vào xứ Lombardia. Sau khi trở về, lợi dụng sự thù địch của nhiều vương hầu Đức với Heinrich, Friedrich I xử vắng mặt Heinrich trong một phiên tòa chủ tọa gồm nhiều giám mục và vương hầu Đức năm 1180, tuyên bố rằng luật đế quốc có hiệu lực hơn luật cổ truyền Đức, xử phạt Heinrich bằng cách tước bỏ đất đai và đặt ông này ra ngoài vòng pháp luật. Công quốc Sachsen cũng bị chia thành nhiều lãnh địa nhỏ hơn. Tước vị Công tước Sachsen được trao lại cho con trai út của Albrecht Gấu là Bá tước Bernard xứ Ballenstedt. Trên thực tế, cái gọi là công quốc Sachsen của Bernard chỉ còn lại vùng lãnh thổ giữa xứ Meissen và xứ Brandenburg cùng với một số lãnh địa nhỏ: các thị trấn Aken, Wittenberg và Magdeburg. Năm 1189, nhân khi Friedrich I tham gia cuộc Thập tự chinh, Heinrich Sư tử quay trở lại Sachsen, huy động lực lượng trung thành và tái chiếm lại thành phố giàu có Bardowick. Tuy nhiên, con trai và người kế vị của của Friedrich I, Heinrich VI, một lần nữa đánh bại Heinrich Sư tử. Quá mệt mỏi vì những thất bại, năm 1194, Heinrich đã làm hòa với Hoàng đế. Ông được phép nhận lại vùng lãnh địa được thừa kế của mình. Theo đó, Công quốc Sachsen của Bernard bị cắt thêm vùng Braunschweig và phụ cận cho Heinrich, khu vực mà về sau hình thành nên Công quốc Braunschweig-Lüneburg. Sau khi Bernard qua đời, người con cả là Heinrich được thừa kế các lãnh địa cũ ở Ballenstedt cùng tước hiệu Bá tước Ascharia và Vương hầu ở Anahalt (comes Ascharie et princeps in Anahalt), còn người em trai Albrecht được nhận phần ba điền trang ở Ostfalen không liên kết về mặt lãnh thổ trên sông Elbe, xung quanh các thị trấn Wittenberg và Belzig cũng như quyền lãnh chúa phía bắc Lauenburg với Amt Neuhaus và Land Hadeln tại cửa sông Elbe cùng tước hiệu Công tước Sachsen (dux Saxoniae). Năm 1260, Công tước Albrecht I xứ Sachsen qua đời. Hai người con trai của ông là Johann và Albrecht đồng thừa kế tước vị Công tước Sachsen. Năm 1282, Công tước Johann I thoái vị, để cho 3 người con của ông là Johann, Erich và Albrecht đồng kế thừa tước vị Công tước Sachsen với người chú Albrecht II. Năm 1296, Albrecht II cùng các cháu trai mình thỏa thuận phân chia vùng lãnh địa cai trị chung Sachsen thành 2 công quốc riêng biệt là Sachsen-Lauenburg và Sachsen-Wittenberg. Theo kết quả phân chia, Công tước Albrecht II nhận được vùng lãnh địa Wittenberg xung quanh thành phố cùng tên, Brehna và Gommern. Do đó, Albrecht II trở thành ông tổ của dòng Sachsen-Wittenberg. Tuy nhiên, việc phân chia lãnh địa vẫn tồn tại một vấn đề: đó là đặc quyền của Tuyển hầu Sachsen. Sự tranh chấp này mãi đến năm 1356 mới kết thúc với Sắc chỉ Vàng, quy định đặc quyền Tuyển hầu thuộc về dòng Sachsen-Wittenberg. Khi Công tước Albrecht III của xứ Sachsen-Wittenberg qua đời mà không có người thừa kế vào năm 1422, Hoàng đế Sigismund đã trao quyền cai trị công quốc cho một người của nhà Wettin, Bá tước Friedrich Gây gổ (Friedrich der Streitbare) của xứ Meissen, do đó trở thành Friedrich I trở thành Tuyển hầu xứ Sachsen. Năm 1425, người anh em cuối cùng là Wilhelm II xứ Meissen qua đời, Friedrich I được thừa kế toàn bộ các lãnh địa của em mình. Từ đó, lãnh địa của Tuyển hầu Sachsen bao gồm toàn bộ những lãnh địa của nhà Wettin, ngoại trừ Thüringen. Mặc dù vậy, nhiều thành viên của nhà Wettin cai trị ở Thüringen cũng xưng là Công tước Sachsen do địa vị cáo quý truyền thống của nó. Sự hình thành các nhánh Ernestine và Albertine Sau cái chết của Tuyển hầu Friedrich II vào năm 1464, con trai lớn của ông là Ernst, trở thành Tuyển hầu mới của xứ Sachsen, còn Albrecht Dũng cảm (Albrecht der Beherzte), con trai út, cũng được chia sẻ tước hiệu Công tước Sachsen. Năm 1485, theo sự phân chia của Hiệp ước Leipzig, hai anh em phân chia tài sản của nhà Wettin, trong đó Ernst nhận được miền Bắc Meissen, miền Nam Thuringia và Wittenberg, còn Albrecht nhận miền Bắc Thuringia và miền Nam Meissen. Chính sự phân chia này đã hình thành nên 2 dòng Ernestine và Albertine. Nghiên cứu về danh sách các thành viên của Nhà Wettin sẽ tiết lộ nhiều thành phần khác nhau của nhà công tước và tài sản của họ. Lịch sử chi tiết về sự phân chia của dòng Ernestine Bảng Lịch sử Tuyển đế hầu Ernst qua đời năm 1486 và được kế vị bởi con trai ông là Friedrich Khôn ngoan. Leipzig, trung tâm kinh tế của Sachsen, đồng thời là trụ sở của trường đại học duy nhất ở Sachsen, nằm ở Albertine Sachsen. Vì muốn có một trường đại học trên vùng đất của mình để đào tạo các công chức và mục sư, Friedrich đã thành lập Đại học Wittenberg vào năm 1502. Chính tại đó, Martin Luther đã đăng 95 luận đề của mình. Friedrich bảo vệ Luther, từ chối dẫn độ ông về Lãnh địa Giáo hoàng để xét xử. Friedrich, giống như các Hoàng thân Đức khác, cho phép thực hiện các cải cách của Luther trên lãnh thổ của mình. Friedrich III mất năm 1525; ông được kế vị bởi em trai mình là John Kiên định (1525–1532). Johann là người lãnh đạo trong Liên đoàn các Thân vương Tin lành Schmalkaldic ở Đế chế La Mã Thần thánh. Johann qua đời năm 1532 và được kế vị bởi con trai của ông là Johann Friedrich I. Trong 10 năm đầu trị vì, Johann Friedrich I chia sẻ quyền cai trị Ernestine Sachsen với người em kế của mình là Công tử Johann Ernst, chính trở thành Công tước xứ Sachsen-Coburg, nhưng ông đã qua đời mà không có con. Johann Friedrich I ngày càng ủng hộ mạnh mẽ cuộc Cải cách Luther, trong khi Hoàng đế Karl V của Thánh chế La Mã tránh đối đầu trực tiếp với các hoàng thân theo đạo Tin lành, vì ông cần sự hỗ trợ của họ trong cuộc đấu tranh với Pháp. Karl cuối cùng đã đồng ý với Pháp và chuyển sự chú ý sang vùng đất Tin lành của Đế chế La Mã Thần thánh. Năm 1546, Liên đoàn Schmalkaldic đã thành lập một đội quân. Tuyển đế hầu Johann Friedrich dẫn quân của liên minh về phía Nam, nhưng ngay sau đó, em họ của ông là Công tước Moritz xứ Albertine Sachsen (Meissen), đã xâm chiếm lãnh thổ của ông. Johann Friedrich vội vã quay trở lại Sachsen, trục xuất Moritz khỏi vùng đất Ernestine, chinh phục Albertine Sachsen và tiến hành xâm lược Bohemia (do Ferdinand, em trai của Hoàng đế Karl V và vợ sau này là Anna xứ Bohemia và Hungary trực tiếp nắm giữ). Lực lượng của Karl đã đánh lui quân của Liên đoàn Schmalkaldic và đánh bại họ một cách dứt khoát trong Trận Mühlberg (1547). Johann Friedrich bị thương và bị bắt làm tù binh. Hoàng đế kết án tử hình ông ta vì tội nổi loạn, nhưng vẫn hoãn xử tử vì không muốn lãng phí thời gian để chiếm Wittenberg, được bảo vệ bởi vợ của Johann Friedrich là Sybille xứ Cleves. Để cứu mạng mình, Johann Friedrich đã nhượng bộ tại Thủ đô Wittenberg, rời bỏ ngôi vị Tuyển đế hầu và lãnh thổ của mình để ủng hộ người em họ Moritz xứ Albertine Sachsen lên thay, và hình phạt của ông được chuyển thành tù chung thân. Khi Tuyển đế hầu Moritz mới được đúc tiền, một lần nữa đổi phe, tấn công Hoàng đế Karl, Công tước Johann Friedrich được thả ra khỏi tù và được trao lại Bá quốc Thuringia. Ông thành lập thủ đô ở Weimar và thành lập trường đại học ở Jena (để thay thế trường ở Wittenberg đã bị mất vào tay Moritz) trước khi ông qua đời vào năm 1554. Ba con trai của Johann Friedrich đã phân chia lãnh thổ sau cái chết của cha mình, với Johann Friedrich II trở thành người đứng đầu (và trong thời gian ngắn, 1554–1556, giữ tước vị tuyển đế hầu) với các ghế ở Eisenach và Coburg, người anh giữa John William ở Weimar (Sachsen-Weimar), và người trẻ nhất, Johann Friedrich III (trùng tên với người anh cả, đã gây ra nhiều nhầm lẫn trong sử sách) thành lập nơi cư trú tại Gotha (Sachsen-Gotha). Khi Johann Friedrich III của Gotha qua đời mà không lập gia đình và không có người thừa kế vào năm 1565, John William của Weimar đã cố gắng đòi quyền kế vị Sachsen-Gotha, nhưng các con trai của Johann Friedrich II bị giam cầm đã đưa ra yêu sách của riêng họ. Các đối thủ đã đạt được thỏa thuận vào năm 1572 về Phân khu Erfurt, theo đó John William bổ sung các huyện Altenburg, Gotha và Meiningen vào Sachsen-Weimar. Khi John William qua đời một năm sau đó, con trai lớn của ông, Friedrich Wilerm I đã nhận Altenburg, Gotha và Meiningen với tước hiệu Công tước xứ Sachsen-Altenburg, và cùng với một số con trai của ông thành lập dòng Sachsen-Altenburg đầu tiên, ttrong khi Sachsen-Weimar thuộc về người con trai nhỏ John II. John Casimir (mất người thừa kế năm 1633), con trai lớn của Johann Friedrich II, và Johann Ernst (mất người thừa kế năm 1638), con trai nhỏ của Johann Friedrich II, cùng nhận lãnh thổ Sachsen-Coburg-Eisenach, nhưng được bổ nhiệm làm người giám hộ hợp pháp bởi vì họ là trẻ vị thành niên. Năm 1596, hai anh em đồng ý chia công quốc thành Sachsen-Coburg và Sachsen-Eisenach. Johann II, Công tước xứ Sachsen-Weimar (hay John II), chết trẻ để lại tám người con trai còn sống (bao gồm Bernhard xứ Sachsen-Weimar, người trẻ nhất, vị tướng nổi tiếng) và một di chúc ra lệnh cho họ đồng cai trị công quốc. Khi người anh cả trong số họ, Johann Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Weimar qua đời khi chưa lập gia đình (1626), hai người anh em nữa của ông đã qua đời mà không có con, để lại năm công tước xứ Sachsen-Weimar, với Wilhelm là con cả. Hai người nữa chết trong vòng 15 năm, trong đó có Bernhard năm 1639, không có người thừa kế. Năm 1638, dòng Coburg-Eisenach cao cấp bị tuyệt tự và tài sản của nó được phân chia giữa Altenburgs và Weimars, điều này làm tăng gấp đôi tài sản của Sachsen-Weimar và khiến việc phân chia trở lại khả thi. Trong năm 1640, những người anh em còn lại cuối cùng đã chia tài sản của mình, William ở lại Weimar, Albert (Albrecht) nhận ngai vàng Công tước xứ Eisenach và Ernst (được mệnh danh là "Người ngoan đạo") cũng nhận được phần của mình và được gọi là Công tước xứ Gotha. Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha (1601–1675) đã kết hôn với Elisabeth Sophie, người con duy nhất của Johann Philipp, Công tước xứ Sachsen-Altenburg và Gotha (1597–1638), con trai cả của Frederick William I. Khi em họ của Elisabeth Sophie là Frederick William III, Công tước xứ Altenburg, qua đời vào năm 1672 khi chưa lập gia đình, toàn bộ dòng Altenburg đầu tiên bị tuyệt tự ở dòng nam, mở ra một cuộc xung đột kế vị. Cuối cùng, các con trai của Ernst và Elisabeth Sophie đã nhận được phần lớn tài sản thừa kế ở Altenburg, dựa trên di chúc của Công tước John Philip (vì cuối cùng người ta đã công nhận rằng luật Salic không ngăn cản một người có quyền kế thừa tất cả tài sản của mình trao cho những người có khác trong gia tộc mà anh ta mong muốn người đó trở thành người thừa kế của mình, để lại tài sản cho những người mà không có quyền thừa kế; và nếu những người được ưu ái đó cũng tình cờ là con rể và cháu ngoại của người lập di chúc, thì điều đó không hề bị cấm), mà chỉ bị giảm bớt tài sản (1/4 so với nửa Altenburg ban đầu), nhưng một phần (một phần tư của Altenburg ban đầu nửa) được chuyển đến chi nhánh Sachsen-Weimar. Hai dòng này: Weimar và Gotha(-Altenburg) tạo thành nền tảng cho các dòng Ernestine trong tương lai, và cả hai đều có dòng dõi nam còn tồn tại cho đến ngày nay. Sau khi phân chia quyền thừa kế của dòng Altenburg đầu tiên, dòng cao cấp, Weimar, nắm giữ ít hơn một nửa vùng đất Ernestine, và dòng cấp dưới, Gotha-Altenburg, nắm giữ hơn một nửa. Dòng Gotha-Altenburg được chia nhỏ hơn và dòng Weimar không quá nhiều, và cuối cùng tất cả tài sản của dòng Weimar nói trên đều tập trung vào tay dòng chính vào năm 1741 và vào năm 1815 được nâng lên thành Đại công tước xứ Weimar. Nhiều con trai của Công tước Ernst xứ Gotha và Nữ công tước Elisabeth Sophie ban đầu chia tài sản thừa kế (năm phần tám tổng số đất đai của Ernestine) thành 7 phần: Gotha-Altenburg, Coburg, Meiningen, Römhild, Eisenberg, Hildburghausen và Saalfeld. Trong số họ, Coburg, Römhild và Eisenberg đã không tồn tại được qua một thế hệ, và bị phân chia vào bốn dòng còn lại. Do đó, các lãnh thổ của dòng Ernestine ở Thuringia đã bị chia cắt và kết hợp lại nhiều lần do các Công tước để lại nhiều hơn một người con trai để thừa kế, và do nhiều dòng dõi của các Công tước Ernestines đã tuyệt dự dòng nam. Cuối cùng, quyền thừa kế đã trở thành quy tắc thừa kế ở các công quốc Ernestine, nhưng không phải trước khi số lượng công quốc Ernestine có thời điểm tăng lên 10 công quốc. Đến năm 1826, các công quốc Ernestine còn lại là Đại công quốc Sachsen-Weimar-Eisenach (chiếm khoảng ba phần tám tổng số vùng đất của Ernestine) và các công quốc ("Elisabeth-Sophie-line") của Sachsen-Gotha-Altenburg, Sachsen-Meiningen , Sachsen-Hildburghausen và Sachsen-Coburg-Saalfeld. Năm 1826, dòng dõi cao cấp của Ernst Ngoan đạo ở Gotha-Altenburg bị tuyệt tự. Con gái của công tước áp chót đã kết hôn với Công tước xứ Coburg-Saalfeld, và cặp đôi này có hai con trai - người con út là Công tử Albert, sau sẽ trở thành chồng của Nữ hoàng Victoria của Anh. Di sản của Gotha-Altenburg được phân chia giữa ba dòng còn lại xuất phát từ Ernst Ngoan đạo và Elisabeth Sophie, gây ra những thay đổi về danh pháp: từ đó trở đi, chúng được gọi là Sachsen-Meiningen-Hildburghausen, Sachsen-Altenburg (dòng Hildburghausen cũ) và Sachsen-Coburg và Gotha - dòng trẻ nhất (ban đầu là dòng Saalfeld) nhận ngôi vị "maternal" của Gotha, từng là nơi ngự trị của Ernst Ngoan đạo, tổ tiên của cả 7 dòng này. Tất cả các công quốc của Ernestine đều kết thúc bằng việc bãi bỏ chế độ quân chủ sau khi Thế chiến thứ nhất kết thúc. Năm trong số các công quốc Ernestine là thành viên của Vùng đế chế Thượng Sachsen của Đế chế La Mã Thần thánh: Sachsen-Weimar Sachsen-Eisenach Sachsen-Coburg Sachsen-Gotha Sachsen-Altenburg Tư cách thành viên trong vùng đế chế đã mang lại cho người cai trị mỗi nhà nước một phiếu biểu quyết trong Đại hội Đế chế. Trong phiên họp năm 1792 của Đại hội Đế chế, Công tước xứ Sachsen-Weimar cũng là Công tước xứ Sachsen-Eisenach, và có hai phiếu (cũng như ba phần tám của tất cả các vùng đất Ernestine); Công tước xứ Sachsen-Altenburg cũng là Công tước xứ Sachsen-Gotha (với tư cách là người thừa kế cao cấp của cả Công tước John Philip và Công tước Ernst Ngoan đạo) có hai phiếu; và Công tước xứ Sachsen-Coburg có một phiếu. Các công quốc Ernestine khác chưa bao giờ là thành viên của Vùng đế chế và không có quyền bỏ phiếu trong Đại hội Đế chế như 5 công quốc ở trên (ví dụ, các công quốc Meiningen và Hildburghausen cũng như vậy; đó là một lý do tại sao Công tước xứ Sachsen-Hildburghausen lại trao đổi tài sản của mình với tài sản của Altenburg). Tuy nhiên, tất cả đều có quyền tự trị và cuối cùng, với sự giải thể của Đế chế La Mã Thần thánh vào ngày 6 tháng 8 năm 1806, vấn đề đó trở nên không còn phù hợp. Sachsen-Altenburg (1603 đến 1672; 1826 đến 1918; tuyệt tự vào năm 1991) Sachsen-Coburg (1596 đến 1633; 1681 đến 1699) Sachsen-Coburg-Eisenach (1572 đến 1596) Sachsen-Coburg-Saalfeld (1735 đến 1826) Sachsen-Eisenberg (1680 đến 1707) Sachsen-Coburg-Gotha (1826 đến 1918) Sachsen-Eisenach (1596 đến 1638; 1640 đến 1644; 1672 đến 1806) Sachsen-Gotha (1640 đến 1680) Sachsen-Gotha-Altenburg (1681 đến 1826) Sachsen-Hildburghausen (1680 đến 1826) Sachsen-Jena (1672 đến 1690) Sachsen-Marksuhl (1662 đến 1672) Sachsen-Meiningen (1681 đến 1918) Sachsen-Römhild (1680 đến 1710) Sachsen-Saalfeld (1680 đến 1735) Sachsen-Weimar (1572 đến 1806) Sachsen-Weimar-Eisenach (1806 đến 1918) Công quốc Ernestine từ năm 1918 trở đi Sachsen-Weimar-Eisenach, Sachsen-Coburg và Gotha, Sachsen-Meiningen và Sachsen-Altenburg là những công quốc duy nhất còn lại (Weimar-Eisenach là Đại công quốc từ năm 1809 và chính thức là Đại công quốc Sachsen từ năm 1903) vào thời kỳ Cách mạng Đức (1918–1919). Các đặc quyền hợp pháp và địa vị Công tước của họ đã bị bãi bỏ dưới chế độ cộng hòa mới. Bốn công quốc trở thành 5 bang cấu thành của Cộng hòa Weimar bằng cách chia tách Gotha và Coburg. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1920, Bang Tự do Coburg được sáp nhập vào Bang Tự do Bayern. Bốn bang còn lại được sáp nhập vào ngày 1 tháng 5 năm 1920 cùng với Schwarzburg-Rudolstadt và Schwarzburg-Sondershausen thành Bang Tự do Thuringia. Việc tái tổ chức này vẫn tồn tại cho đến ngày nay, mặc dù trên thực tế nó không tồn tại dưới thời Đức Quốc xã, khi hệ thống Reichsgau được sử dụng thay thế và Gau Thuringia quản lý Nhà nước Tự do và Gau Bayreuth quản lý miền Bắc Bayern. Từ năm 1945 đến năm 1990, Thuringia nằm trong vùng chiếm đóng của Liên Xô và sau đó thuộc Đông Đức trong khi Bayern nằm trong vùng chiếm đóng của Mỹ và sau đó là một phần của Tây Đức. Những người thừa kế còn sống Vào ngày 13 tháng 2 năm 1991, Georg Moritz, Thân vương kế vị xứ Sachsen-Altenburg qua đời và cùng với ông là dòng dõi của Ernest, Công tước xứ Sachsen-Hildburghausen và Sachsen-Altenburg đã tuyệt tự. Tuyên bố đòi quyền thừa kế của ông được chuyển cho Michael, Thân vương xứ Sachsen-Weimar-Eisenach (sinh ngày 15 tháng 11 năm 1946). Dòng dõi này cũng có khả năng sẽ sớm tuyệt tự vì Michael chỉ có một con gái và người đàn ông duy nhất còn lại là em họ của ông, Thân vương Wilhelm Ernst (sinh ngày 10 tháng 8 năm 1946), ông này chỉ có người con trai và đã chết không con vào năm 2018. Hai người này đại diện cho những hậu duệ không phải quý tiện kết hôn cuối cùng của William, Công tước xứ Sachsen-Weimar. Bốn người đàn ông còn lại trong hàng này là các Nam tước xứ Heygendorff. Tình hình thậm chí còn tồi tệ hơn đối với Konrad, Thân vương xứ Sachsen-Meiningen (sinh ngày 14 tháng 4 năm 1952), thành viên nam duy nhất không phải là sản phẩm quý tiện kết hôn của Sachsen-Meiningens và chưa lập gia đình. Cháu trai của ông đều là sản phẩm quý tiện kết hôn giống như các Nam tước xứ Saalfeld. Họ là hậu duệ duy nhất còn lại của Bernhard I, Công tước xứ Sachsen-Meiningen. Trong trường hợp rất có thể xảy ra sự tuyệt tự dòng nam của hai nhánh cao cấp này, quyền đại diện duy nhất của các Công tước Ernestine của Nhà Wettin sẽ được chuyển cho con cháu của Franz xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld, hiện tại là Sachsen-Coburg và Gotha do Andreas, Thân vương xứ Sachsen-Coburg và Gotha (sinh ngày 21 tháng 3 năm 1943) đứng đầu, gồm cả Vương tộc Windsor, Vương thất Bỉ và Vương thất Bulgaria. Franz và cháu trai của ông là Ludwig Friedrich Emil von Coburg cũng là tổ tiên của các dòng dõi quý tiện kết hôn. Thân vương Andreas có hai con trai và một cháu trai. Dòng dõi kế vị thường được cho là sẽ thuộc về cựu Sa hoàng Simeon II của Bulgaria (sinh ngày 16 tháng 6 năm 1937), người có 3 con trai và 7 cháu trai, nhưng cuộc hôn nhân của ông với con gái của một Hầu tước thuộc giới Quý tộc Tây Ban Nha có thể bị xem là Quý tiện kết hôn. Khi biết rõ rằng Ernst II, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha sẽ qua đời mà không con thừa tự, Vua Edward VII của Anh đã từ bỏ quyền của mình đối với Sachsen-Coburg và Gotha (nhưng chỉ đối với công quốc đó) để ngăn chặn một liên minh cá nhân không mong muốn. Vương tộc Windsor (có dòng dõi nam ban đầu chỉ bao gồm hậu duệ của con trai Edward, George V kể từ ngày 26 tháng 4 năm 1943) và Hoàng gia Bỉ lần lượt từ bỏ tước hiệu ở Đức của họ vào năm 1917 và 1920. Mặc dù liệu điều này có thực sự loại bỏ họ khỏi tất cả các lần kế vị Ernestine hay không vẫn còn được tranh luận. Tuy nhiên, tất cả các dòng dõi agnatic còn sót lại đều bao gồm các cuộc hôn nhân có tính chất quý tiện kết hôn (ít nhất là rất có thể xảy ra). Nếu bỏ qua tất cả những tuyên bố từ bỏ tước vị thì dòng kế vị sẽ thêm Vương tử Richard, Vương tử Edward và Vương tử Michael, xếp trước Simeon II và Albert II của Bỉ sau dòng dõi Bulgaria. Nếu sự bình đẳng trong hôn nhân cũng bị bỏ qua (loại bỏ vấn đề quý tiện kết hôn), sẽ bổ sung thêm 9 hậu duệ người Anh, xếp trước hậu duệ người Bulgaria và 6 hậu duệ người Bỉ vào danh sách thừa kế vương tộc Wettin. Mountbatten-Windsors hoàn toàn không được coi là một trong những người thừa kế dòng Ernestine của vương tộc Wettin, do nguồn gốc của họ và thực tế là Elizabeth II có thể là một đứa con gái quý tiện kết hôn do mẹ cô ấy là con gái của một bá tước. Tham khảo Nguồn John B. Freed. 1988. Saxony, in Strayer, Joseph R., Ed. in Chief. Dictionary of the Middle Ages, Vol. 10. Charles Scribner's Sons, New York. . Ernestine Saxony, 1485(1547 (accessed December 13, 2005) Wettin Dynasty. (2005). Encyclopædia Britannica. Retrieved December 12, 2005, from Encyclopædia Britannica Premium Service. House Laws of Anhalt (retrieved December 13, 2005) Chart showing succession of Ernestine duchies (originally retrieved December 13, 2005, found using Wayback machine November 27, 2006) The Ernestine Line's Saxon Duchies Liên kết ngoài Các công quốc Ernestine Công quốc Thánh chế La Mã Cựu quốc gia quân chủ Vùng đế chế Thượng Sachsen Vương tộc Wettin Lịch sử Thuringia Lịch sử Sachsen
19850915
https://vi.wikipedia.org/wiki/Madras%20%28bang%29
Madras (bang)
Bang Madras (; ; ) là một bang cũ tại miền nam Ấn Độ. Bang này được hình thành vào ngày 26 tháng 1 năm 1950 khi Hiến pháp Ấn Độ được thông qua, và lãnh thổ bao gồm các bang Tamil Nadu, Andhra Pradesh, cùng một phần Kerala và Karnataka ngày nay. Bang Andhra được tách ra vào năm 1953. Khi ranh giới các bang của Ấn Độ được điều chỉnh theo ngôn ngữ vào năm 1956, bang Madras tiếp tục được tổ chức lại. Vào ngày 14 tháng 1 năm 1969, bang được đổi tên thành Tamil Nadu. Lịch sử Bằng chứng khảo cổ học cho thấy rằng vượn người sinh sống trong khu vực cách đây hơn 400 thiên niên kỷ. Tamilakam cổ đại là một khu vực gần tương đương với lãnh thổ bang Madras, có các quốc gia theo chế độ quân chủ là Chera, Chola và Pandya. Các vương quốc này có quan hệ ngoại giao và thương mại với các vương quốc khác ở phía bắc và với người La Mã. Khu vực này về sau thuộc về các quốc gia Kalabhra, Pallava, Hoysala và Vijayanagara. Người châu Âu bắt đầu thành lập các trung tâm thương mại dọc theo bờ biển phía đông của khu vực từ thế kỷ 16. Pháp và Anh từng đấu tranh một thời gian dài cho đến giữa thế kỷ 18, để giành quyền kiểm soát về quân sự tại Nam Ấn Độ. Sau Chiến tranh Anh-Mysore lần thứ tư năm 1799 và Chiến tranh Polygar lần thứ hai năm 1801, người Anh củng cố quyền lực của họ trên phần lớn khu vực, và thành lập tỉnh Madras có thủ phủ là Madras. Đế quốc Anh nắm quyền kiểm soát khu vực này từ Công ty Đông Ấn Anh vào năm 1857. Vì gió mùa mùa hè không thuận lợi và những thiếu sót về hành chính trong hệ thống Ryotwari, tỉnh Madras từng trải qua hai nạn đói nghiêm trọng là nạn đói lớn 1876–78 và nạn đói Ấn Độ 1896–97, làm chết hàng triệu người và khiến nhiều người phải di cư đến những nơi khác do Anh cai trị. Phong trào độc lập Ấn Độ lấy được đà phát triển vào đầu thế kỷ 20. Sau khi Ấn Độ độc lập vào năm 1947, tỉnh Madras (Madras presidency) của thực dân Anh được hợp nhất vào Liên bang Ấn Độ, có địa vị là tỉnh Madras (Madras province). Tỉnh này trở thành bang Madras sau khi Hiến pháp Ấn Độ được thông qua vào ngày 26 tháng 1 năm 1950. Bang Madras bị chia tách vào năm 1953, và được tổ chức lại vào năm 1956. Vào ngày 14 tháng 1 năm 1969, bang Madras được đổi tên thành Tamil Nadu. Địa lý Bang Madras có diện tích , và có lãnh thổ bao gồm bang Tamil Nadu, phần phía bắc của bang Kerala, các vùng Rayalaseema và Andhra Duyên hải của bang Andhra Pradesh, và vùng Nam Canara của bang Karnataka hiện nay. Bang này nằm tại phần phía nam của bán đảo Ấn Độ. Dãy núi Ghat Tây nằm ở phía tây của bang, phía tây dãy núi này là bờ biển Malabar ven biển Ả rập. Dãy núi Ghat Đông nằm ở phía đông bắc, đồng bằng ven biển phía Đông nằm dọc theo vịnh Bengal, vịnh Mannar và eo biển Palk nằm ở phía đông nam, Ấn Độ Dương nằm ở phía nam. Bang Madras bao quanh Puducherry và có biên giới hàng hải quốc tế với Sri Lanka ở phía đông nam. Eo biển Palk và "Cầu Rama" (một chuỗi các bãi cát và đảo) tách biệt khu vực này với Sri Lanka. Mũi cực nam của lục địa Ấn Độ nằm tại Kanyakumari, là nơi Ấn Độ Dương giáp vịnh Bengal và biển Ả Rập. Bang Andhra được chia tách khỏi bang Madras vào năm 1953. Bang Madras tiếp tục được tái tổ chức vào năm 1956, khi bang Kerala được thành lập thông qua sáp nhập bang Travancore-Cochin (ngoại trừ taluk Sengottai) với một phần của bang Madras (huyện Malabar và taluk Kasaragod của huyện Nam Canara). Phần phía nam của bang Travancore-Cochin cũ gồm huyện Kanyakumari được chuyển sang bang Madras. Các đảo Laccadive và Minicoy được tách khỏi huyện Malabar để tạo thành một lãnh thổ liên bang mới, mang tên là Quần đảo Laccadive, Amindivi và Minicoy. The area shrank to and in 1956. Nhân khẩu Theo điều tra nhân khẩu năm 1951, bang Madras có dân số 57.016.002. Sau khi bang Andhra tách ra vào năm 1953 thì dân số còn lại 35.734.489 người, và đến năm 1956 đạt 30.119.047 người. Ấn Độ giáo là tôn giáo lớn với 86,8% dân số tin theo, tiếp theo là Hồi giáo ở mức 9% và Kitô giáo ở mức 4%. Sau năm 1953, tiếng Tamil là ngôn ngữ của phần lớn cư dân bang Madras, tiếp theo là tiếng Malayalam (được nói ở huyện Malabar trước khi tái tổ chức vào năm 1956) và tiếng Telugu. Chính trị Thời kỳ đầu (1947-54) O. P. Ramaswamy Reddiyar là thủ tướng (Premier) của tỉnh Madras khi Ấn Độ độc lập, và phục vụ cho đến ngày 6 tháng 4 năm 1949. P. S. Kumaraswamy Raja là thủ hiến (Chief Minister) cho đến tháng 4 năm 1952, khi Madras tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên. Theo quy định trong hiến pháp, hội đồng lập pháp bang Madras có 375 ghế. Trong cuộc bầu cử năm 1952, Đảng Quốc đại Ấn Độ trở thành đảng lớn nhất trong hội đồng lập pháp cấp bang, họ thành lập chính phủ bang, thủ hiến là Chakravarti Rajagopalachari. Năm 1953, Potti Sriramulu tuyệt thực cho đến chết và kêu gọi thành lập một bang riêng cho những người nói tiếng Telugu, dẫn đến bạo loạn sau khi ông chết. Bang Andhra được tách khỏi bang Madras vào năm 1953. Chakravarti Rajagopalachari đã loại bỏ các biện pháp kiểm soát đối với ngũ cốc, và áp dụng chính sách giáo dục mới dựa trên nghề nghiệp của gia đình vào năm 1953. Theo chính sách này, học sinh phải đến trường vào buổi sáng và sau đó bắt buộc phải học nghề của gia đình từ cha mẹ. Chính sách này bị phản đối vì bị cho là dựa trên chủ nghĩa đẳng cấp, và bị Periyar phản đối. Quyết định này bị đình chỉ vào ngày 29 tháng 7 năm 1953, và bị hủy bỏ hoàn toàn vào ngày 18 tháng 5 năm 1954. Thời kỳ Kamaraj Ngày 13 tháng 4 năm 1954, K. Kamaraj trở thành thủ hiến bang Madras. Ranh giới các bang tiếp tục được tổ chức lại vào năm 1956. Kamaraj cho mở một trường tiểu học trên mỗi mile vuông (~2,6 km²), và cho miễn học phí trường học. Ông mở rộng chương trình bữa ăn trưa đến tất cả các trường công lập trong bang. Ông cho thực thi quy định đồng phục học sinh miễn phí để xóa bỏ phân biệt đẳng cấp, tín ngưỡng và giai cấp trong học sinh. Tỷ lệ biết chữ tăng từ 19% lên 37% trong nhiệm kỳ của ông. Các kế hoạch thủy lợi lớn được lập ra trong thời kỳ Kamaraj, khi đó có hơn 10 đập và kênh tưới tiêu đã được xây dựng trên khắp bang. Ông cho thành lập hơn 13 khu công nghiệp, và đưa nhiều ngành công nghiệp cùng các cơ sở nghiên cứu về cho bang, bao gồm Công ty Than nâu Neyveli, BHEL tại Trichy, Nhà máy Toa xe lửa tích hợp và IIT Madras. Kamaraj là thủ hiến trong ba nhiệm kỳ liên tiếp, giành chiến thắng trong bầu cử hội đồng lập pháp Madras năm 1957 và 1962. Năm 1949, một người đi theo Periyar là C. N. Annadurai thành lập Đảng Dravida Munnetra Kazhagam (DMK). Vào ngày 2 tháng 10 năm 1963, ông từ chức thủ hiến và đề xuất rằng tất cả các lãnh đạo cấp cao của Đảng Quốc đại nên từ chức để cống hiến toàn bộ sức lực của mình cho việc tái sinh Đảng Quốc đại, sau này được gọi là Kế hoạch Kamaraj. Những năm cuối (1962-69) M. Bhaktavatsalam trở thành thủ hiến sau khi Kamaraj từ chức. Trong nhiệm kỳ của ông, bang Madras xảy ra các cuộc khích động chống tiếng Hindi nhằm phản ứng trước việc Đạo luật Ngôn ngữ chính thức của chính phủ liên bang được thông qua vào năm 1963. Đạo luật có kế hoạch đưa tiếng Hindi làm ngôn ngữ bắt buộc, và bác bỏ yêu cầu đưa tiếng Tamil thành ngôn ngữ giảng dạy ở cấp đại học. Vào ngày 7 tháng 3 năm 1964, Bhaktavatsalam đề xuất áp dụng công thức ba ngôn ngữ bao gồm tiếng Anh, tiếng Hindi và tiếng Tamil. Việc sửa đổi đạo luật gốc được thông qua vào tháng 11 năm 1967, theo đó chấp nhận công thức ba ngôn ngữ, và tiếng Anh sẽ tiếp tục là ngôn ngữ bổ sung được sử dụng trong giao tiếp chính thức. Các cuộc khích động chống tiếng Hindi tại Tamil Nadu tạo điều kiện để các đảng theo phong trào Dravida trỗi dậy. Họ thành lập chính phủ sau cuộc bầu cử năm 1967, đây là chính phủ Dravida đầu tiên trong lịch sử Tamil Nadu. Năm 1967, DMK giành chiến thắng trong bầu cử và thành lập chính phủ phi Quốc đại đầu tiên, dưới quyền Annadurai. Trong cuộc bầu cử năm 1967, các đảng ngoài Đảng Quốc đại tiến hành hợp tác về đề cử ứng cử viên nhằm tránh bị phân chia phiếu bầu. Cựu thủ hiến Rajagopalachari rời khỏi Đảng Quốc đại để thành lập Đảng Swatantra cánh hữu. Năm 1967, chính quyền bang hợp pháp hóa hôn nhân tự trọng (tức không được linh mục Brahmin làm lễ) và công bố phân phối gạo được trợ giá thông qua hệ thống phân phối công. Năm 1969, chính quyền bang đề xuất đổi tên bang thành Tamil Nadu, và đến ngày 14 tháng 1 năm 1969 thì bang được đổi tên thành Tamil Nadu. Tham khảo Khởi đầu năm 1950 ở Ấn Độ Chấm dứt năm 1969 Tamil Nadu Bang và lãnh thổ liên bang của Ấn Độ
19850940
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A2n%20v%E1%BA%ADt%20Tate%20no%20Y%C5%ABsha%20no%20Nariagari
Danh sách nhân vật Tate no Yūsha no Nariagari
Bộ light novel, manga và anime Sự trỗi dậy của Dũng Sĩ Khiên có dàn nhân vật đa dạng. Hình ảnh của các nhân vật được thiết kế bởi Minami Seira và câu chuyện của họ được tạo ra bởi Aneko Yusagi. Nhân vật chính Naofumi Iwatani Lồng tiếng bởi: Kaito Ishikawa   Anh hùng Khiên và nhân vật chính, Naofumi Iwatani (岩谷 尚文, Iwatani Naofumi) là một sinh viên đại học được triệu hồi từ thế giới khác sau khi tìm thấy một cuốn sách về Tứ anh hùng. Vốn là một người có tư tưởng cởi mở, anh trở nên hoài nghi và không tin tưởng vào người khác do bị các anh hùng đồng nghiệp coi thường, chịu thành kiến ​​​​tôn giáo từ người dân, đồng thời bị Malty cướp và buộc tội oan về tội cố gắng cưỡng hiếp cô. Chỉ sau khi Raphtalia bảo vệ anh và tuyên bố lòng trung thành của mình, Naofumi mới bắt đầu dần mở lòng với những người xung quanh và nhận ra sai lầm của mình. Nhận thấy vai trò Anh hùng của mình là gánh nặng, bị triệu tập trái với ý muốn, Naofumi tỏ ra không mấy hối hận khi sử dụng các chiến thuật thiếu sáng suốt để đảm bảo sự sống còn của nhóm mình bất chấp sự chỉ trích của các anh hùng khác. Nói chung là không muốn tin tưởng người lạ, thường yêu cầu trả tiền trước hoặc sử dụng những lời nguyền nô lệ để ngăn chặn việc nói dối, anh cố gắng hết sức để đáp ứng sự mong đợi của những người đã đặt niềm tin vào anh hoặc coi chính anh như một người bình đẳng. Raphtalia Lồng tiếng bởi: Asami Seto Anh hùng Katana chư hầu và nữ chính. Ban đầu sống tại một ngôi làng trên bờ biển Melromarc, Raphtalia (ラフタリア, Rafutaria) là một bán nhân Tanuki-Raccoon mồ côi sau Làn sóng đầu tiên tấn công thế giới. Ngay sau đó, cô và những người dân làng của mình bị Hiệp sĩ Hoàng gia của Melromarc bắt và bán làm nô lệ. Lần đầu tiên được mua bởi một nhà quý tộc, cô bị tra tấn về thể xác và tinh thần vì sự căm phẫn chủng tộc đối với á nhân. Gần kề cái chết và phải chịu đựng những cơn hoảng loạn, cô bị bán lại và sau đó được Naofumi mua lại, người không thể tự chiến đấu nên muốn sử dụng cô làm thanh kiếm của mình trong Đợt làn sóng sắp tới. Dưới sự bảo vệ của Naofumi, Raphtalia trở thành một kiếm sĩ điêu luyện và dần tìm thấy lối thoát khỏi những tổn thương trong quá khứ. Có thể nhìn ra bản chất hoài nghi của Naofumi, cô yêu anh và cố gắng hết sức để giúp anh vượt qua sự oán giận đối với người khác và khi anh đánh mất bản thân trước Khiên Phẫn nộ, thậm chí còn tình nguyện áp dụng lại lời nguyền nô lệ của mình cho dù Naomi phải loại bỏ như một dấu hiệu của sự sùng kính. Sau đó được tiết lộ rằng thông qua di sản Tanuki của mình, cô là người thừa kế ngai vàng của Q'Ten Lo, cha cô đã bỏ trốn đến Meloromarc và khiến cô xung đột với những người họ hàng xa của mình. Về mặt kỹ thuật, một cô bé 10 tuổi, là một á nhân, cơ thể của Raphtalia có thể lớn lên như một thiếu nữ khi cấp độ của cô tăng lên. Vì vậy, cô thường khó chịu khi Naofumi coi cô như con gái của mình hoặc không để ý đến tình cảm của cô; Naomi tin rằng cô ấy chỉ tập trung vào việc trở nên mạnh mẽ hơn. Khi du hành trong thế giới của Kizuna, cô được chọn làm người sử dụng Vassal Katana (Búa thất tinh trong web novel). Cô ấy chuyên về ma thuật Ánh sáng/Bóng tối, nhờ đó cô có thể tạo ra ảo ảnh và trở nên vô hình. Thông qua di sản hoàng gia của mình, cô cũng có được khả năng bình định một số khả năng của những người sử dụng Vũ khí Huyền thoại & Chư hầu. Raphtalia được chọn là Best Girl trong Giải thưởng Anime Crunchyroll năm 2020. Filo Lồng tiếng bởi: Rina Hidaka   Một Nữ Hoàng Filolial. Cô được Naomi ấp nở từ một quả trứng mua từ Beloukas, Filo (フィーロ, Fīro) là đồng minh trẻ nhất của Naofumi. Cô là một phần của loài quái vật tên là Filolial thích kéo xe và được Anh hùng nuôi dưỡng, phát triển thành Nữ hoàng. Với tư cách là Nữ hoàng, cô giống một con cú lớn không biết bay và sở hữu sức mạnh tấn công cũng như tốc độ cao hơn các thành viên bình thường trong loài của mình. Ngoài ra, cô còn sở hữu khả năng độc nhất vô nhị là biến hình thành một cô gái tóc vàng có đôi cánh bé sau lưng, giữ được sức mạnh trong hình dạng thật của mình. Trẻ trung và sôi nổi, cô có khả năng chú ý ngắn, háu ăn và thường chiến đấu với Raphtalia và Gaelion để giành được sự chú ý của Naofumi. Cũng rất dễ gây ấn tượng, cô đã được chứng minh là đã học theo một số thói quen của Naofumi khiến Raphtalia rất đau khổ. Là một người có năng lực học tập, cô có thể sử dụng các phép thuật gió nâng cao và nhiều lời dạy của Hengen Muso mà không cần hướng dẫn nhiều. Kỹ năng của cô đã được công nhận bởi người tiền nhiệm là Nữ hoàng, Fitoria, và được trao cho một số sức mạnh. Bất chấp tính cách đôi khi hống hách của mình, Filo có thể nhanh chóng kết bạn với những người khác và nhận những Filolial khác làm thuộc hạ của mình. Đúng như bản năng Filolial của mình, sở thích yêu thích của cô là kéo chiếc xe đẩy mà Naofumi làm cho cô. Khi ở thế giới của Kizuna, do Filolial không tồn tại, cô bị biến thành một loài được gọi là Tiên nữ ngân nga, mất đi sức mạnh để có thể bay và sử dụng phép thuật thông qua ca hát. Raph-chan Một Thức thần và là tổ tiên của loài giống Tanuki. Với sự hỗ trợ từ Ethnobolt, Raph-chan (ラフちゃん, Rafu-chan) được Naofumi tạo ra để giúp xác định vị trí của Raphtalia sau khi họ bị chia cắt trong thế giới của Kizuna. Thông qua việc Naofumi liên tục thử nghiệm và nâng cao sức mạnh, Raph-chan nhanh chóng có được những khả năng vượt trội so với một Thức thần bình thường. Thông qua ảnh hưởng của nó đối với quá trình thăng cấp, những quái vật đã được thuần hóa của Làng Lurolona, ​​tìm kiếm tình cảm của Naofumi, đã chọn trở nên giống nó, dẫn đến việc tạo ra loài Raph. Được tạo ra bằng cách sử dụng hỗn hợp tóc của Raphtalia và máu của Naofumi, Raph-chan rất giống cha mẹ cũ của mình (cha là Naomi và mẹ là Raphtalia) về ngoại hình và có thể sử dụng nhiều khả năng ma thuật Ánh sáng/Bóng tối giống để hỗ trợ trong trận chiến. Nó cũng có thể theo dõi nơi ở của cha mẹ mình mọi lúc và có thể được tự động triệu tập đến một trong hai địa điểm của họ. Mặc dù nhìn chung rất thân thiện và tình cảm, nhưng do ảnh hưởng kế thừa của Naofumi, nó tỏ ra không ngừng trừng phạt những người chống lại đồng minh của mình. Được đặt theo tên của chính Raphtalia, khi Raph-chan được tạo ra, Naofumi nhanh chóng bị ám ảnh, công khai yêu thương và vuốt ve nó như một cách để giảm bớt căng thẳng; trớ trêu thay lại thề sẽ biến loài Raph trở thành những quái vật thống trị mới của vùng đất. Xấu hổ vì sự sáng tạo của nó và nỗi ám ảnh của Naofumi, tuy nhiên, Raphtalia lại nhìn Raph-chan với chút thất vọng và ghen tị. Anh hùng được triệu hồi Tứ Đại Kỵ Sĩ (Các anh hùng huyền thoại) Motoyasu Kitamura (北村 元康, Kitamura Motoyasu) Lồng tiếng bởi: Makoto Takahashi Anh hùng giáo. Motoyasu là sinh viên đại học trước khi được triệu tập, anh bị đâm chết sau sự hiểu lầm giữa một người bạn thời thơ ấu và một người bạn cùng lớp. Mặc dù nhìn chung là một người tốt bụng nhưng anh lại vô cùng cả tin và cứng đầu; thể hiện gần như hoàn toàn không nhận thức được hành động của các thành viên trong nhóm lôi kéo mình hay sở hữu tầm nhìn xa để lên kế hoạch trước. Là một người lăng nhăng nặng nề, anh bị các anh hùng khác coi thường vì thói quen đuổi theo gái và cực kỳ tin tưởng phụ nữ đến mức gây bất lợi cho chính anh ta. Anh cũng thể hiện chứng lolita complex đối với Filo, vì cô giống một nhân vật trò chơi điện tử ở thế giới quê hương của anh. Ban đầu là thủ lĩnh của một nhóm gồm toàn phụ nữ đóng vai trò là người cổ vũ cho anh. Không biết về bản chất thực sự của cô, Motoyasu đồng cảm với những tuyên bố của Malty chống lại Naofumi và mời cô tham gia cùng anh; ban đầu khiến Naofumi tin rằng cả hai đang làm việc cùng nhau. Bất chấp những lời cảnh báo từ các anh hùng khác và Mirellia, anh tin rằng những tuyên bố của Malty về việc Naofumi tẩy não người khác và xung đột với anh ta liên tục, ngay cả sau khi bản chất thực sự của Malty bị vạch trần. Sau đó, anh bị nhóm của mình bỏ rơi và bỏ mặc cho đến chết trong trận chiến với Rùa Thần, khiến anh vô cùng chán nản. Được Filo an ủi, anh quyết định cống hiến lại nỗ lực của mình để giành được trái tim cô và tìm kiếm sự đồng ý từ Naofumi để cưới cô; khiến nhiều người đặt câu hỏi về tinh thần của anh và khiến Filo đau khổ vì những tiến bộ không mong muốn của anh. Motoyasu được chứng minh là người có thể chất mạnh nhất trong các Anh hùng. Anh ta mở khóa Ngọn giáo dục vọng và Ghen tị sau sự phản bội của Malty, và những hậu quả bị nguyền rủa của chúng: nhìn/nghe thấy hầu hết phụ nữ theo nghĩa đen là tiếng lợn kêu, trạng thái tinh thần của anh thậm chí còn sa sút hơn nữa. Hành động của anh hấp tấp hơn bao giờ hết, chỉ thông qua Filo, Naofumi mới có thể khiến anh lắng nghe lý trí. Không nhận thức được hậu quả, anh tạo ra một nhóm gồm các Filolial; anh đã yêu toàn thể loài này một cách điên cuồng. Do cần phải thường xuyên mặc quần áo cho nhóm mới thành lập của mình, anh nhanh chóng trở thành một thợ may tài năng với gu thời trang của mình khiến các đồng minh phải kinh ngạc. Nhân vật chính của The Reprise of the Spear Hero, Motoyasu, khi bị giết trong trận chiến, đã mở khóa khả năng du hành thời gian và quay trở lại phần đầu của bộ truyện với các chỉ số và ký ức về Filo còn nguyên vẹn. Tự nhận mình: "Kẻ săn tình yêu", anh lại cống hiến hết mình để cố gắng chiếm được trái tim của Filo và bảo vệ Naofumi khỏi những sự kiện khiến anh trở nên hoài nghi; nói chung có kết quả khác nhau. Ren Amaki (天木 錬, Amaki Ren) Lồng tiếng bởi: Yoshitsugu Matsuoka Anh hùng kiếm. Người trẻ nhất trong các Anh hùng, Ren là một học sinh trung học trước khi anh được triệu tập sau khi bị giết khi cố cứu một người bạn thời thơ ấu. Bản chất là một người cô độc, anh cố gắng hết sức để giữ nguyên hình ảnh một chàng trai lạnh lùng của mình; có lúc phải dùng đến gian lận khi thua trong trận đấu tay đôi với Eclair. Nhìn mọi thứ qua lăng kính của một game nhập vai một người chơi, anh thích điều hành nhóm của mình như một bang hội và chỉ làm việc trực tiếp với nhau như là phương sách cuối cùng, tin rằng mỗi thành viên chỉ chịu trách nhiệm về bản thân mình. Trong khi các Anh hùng sẵn sàng lắng nghe những lời tuyên bố và lời khuyên của Naofumi nhất, bản chất trịch thượng của anh ta đối với những người ở cấp độ thấp hơn mình vẫn dẫn đến căng thẳng giữa hai người. Trước sự thích thú của những người anh hùng xung quanh mình, anh ta mắc chứng sợ nước và không biết bơi. Sau khi toàn bộ nhóm của anh bị giết bởi Rùa Thần, mù quáng dẫn họ vào trận chiến, anh rơi vào trạng thái phủ nhận và đau buồn. Bất chấp những nỗ lực ban đầu của Naofumi để giúp đỡ anh ta, thay vào đó anh quay sang Malty để được hỗ trợ về mặt tinh thần và nhanh chóng bị cướp mất đồ đạc. Cải trang, anh ăn trộm để kiếm sống và trở thành thủ lĩnh của một nhóm cướp; mở khóa Kiếm dục vọng và Háu ăn bị nguyền rủa trong quá trình này. Trong trạng thái bị nguyền rủa, anh bị Eclair thách thức lại và dễ dàng bị đánh bại. Cuối cùng sẵn sàng nhận trách nhiệm về những sai lầm trong quá khứ của mình và không thể tích lũy kinh nghiệm hoặc tiền bạc do sử dụng vũ khí bị nguyền rủa của mình, anh chọn ở lại làng của Naofumi và trở thành học trò của Eclair. Sau đó, anh trở thành người học việc mới của Motoyasu II, tự rèn luyện bản thân để trở thành thợ rèn và tạo ra vũ khí mới cho đồng minh của mình. Itsuki Kawasumi (川澄 樹, Kawasumi Itsuki) Lồng tiếng bởi: Yoshitaka Yamaya Anh hùng cung. Itsuki là một học sinh trung học trước khi được triệu tập, anh đã thiệt mạng sau khi một chiếc xe tải lớn đột ngột rẽ trái. Tự gọi mình là đồng minh của Công lý, anh có mặc cảm ưu việt và bẩm sinh cần được chú ý, thường khoe khoang về chiến công của mình với người khác. Anh chọn điều hành nhóm của mình theo kiểu giống như người cảnh giác, chủ yếu đảm nhận các nhiệm vụ liên quan đến các quan chức tham nhũng và hỗ trợ người khác vào những thời điểm thích hợp nhất. Nhóm của anh theo một hệ thống phân cấp thâm niên nghiêm ngặt, coi các thành viên mới như người hầu. Do thái độ buông thả và cách đối xử với các thành viên trong nhóm của mình, Naofumi trở nên ghét anh ta nhất trong số những anh hùng khác. Mối thù của Itsuki với Naofumi lên đến đỉnh điểm sau khi nhóm của anh quy tội Rishia như một cái cớ che đậy mỏng manh để khiến anh đuổi cô ra khỏi nhóm của mình; đã coi cô là người yếu đuối và khó chịu vì đã vượt lên trên họ trong Làn sóng ở Cal Mira. Nhóm còn lại của anh sau đó phản bội anh ta trong trận chiến với Rùa Thần bằng cách trói anh lại và bỏ mặc cho đến chết. Trong trạng thái phủ nhận, anh sớm bị Malty lừa chiến đấu thay cô trong các giải đấu ở Zeltoble; tin rằng anh đang quyên tiền để giúp cô ngăn chặn Naofumi lạm dụng nô lệ của mình và tống tiền công dân để lấy tiền. Mở khóa Cây cung kiêu hãnh nguyền rủa, anh chiến đấu chống lại Rishia và bị đánh bại khi Naofumi và Ren vạch trần sự thật. Bị Malty nợ nần và mất đi ý chí do vũ khí bị nguyền rủa của mình, anh cầu xin Rishia tha thứ và chọn ở lại làng của Naofumi khi anh hồi phục. Đến từ một thế giới nơi con người gần đây đã phát triển sức mạnh tâm linh, Itsuki được sinh ra với khả năng chính xác được gọi là "Chính xác". Ban đầu quá tự tin khi còn trẻ, khi lớn lên và biết rằng khả năng của mình bị xếp vào hạng thấp, anh chuyển sang chơi game như một lối thoát. Khi du hành đến thế giới song song, Itsuki bộc lộ tài năng chơi nhạc của mình, giúp anh sở hữu được Nhạc cụ chư hầu; tạm thời thay thế Cây cung huyền thoại bị khuyết tật của anh. Kizuna Kazayama (風山 絆, Kazayama Kitzuna) Lồng tiếng bởi: Miyu Tomita Anh hùng săn bắn. Một trong bốn Anh hùng huyền thoại của thế giới song song, Kizuna đang chơi một trò chơi thực tế ảo thì được triệu tập. Không giống như các Anh hùng khác được kêu gọi chiến đấu với Làn Sóng, cô được triệu tập trước khi họ xuất hiện và được giao nhiệm vụ đánh bại Vua Rồng Quỷ. Là một người con gái có ý chí mạnh mẽ, cô dễ dàng kết bạn và thích đi du lịch khắp thế giới. Là một ngư dân đầy nhiệt huyết, các thành viên trong nhóm của cô đôi khi phải kiềm chế cô để giúp cô tập trung vào nhiệm vụ trước mắt. Bất chấp vẻ ngoài của mình, cô ấy mới mười tám tuổi và tự hào là một otaku. Cô sống trong một ngôi nhà do chính cô ấy xây dựng cùng với Glass; sau đó đã truyền cảm hứng cho Naofumi thành lập ngôi làng của riêng mình. Sau khi nhóm của cô đánh bại Rồng Quỷ, cô thấy mình đang ở một đất nước thù địch và bị ném vào một mê cung ma thuật. Vào thời điểm cô gặp Naofumi và Rishia, những người bị Kyo ném vào mê cung, đã vài năm trôi qua. Với sự hỗ trợ của Naofumi, họ có thể trốn thoát và hợp tác cùng nhau để tìm kiếm các thành viên trong nhóm đã bị tách ra. Ban đầu không biết về mối đe dọa của Làn Sóng, cô ra lệnh cho nhóm của mình ngừng tấn công thế giới của Naofumi. Cô và nhóm của mình cùng Naofumi đánh bại Kyo và thề sẽ hợp tác cùng nhau để giải quyết bí ẩn của Làn Sóng và cứu thế giới của họ mà không cần phải giết các Anh hùng Huyền thoại khác. Công cụ săn bắn huyền thoại của cô có thể biến thành một con dao săn hoặc cần câu lớn. Không giống Naofumi, khả năng tấn công của cô bị hạn chế ở chỗ cô chỉ có thể tấn công quái vật. Sau khi cần được giải cứu lần thứ hai, cô đã mở khóa được Công cụ săn lùng nguyền rủa của Lười biếng. Kizuna không xuất hiện trong web novel gốc, mặc dù Glass, ở gần cuối câu chuyện, có đề cập đến một người bạn thân bị mất tích, có lẽ là ám chỉ Kizuna. Thất tinh (bảy ngôi sao) và các anh hùng chư hầu Rishia Ivyred (リーシア=アイヴィレッド, Rishia Aivireddo) Lồng tiếng bởi:Natsuko Hara Anh Hùng Thất tinh. Là con gái của một gia đình quý tộc thấp, ban đầu cô bị một quý tộc tham nhũng bắt cóc và được Itsuki cứu. Yêu anh ấy và ngưỡng mộ ý thức về công lý của anh, Rishia gia nhập nhóm của Itsuki. Tuy nhiên, Itsuki coi cô như một gánh nặng nên cố xua đuổi cô bằng cách coi cô như một người hầu hơn là một đồng đội. Sau khi vô tình vượt lên trên họ trong Cal Mira Wave, nhóm của Itsuki đã buộc tội cô làm vỡ một món đồ quan trọng và thuyết phục anh ta đuổi cô ra ngoài. Suy sụp về mặt cảm xúc, Rishia định tự tử nhưng được Naofumi và Filo cứu. Cảm nhận được tâm hồn đồng cảm trong cô và muốn chứng minh Itsuki sai, Naofumi đưa cô vào nhóm của mình với hy vọng huấn luyện cô thành một chiến binh có năng lực. Khi gặp Elrasla, cô được chọn làm người học việc của mình và trải qua quá trình huấn luyện nặng nề để có thể sử dụng năng lượng Sinh lực. Sau đó, khi Itsuki bị vũ khí nguyền rủa của mình làm điều xấu, cô thách đấu tay đôi với mục đích dạy anh sự khác biệt giữa công lý và sự tự cho mình là đúng. Vì lòng dũng cảm của cô, Cây cung huyền thoại đã chọn cô sử dụng Đạn Thất tinh (Boomerang); sức mạnh thực sự của nó chỉ được mở khóa khi nó được giải phóng khỏi Takt sau này. Sau khi đánh bại Itsuki, cô gia nhập lại nhóm của anh và làm việc để giúp anh phục hồi khỏi lời nguyền. Là một cô gái trẻ nhút nhát và có sức chịu đựng kém, Rishia thiếu tự tin vào bản thân nhưng đã học cách cởi mở sau khi gia nhập nhóm của Naofumi. Mặc dù ở cấp độ cao nhưng chỉ số của cô ấy rất yếu và phát triển kém. Chỉ trong thời điểm khủng hoảng, sức mạnh tiềm ẩn của cô mới tỏa sáng, cho phép cô một mình hạ gục những đối thủ mạnh như Kyo. Cô cũng thể hiện khả năng học tập vượt trội và là một học giả mới chớm nở; khiến Naofumi tin rằng có những chỉ số ẩn mà cô ấy chuyên về. Aultcray Melromarc XXXII (オルトクレイ=メルロマルク, Orutokurai Meromaruku XXXII) Lồng tiếng bởi: Yutaka Nakano Vua phối ngẫu của Melromarc và Anh hùng Thất tinh. Tên thật của ông ấy: Lüge Lansarz Faubrey (リュージュランサーズフォーブリー, Ryūju Ransāzu Fōburī), Aultcray trước đây là người thừa kế ngai vàng của Faubrey. Sau khi cha mẹ anh bị Hakuko của Siltvelt giết chết và mất quyền kế vị ngai vàng, anh và em gái mù của mình đã đổi tên và chuyển đến Melromarc. Ngay sau đó, anh gia nhập quân đội của Melromarc và thăng cấp, trở thành Anh hùng, giành chiến thắng trong cuộc chiến đang diễn ra với Siltvelt và kết hôn với Mirelliia. Lòng căm thù á nhân của anh càng tăng cao sau khi em gái anh bị gia tộc Hakuko bắt cóc/sát hại (không nhận ra rằng cô yêu Hoàng tử Hakuko của Siltvelt) và con trai anh bị ám sát (Siltvelt đã bị gài bẫy) và dẫn anh đi theo Giáo hội của Tam Anh Hùng. Chịu trách nhiệm quản lý Melromarc trong khi vợ ông đi công tác ngoại giao, Aultcray đã nhắm mắt làm ngơ trước các hiệp sĩ của Melromarc khi họ bắt làng của Raphtalia làm nô lệ, và theo lệnh của Giáo hội, đã triệu tập cả Tứ kỵ sĩ. Ban đầu khoan dung với việc Naofumi là Anh hùng Khiên, ông ra tòa sau khi con gái Malty của ông cáo buộc Naofumi cưỡng hiếp và đặt ra những trở ngại khiến cuộc sống của anh trở nên khó khăn hơn. Sau khi phá vỡ một số hiệp ước và làm suy giảm địa vị của Khiên Anh hùng, ông bị vợ mình quản thúc trong nỗ lực ngăn chặn chiến tranh nổ ra. Ông bị tước bỏ quyền quý tộc và thay vì bị Naofumi thúc đẩy án tử hình, tên của ông đã được đổi hợp pháp thành "Trash". Vẫn vững tin rằng Khiên Anh hùng sẽ chẳng mang lại gì ngoài sự hủy hoại cho Melromarc, Aultcray ban đầu vẫn bất chấp nỗ lực đền bù của Mirellia với Naofumi. Thái độ của ông bắt đầu thay đổi một chút sau cuộc gặp gỡ tình cờ với Fohl và Atla; những đứa con của người chị đã khuất của anh đang đi cùng Naofumi. Rơi vào tình trạng trầm cảm sâu sắc sau cái chết của cả vợ và cháu gái Atla, Aultcray bị Naofumi thuyết phục làm theo yêu cầu cuối cùng của Mirellia, đảm nhận lại vai trò là Người bảo vệ Melromarc với tư cách là Anh hùng, chọn tiếp tục được gọi là "Trash" để ghi nhận những sai lầm trong quá khứ của mình. Fitoria (フィトリア, Fitoria) Lồng tiếng bởi: Sakura Tange Nữ hoàng của Filolial và Anh hùng chư hầu đã mất. Đã vài trăm tuổi, Fitoria là thành viên cuối cùng còn sống sót của thế hệ Anh hùng huyền thoại trước đó và là con gái được tạo ra của Mamoru & Filolia. Trước khi họ qua đời, các Anh hùng Huyền thoại trước đây đã giao nhiệm vụ cho cô bảo vệ thế giới khỏi Làn Sóng khi họ trở về. Hoạt động bí mật, Fitoria và quân của cô chiến đấu với các Làn sóng ảnh hưởng đến các khu vực không được các Anh hùng Huyền thoại hiện tại bảo vệ. Cô xuất hiện lần đầu trước nhóm của Naofumi và cung cấp một nơi trú ẩn an toàn trong khi họ đang chạy trốn khỏi Nhà thờ Tam anh hùng. Đe dọa giết anh ta và các Anh hùng Huyền thoại khác để tiếp tục chu kỳ triệu hồi, Fitoria ra lệnh cho Naofumi hợp tác với các Anh hùng Huyền thoại khác. Khi bị Naofumi từ chối, cô bắt Melty làm con tin và thách đấu tay đôi với Filo. Nhận ra tiềm năng của Filo, cô chọn Filo làm người kế vị tiềm năng và tin tưởng vào Naofumi, tặng cho Filo một phần sức mạnh của mình. Sử dụng Filo làm phương tiện, cô có thể liên lạc với Naofumi bằng thần giao cách cảm và hỗ trợ nhóm của anh ấy trong trận chiến chống lại Rùa Thần do Kyo điều khiển. Là một người nghiêm khắc, Fitoria có cái nhìn bi quan về nhân loại. Vô cùng mạnh mẽ và thực hiện nhiệm vụ của mình một cách nghiêm túc, cô ấy sẵn sàng sử dụng mọi biện pháp để bảo vệ thế giới ngay cả khi điều đó có nghĩa là buộc phải tiếp tục chu kỳ Anh hùng huyền thoại hoặc cho phép Quái thú hộ mệnh nổi cơn thịnh nộ. Giống như Filo, cô ấy có thể mang hình dáng của một cô gái trẻ. Chủ sở hữu hiện tại của Xe vận chuyển chư hầu, nó đã thuộc quyền sở hữu của cô ấy quá lâu đến nỗi sự tồn tại của nó đã bị lãng quên, dẫn đến việc các Vũ khí chư hầu còn lại được biết đến được mệnh danh là: "Vũ khí thât tinh". Fohl (フォウル, Fouru) Lồng tiếng bởi: Kōhei Amasaki Anh Hùng Găng Tay Thất tinh và một bán nhân Bạch Hổ. Là cháu trai của cựu vương Siltvelt, cậu đến Zeltoble và bán mình làm nô lệ sau khi số tiền mà cha mẹ quá cố của cậu để lại cạn kiệt; chiến đấu ở đấu trường để trả tiền thuốc cho em gái mình. Cậu và Atla sau đó được Naofumi mua và đưa về làng của anh. Biết ơn Naofumi vì đã chữa khỏi bệnh cho em gái mình, Fohl thề sẽ dành phần công việc hợp lý của mình để trả ơn cho anh ta bằng cách chiến đấu trong Làn Sóng. Là thành viên của Hakuko, một loài á nhân quý hiếm và mạnh mẽ, Fohl vừa kiêu hãnh, bướng bỉnh vừa là một võ sĩ bẩm sinh. Bảo vệ em gái mình quá mức, cậu thường xung đột với tính cách cứng rắn của Atla, dẫn đến việc anh phải hứng chịu những đòn tấn công cuối cùng của cô; khiến Naofumi băn khoăn giữa hai người ai mạnh hơn. Mặc dù chỉ mang nửa dòng máu á nhân, cậu có được khả năng biến thành Therianthrope và sau đó, với sự giúp đỡ của Naofumi, cậu ta có được khả năng sử dụng thứ thậm chí còn mạnh hơn: Biến đổi quái vật. Thề sẽ tiếp tục chiến đấu để thực hiện di nguyện cuối cùng của người chị quá cố khi cô bị thương nặng trong trận chiến Phoenix, Fohl được chọn để sử dụng Găng tay thất tinh. Sadeena (サディナ, Sadina) Lồng tiếng bởi: Ami Koshimizu Anh hùng Phóng Lao của Chư hầu. Một á nhân Orca đến từ Q'Ten Lo, Sadeena từng là nữ tu sĩ trong đền thờ. Được xem như một thần đồng trong gia tộc của mình, Sadeena bị buộc phải huấn luyện từ khi còn nhỏ để trở thành đao phủ hoàng gia và khiến cô căm ghét gia đình mình cũng như sự lãnh đạo của Q'Ten Lo. Trung thành với cha của Raphtalia, người thừa kế ngai vàng Q'Ten Lo, cô đã cùng anh và mẹ của Raphtalia bỏ trốn. Trong một chuyến đi câu cá trong Làn sóng đầu tiên, Sadeena đã không thể bảo vệ những người dân làng của mình hoặc ngăn chặn họ biến thành nô lệ bởi các Hiệp sĩ Hoàng gia của Melromarc. Cô theo dõi những người sống sót đến Zeltoble, và tự biến mình thành một chiến binh đấu trường để mua lại tự do cho họ và dẫn cô đến một cuộc gặp gỡ tình cờ với nhóm của Naofumi. Là một người mẹ đối với những người dân làng, cô vô cùng hối hận vì đã thất bại ban đầu trong việc bảo vệ ngôi nhà của mình và đặc biệt là Raphtalia. Đóng vai một người chị, cô cố gắng hết sức để bảo vệ Raphtalia khỏi lịch sử gia đình cô, dù biết rằng điều đó có thể châm ngòi cho một cuộc chiến. Là một người nghiện rượu, cô thường tán tỉnh Naofumi, người đã vô tình thắng cô trong một cuộc thi uống rượu; mặc dù không biết cảm xúc của cô thực sự như thế nào. Là một cựu chiến binh kỳ cực kỳ có năng lực, cô ấy sở hữu đủ sức mạnh để chống lại toàn bộ nhóm của Naofumi và sẵn sàng thoát khỏi lời nguyền nô lệ của mình; một nỗi sợ có thể giết chết hầu hết mọi người. Mang theo một cây đinh ba, cô sử dụng hỗn hợp phép thuật nước và sét và có thể tăng chỉ số của mình bằng cách sử dụng hình dạng Therianthrope của mình. Với sự hỗ trợ của Naofumi, cô sau đó có thể mở khóa Biến đổi Quái vật của cô, cho phép cô bay trong không trung như thể đang bơi. Giải cứu nó khỏi Đội tiên phong của Làn Sóng khi du hành trong thế giới song song, Sadeena được chọn làm người sử dụng mới của Chư hầu Phóng Lao. Glass (グラス, Gurasu) Lồng tiếng bởi: Megumi Han Anh hùng Quạt chư hầu. Là một võ sĩ được chọn để sử dụng quạt Chư hầu, cô gia nhập nhóm của Kizuna và trở thành đồng minh thân cận nhất của cô. Lạnh lùng và nghiêm khắc, cô có lòng tự trọng cao và chỉ mở lòng với Kizuna; người mà cô coi là bạn thân nhất của mình. Sau khi Kizuna biến mất, như một hành động tuyệt vọng, Glass và các đồng minh còn lại của Kizuna quyết định xâm chiếm thế giới của Naofumi khi biết rằng thế giới của họ có thể thoát khỏi Làn Sóng nếu các Anh hùng Huyền thoại của thế giới song song bị diệt vong. Glass lần đầu tiên xuất hiện trước các Tứ đại kỵ sĩ trong Làn sóng thứ ba và thách đấu Naofumi trong một trận đấu tay đôi, công nhận anh ta là anh hùng thực sự duy nhất trong số họ. Bị choáng ngợp bởi sức mạnh của cô, nhóm của Naofumi may mắn sống sót. Cô xuất hiện một lần nữa trước Naofumi trong Cal Mira Wave để hỗ trợ đồng minh giết anh ta, nhưng buộc phải rút lui sau khi Naofumi phát hiện ra điểm yếu của cô. Được lệnh dùng vũ khí của mình để giết Kyo sau khi anh lừa, cô thành lập liên minh với Naofumi để đánh bại anh ta; cuối cùng đoàn tụ với Kizuna trong quá trình này. Ban đầu coi thường Naofumi, cô dần tôn trọng anh và biết ơn sự giúp đỡ của anh trong việc giải cứu Kizuna. Để thể hiện tình bạn, Naofumi để lại cho cô một công thức Nước chữa lành linh hồn, giúp cô che đậy điểm yếu của mình trong các trận chiến trong tương lai. Là thành viên của một chủng tộc được gọi là Người Tinh Linh, tại bất kỳ thời điểm nào, cấp độ và chỉ số của cô ấy đều gắn liền với Sức mạnh Linh hồn của cô. Vì vậy, Glass rất dễ bị tổn thương trước các cuộc tấn công có thể làm tiêu hao chỉ số này. Sử dụng những chiếc quạt của mình, cô chiến đấu bằng một hình thức võ thuật duyên dáng. Tương tự như Raphtalia, cô phát hiện ra rằng mình đến từ một Vương quốc đã sụp đổ từ lâu, có khả năng tương đương với Q'Ten Lo trong việc bình định các Vũ khí Huyền thoại. Tuy nhiên, do huyết thống yếu hơn nên cô chỉ có thể tiếp cận những khả năng này khi có sự hỗ trợ từ Shildina. L'Arc Berg Sickle (ラルクベルク=シクール, Rarukuberuku Shikūru) Lồng tiếng bởi: Jun Fukuyama Anh hùng lưỡi hái chư hầu. Vị vua trẻ của một đất nước Anh hùng săn bắn, anh ta được chọn để sử dụng Lưỡi hái chư hầu và gia nhập nhóm của Kizuna khi được cô triệu tập. Là một người thoải mái, anh thích đi du lịch và chiến đấu bất chấp nhiệm vụ của mình là vua. Anh và người bạn đồng hành của mình, Therese, bí mật du hành đến thế giới của Naofumi, với hy vọng tìm và đánh bại các Anh hùng Huyền thoại để cứu thế giới của chính mình. L'Arc vô tình kết bạn với Naofumi khi họ tới quần đảo Cal Mira để huấn luyện, đề nghị hợp tác trong thời gian họ lưu trú. Nghe tin đồn rằng Khiên anh hùng là tội phạm, anh khẳng định Naofumi không thể là Anh hùng huyền thoại, tin rằng anh là người tốt và thay vào đó gọi anh là "nhóc con". Chỉ trong Cal Mira Wave, anh mới nhận ra Naofumi là ai và thách thức anh ta, nhưng buộc phải rút lui. Sau đó anh quay lại và liên minh với Naofumi để đánh bại Kyo; từ bỏ mục tiêu giết các Anh hùng Huyền thoại theo lệnh của Kizuna. L'Arc không xuất hiện trong web novel. Ethnobalt (エスノバルト, Esunobaruto) Lồng tiếng bởi: Kengo Kawanishi Anh hùng sách chư hầu. Thủ lĩnh của loài Thỏ Thư viện, một chủng tộc học giả sống ở thế giới song song. Giống như loài Filolial, anh mang hình dạng một cậu bé. Được Kizuna giới thiệu với Naofumi, anh sử dụng kiến ​​thức của mình trong việc tạo ra Thức thần để giúp tìm kiếm những người bạn mất tích của họ và sau đó tham gia vào trận chiến chống lại Kyo. Là một cá nhân dè dặt, do giống loài của anh không thích hợp để chiến đấu, anh ta thường rời bỏ vị trí để đóng vai trò hỗ trợ trong trận chiến. Ban đầu được giới thiệu là Anh hùng thuyền chư hầu, có khả năng bay và vận chuyển đồng minh, sau đó nó bị Đội tiên phong của Làn sóng đánh cắp. Trong trận chiến chống lại Hidemasa, Ethnobalt được chọn làm Anh hùng Sách chư hầu mới, cho anh ta khả năng thực hiện hành động tấn công trong trận chiến. Khi ở thế giới của Naofumi, do Thỏ Thư viện không tồn tại nên anh ta mang hình dạng của một con quái vật Usapil. S'yne Lokk (セイン=ロック, Sein Rokku) Lồng tiếng bởi: Maria Naganawa Anh hùng may vá chư hầu. Là người sống sót duy nhất của một thế giới đã bị hủy diệt sau khi các Anh hùng huyền thoại bị giết, cô bị bỏ lại du hành không mục đích từ thế giới này sang thế giới khác. Bị bỏ rơi không có mục đích, cô cải trang và tham gia vòng đấu trường Zelttoble, nhanh chóng vươn lên trở thành võ sĩ hàng đầu. Cô gặp nhóm của Naofumi trong trận chung kết của giải đấu và bị đánh bại trong gang tấc. Sau đó, cô tái xuất hiện tại làng của Naofumi, hy vọng được tham gia cùng nhóm của anh để chiến đấu chống lại Đội tiên phong của Làn Sóng và kiếm được tiền thu được từ các trận đấu đấu trường của cô. Vũ khí chính của S'yne là một chiếc kéo và có thể trói đối thủ bằng những sợi chỉ. Cô có thể tạo ra thú nhồi bông để chiến đấu và nói chuyện thay mặt cô ấy, cũng như những chiếc ghim khâu đặc biệt cho phép cô dịch chuyển đến vị trí của chúng. Có vẻ trầm lặng và vô cảm, S'yne dần dành sự tôn trọng sâu sắc cho Naofumi; đặt những chiếc ghim của cô ấy lên áo giáp của anh để cô có thể theo dõi anh mọi lúc. Do thế giới quê hương của cô bị phá hủy, tính năng dịch thuật của vũ khí của cô bị hỏng, khiến giọng nói của cô bị tĩnh một phần và dần dần khiến vũ khí của cô mất đi sức mạnh. Là thành viên của chủng tộc Skywing, cô dần lấy lại khả năng bay đã mất của chủng tộc mình sau quá trình huấn luyện với tổ tiên R'yne. S'yne không xuất hiện trong web novel. Nhân vật phản diện Malty S. Melromarc (マルティ=S=メルロマルク, Maruti Meruromaruku) Lồng tiếng bởi: Sarah Emi Bridcutt Cựu Nhất Công chúa của Melromarc và là nhân vật phản diện chính của bộ truyện. Sử dụng "Myne Sophia" làm tên nhà thám hiểm của mình, Malty là người đầu tiên và duy nhất gia nhập Naofumi ngay từ đầu, nhưng ngay sau đó, cô đã lấy trộm tiền và thiết bị của anh ta, sau đó cho rằng anh ta đã cưỡng hiếp cô. Cô tham gia nhóm của Motoyasu, tin rằng vẻ ngoài điển trai của anh sẽ có thể giúp cô đứng trong giới quý tộc ở Melromarc. Khi ở trong nhóm của Motoyasu, cô đóng vai trò là chỉ huy thứ hai của anh, lợi dụng sự cả tin của anh và lôi kéo anh làm công việc bẩn thỉu của mình hoặc khiến cuộc sống của Naofumi trở nên khốn khổ hơn. Bất chấp lòng tốt của Motoyasu, cô vẫn lăng mạ anh sau lưng và bán các thành viên trong nhóm của mình làm nô lệ tình dục nếu họ cản đường cô. Sau sự thất bại của Nhà thờ tam anh hùng, những thành viên mà cô hợp tác trong nỗ lực ám sát em gái Melty và gài bẫy Naofumi, bản chất thực sự của Malty bị mẹ cô vạch trần. Bị rời khỏi hoàng gia, Malty bị đặt dưới lời nguyền nô lệ đặc biệt và buộc phải tiết lộ những tội ác còn lại của mình. Thay vì Naofumi thúc đẩy án tử hình, tên của cô được đổi hợp pháp thành "Bitch". Cô ta ở lại nhóm của Motoyasu để có thể trả nợ; Motoyasu vẫn tin vào lời nói dối của cô. Tuy nhiên, cô và những người theo mình đã bỏ rơi Motoyasu trong trận chiến với Rùa Thần. Bây giờ là tội phạm bị truy nã, cô bỏ trốn, sau đó thao túng và cướp cả đồ Ren và Itsuki. Du hành đến Faubrey, Malty nhanh chóng gia nhập hậu cung toàn phụ nữ của Takt và hợp tác với anh ta để đánh cắp Vũ khí Huyền thoại và giết gia đình cô để đổi lấy việc xóa bỏ lời nguyền nô lệ trên người cô. Sau đó, cô xuất hiện với tư cách là thành viên của Đội tiên phong của Làn Sóng, hỗ trợ họ đánh cắp Vũ khí Huyền thoại và Chư hầu trong thế giới của Kizuna. Chuyên về phép thuật lửa, Malty tàn bạo, ham muốn quyền lực và lôi kéo. Cô ta sử dụng ngoại hình và địa vị của mình để kiểm soát người khác, thường thu hút cái tôi của họ hoặc lợi dụng sự ngây thơ của họ. Trước khi bắt đầu bộ truyện, tin rằng mình không đủ khả năng để cai trị và đã tìm thấy bằng chứng về khả năng cô có liên quan đến vụ ám sát em trai mình, Mirellia đã xếp người kế vị ngai vàng sau em gái mình. Mald (マルド, Marudo) Lồng tiếng bởi: Taiten Kusunoki Được Naofumi đặt biệt danh là "Áo giáp" do không bao giờ được nhìn thấy nếu không mặc một bộ áo giáp nặng và nói chung là không muốn nhớ tên mình, Mald là cựu thành viên trong nhóm của Itsuki. Gia nhập nhóm của Itsuki để nâng cao cảm giác vượt trội của bản thân, hắn ta có thái độ cứng rắn và coi thường Naofumi cũng như tất cả các á nhân. Bị lừa dối và tự cho mình là đúng, hắn ta coi bất cứ ai không đồng ý với mình đều là ác quỷ. Bực mình với những thành công của Naofumi và sự thiếu sót của Itsuki, Mald cùng các thành viên trong nhóm của mình bỏ rơi Itsuki trong trận chiến chống lại Rùa Thần bằng cách trói anh ta lại và bỏ mặc cho đến chết. Tham gia cùng Malty và các đồng minh của cô khi họ thoát khỏi Melromarc, hắn hỗ trợ cô lừa Itsuki chiến đấu trong đấu trường của Zeltoble. Cùng với Malty, Mald xuất hiện trở lại trước Naofumi và Itsuki trong thế giới của Kizuna với tư cách là thành viên của Đội tiên phong của Làn Sóng. Sau khi đánh cắp sức mạnh của Rìu Thất tinh, hắn ta hỗ trợ họ đánh cắp Vũ khí Huyền thoại và Chư hầu. Tuy nhiên, sau thất bại ban đầu, quyền sở hữu Rìu Thất tinh của hắn ta bị từ bỏ dẫn đến việc hắn bị nhóm của Itsuki đánh bại và bắt giữ. Nhà thờ tam anh hùng Tôn giáo chính của Melromarc coi Khiên Hiệp sĩ là một con quỷ. Ban đầu là một phần của Giáo hội Tứ anh hùng, nơi tôn thờ các Anh hùng huyền thoại như nhau, Giáo hội đã tan rã do sự phẫn nộ về chủng tộc khi một cựu Anh hùng Khiên hỗ trợ thành lập các quốc gia bán nhân loại như Siltvelt. Giúp thành lập Melromarc trong sự phản đối, Giáo hội nắm giữ quyền lực trong các công dân của Melromarc và bảo vệ Đồng hồ cát có vân rồng của đất nước; một công cụ được sử dụng để Thăng hạng, dự đoán các Đợt sóng và có thể được sử dụng làm điểm dịch chuyển của các Anh hùng Huyền thoại. Sau khi Nữ hoàng Mirellia, người không tán thành niềm tin của họ, rời đi trong chuyến công du ngoại giao vòng quanh thế giới, Giáo hội đã lợi dụng ảnh hưởng của mình với Vua Aultcray để triệu tập sớm các Anh hùng Huyền thoại; hy vọng thao túng Motoyasu, Ren và Itsuki để có thêm sức mạnh đồng thời khiến cuộc sống của Naofumi trở nên khó khăn hơn. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực của họ, sự anh hùng của Naofumi và sự kém cỏi chung của Tam Anh hùng còn lại khiến họ bắt đầu mất đi ảnh hưởng trong dân chúng. Thực hiện các biện pháp quyết liệt, họ cố gắng buộc tội Naofumi ám sát và sau đó bắt cóc Công chúa Melty. Đi đến kết luận rằng Motoyasu, Ren và Itsuki là những Anh hùng giả và tự xưng là Thần, Thượng tế (Biscas T. Balmus (ビスカ=T=バルマス, Bisuka Barumasu ) trong anime dẫn đầu những người theo mình trong một nỗ lực để loại bỏ cả tứ kỵ sĩ và lật đổ hoàng gia. Với sự hỗ trợ từ Mirellia đang quay trở lại, Naofumi giết chết High Priest bằng Khiên Phẫn nộ khi những người theo ông ta bị bắt. Sau đó, Mirellia sử dụng cơ hội chính trị để tuyên bố Giáo hội là dị giáo và đặt họ ngoài vòng pháp luật. Hoàng đế rồng quỷ Một Hoàng đế Rồng đến từ thế giới song song, trước khi bắt đầu bộ truyện đã cố gắng chinh phục loài người. Bị đánh bại bởi Anh hùng săn bắn Kizuna và các đồng minh của cô, hài cốt của hắn ta bị lấy đi và sử dụng để rèn vũ khí mới. Để chuẩn bị chống lại Kyo, Naofumi được tặng một phần lõi rồng của mình, vô tình hợp nhất nó với lõi của Hoàng đế rồng Gaelion để tăng sức mạnh cho chiếc khiên của anh. Giờ đây bên trong Khiên Huyền thoại, Rồng Quỷ quyết định chờ đợi thời cơ và bí mật hỗ trợ Naofumi trong trận chiến chống lại Kyo. Hắn ta làm cho sự hiện diện của mình được biết đến đầy đủ sau khi Gaelion bị Hoàng đế rồng Gaelion chiếm hữu bằng cách cướp đi mối liên hệ giữa họ với Naofumi và Filo; người trước đây đã tự tăng sức mạnh bằng cách sử dụng lõi rồng. Hấp thụ sức mạnh từ nạn nhân của mình, hắn ta sử dụng Naofumi làm vật trung gian và lấy sức mạnh của mình từ Khiên Phẫn nộ; trở thành hiện thân của bóng tối bên trong Naofumi được gọi là Rồng Phẫn Nộ. Sau khi bị đánh bại, không còn có thể duy trì hình dạng vật lý của mình, hắn ta rút lui vào bên trong Khiên Huyền thoại và cơ thể của Filo, thề sẽ quay trở lại nếu Naofumi cho phép cơn thịnh nộ của mình kiểm soát trở lại. Tìm kiếm các biện pháp đối phó trong cuộc chiến chống lại Đội tiên phong của Làn Sóng, Naofumi và Kizuna miễn cưỡng lựa chọn hồi sinh Rồng Quỷ bằng cách sử dụng phần cốt lõi còn lại của hắn. Tái sinh thành một con rồng cái và được đặt dưới quyền sở hữu của Kizuna, Rồng Quỷ nhận ra mối đe dọa trước mắt và đồng ý ký một hiệp ước với các đối thủ của cô. Có cảm tình với Naofumi và thề trung thành với anh, thường xuyên quấy rối tình dục anh, cô chia sẻ kiến ​​​​thức của mình về ma thuật và tài nguyên cổ xưa. Sau đó, cô sử dụng phép thuật của mình để đặt một bản sao tâm trí của mình vào Khiên huyền thoại để hỗ trợ Naofumi sử dụng phép thuật và cung cấp hướng dẫn ngay cả khi ở các thế giới khác nhau. Bất chấp liên minh của họ, cô ấy khiến các đồng minh của mình lo lắng trong trận chiến bằng cách nuốt chửng linh hồn của kẻ thù đã ngã xuống và biến xác của họ thành người hầu thây ma. Đội tiên phong của Làn Sóng Lực lượng đối kháng chính của bộ truyện. Được thành lập và lãnh đạo bởi một nhà lãnh đạo vô danh được nhắc đến trong truyền thuyết là Thần, tổ chức này tìm kiếm quyền lực bằng cách thực thi việc hủy diệt các Thế giới thông qua Sóng bằng cách phá hoại và giết chết các Anh hùng Huyền thoại bảo vệ họ. Phần lớn thành viên của tổ chức bao gồm các cá nhân từ thế giới khác. Không giống như các Anh hùng huyền thoại được triệu tập có chọn lọc, những cá nhân này được tái sinh thành cơ thể mới cho phép họ đi qua mà không bị chú ý và giữ lại kiến ​​thức về tiền kiếp của họ. Được Chúa cho biết rằng họ đã được chọn để sống cuộc sống mới, họ chấp nhận lời đề nghị và tin rằng giờ đây bản thân có cơ hội thực hiện ước mơ của mình. Tin rằng mình là người đặc biệt và ít quan tâm đến cư dân của thế giới nguyên thủy, họ cam kết trung thành với Chúa của mình và hầu như được tự do sống cuộc sống mới của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, họ đã được lựa chọn có chủ đích do những đặc điểm tính cách tiêu cực mà họ thể hiện ở kiếp trước khiến họ dễ dàng kiểm soát. Xem các Anh hùng Huyền thoại là mối đe dọa đối với cuộc sống và địa vị mới của họ, Thần của họ ban cho họ nhiều khả năng đặc biệt để chống lại họ như có thể đánh cắp Vũ khí Huyền thoại hoặc tự hồi sinh miễn là linh hồn của họ vẫn còn. Tuy nhiên, nếu họ cố gắng tiết lộ con người thật của mình hoặc thông tin về tổ chức, cơ thể và linh hồn của họ sẽ ngay lập tức bị tiêu diệt. Kyo Ethnina (キョウ=エスニナ, Kyō Esunina) Lồng tiếng bởi: Ryōhei Kimura Cựu anh hùng sách chư hầu. Được đất nước lựa chọn để sử dụng Sách chư hầu, Kyo trở thành một nhà khoa học du hành nghiên cứu về các Làn Sóng với hy vọng sử dụng sức mạnh của chúng cho chính mình. Nghiên cứu của anh khiến anh bí mật du hành đến thế giới của Naofumi và đánh thức sớm Thần hộ mệnh được gọi là Rùa Thần. Kiểm soát cơ thể của nó, Kyo sử dụng sức mạnh của Rùa Thần để hấp thụ năng lượng từ những linh hồn đã chết và dẫn dắt nó thực hiện một cuộc tàn sát tàn khốc khắp một số vương quốc. Đánh bại nhóm Motoyasu, Ren và Itsuki, Kyo giam giữ họ để đánh cắp thêm sức mạnh từ Vũ khí Huyền thoại của họ. Với sự giúp đỡ từ Ost, nhóm của Naofumi và Fitoria đã thành công trong việc tiêu diệt Rùa Thần, buộc hắn phải chạy trốn trở lại thế giới song song của mình với số năng lượng còn lại mà hắn đã thu thập được. Sử dụng năng lượng thu thập được của Rùa Thần, Kyo trói vũ khí chư hầu của mình sau khi nó cố gắng nổi loạn. Tiếp tục nghiên cứu của mình, anh ta bí mật bắt cóc nhiều nhà mạo hiểm, bao gồm cả Anh hùng Gương chư hầu, và tiến hành các thí nghiệm trên người sống. Tạo ra một đội quân gồm những người quen và quái vật homunculus, anh cố gắng chiếm lấy thế giới của mình. Tấn công phòng thí nghiệm của anh, nhóm của Naofumi thành công trong việc giết chết anh ta bằng Khiên Phẫn nộ và Khiên Rùa Thần. Linh hồn của anh sống sót và cố gắng chiếm hữu một bản sao homunculus của cơ thể mình, nhưng bị một con quái vật Soul Eater gần đó nuốt chửng. Cuốn sách và tấm gương chư hầu, thoát khỏi sự kiểm soát của anh ta, biến mất để tìm người sở hữu mới. Kyo sau đó được suy ra là một trong những Đội tiên phong của Làn Sóng; một người đến từ phiên bản Nhật Bản sau khi chết đã được tái sinh vào thế giới của Glass. Trong anime, anh được cho là một game thủ đã tự tử sau khi hồ sơ của mình trong trò chơi mà anh ta bị ám ảnh bị hack. Nhân vật phụ Thành viên nhóm/Làng Lurolona Keel (キール, Kīru) Lồng tiếng bởi: Tsumi Fujiwara Bạn thời thơ ấu của Raphtalia, một bán nhân Chó. Trong web novel, cô là một trong những nô lệ đầu tiên của ngôi làng mà Naofumi mua, trong khi trong light novel, cô bị giam trong ngục tối của tên quý tộc trước đó đã tra tấn Raphtalia. Ban đầu ghen tị với mối quan hệ của Naofumi với Raphtalia, cô coi anh như một người anh trai và đặt cho anh biệt danh: "Khiên bong bóng". Vì muốn giúp bảo vệ bạn bè của mình, cô xin gia nhập nhóm của Naofumi cũng như chọn trở thành nô lệ của anh để tận dụng các chỉ số thưởng của Khiên Huyền thoại. Sau đó, cô trở thành thủ lĩnh không chính thức của những nô lệ trẻ tuổi của Naofumi, thường xuyên chọc thủng những nỗ lực hành động cứng rắn của Naofumi và giúp huấn luyện cách tự vệ. Cô cũng hỗ trợ công việc kinh doanh buôn bán của Naofumi, ăn mặc đẹp để giúp thu hút khách hàng của cả hai giới. Vì muốn giống Cha mình, Keel ban đầu nghĩ cô là con trai; chưa học được sự khác biệt giữa các giới tính. Chỉ sau khi bạn bè chỉ ra quan niệm sai lầm của cô, cô mới nhận ra sự hiểu lầm của mình. Ban đầu đau khổ, Naofumi an ủi cô, giải thích và khẳng định lại niềm tin của anh vào bình đẳng giới; nói rằng cô ấy vẫn được chào đón trong bữa tiệc của anh. Sau đó, cô có khả năng sử dụng hình dạng Therianthrope, hình dạng giống một con chó con. Atla (アトラ, Atora) Lồng tiếng bởi: Konomi Kohara Một á nhân Bạch Hổ và là em gái của Fohl. Bị mù từ khi sinh ra, cô vốn có thể chất yếu ớt và mắc vô số bệnh tật. Sau khi được Naofumi mua, cô được tặng một loại thuốc cực mạnh tên là Yggdrasil, và được tăng cường sức mạnh nhờ tác dụng thụ động của Khiên huyền thoại, cô được chữa khỏi bệnh ngoài đôi mắt vẫn mù. Có thể cảm nhận được lòng tốt trong trái tim anh, cô yêu Naofumi và cống hiến hết mình để giành được trái tim anh và giúp anh chiến đấu với Làn Sóng. Kiên quyết và có tính quyết đoán cao, cô thường cố gắng quản lý vi mô và thay mặt Naofumi nói chuyện, ca ngợi những người tỏ ra ưu ái anh ấy và thề sẽ giết kẻ thù của anh, khiến Naofumi rất đau đầu. Cô coi Raphtalia là đối thủ của mình và trở thành bạn thân chiến đấu của cô. Có khả năng cảm nhận khí một cách tự nhiên để giúp cô nhìn thấy xung quanh, cô sử dụng một loại võ thuật nhẹ nhàng, thường bắt chước những lời dạy của Hengen Muso. Được coi là một thần đồng, cô có thể dễ dàng chế ngự và vượt qua những đối thủ có sức mạnh thể chất hoặc phòng thủ cao hơn, vượt trội hơn anh trai mình mặc dù thiếu kinh nghiệm chiến đấu và những đau khổ trước đây. Trong trận chiến chống lại Phượng Hoàng Quái Thú Hộ Mệnh, Alta hy sinh bản thân để bảo vệ Naofumi và Quân đội Liên minh. Chết trong vòng tay của Naofumi, cô thú nhận tình yêu của mình và hôn anh, yêu cầu anh nhận thức rõ hơn về cảm xúc của những người xung quanh. Trước sự ngạc nhiên của Naofumi, cơ thể của cô sau đó được hấp thụ vào Khiên Huyền thoại, mở khóa Khiên Từ bi May mắn. Linh hồn của Atla đọng lại bên trong thế giới của các linh hồn Vũ khí Huyền thoại, nơi cô và Ost sau đó xuất hiện để giải thích cho Naofumi về bản chất của kẻ đứng sau Làn Sóng. Imiya Leuthurn Reethela Teleti Kuwariz (イミア=リュスルン=リーセラ=テレティ=クーアリーズ, Imia Ryusurun Rīsera Tereti Kuārīzu) Lồng tiếng bởi: Konomi Inagaki Một trong những nô lệ mà Naofumi mua để tái định cư ngôi làng và là thành viên của chủng tộc á nhân giống chuột chũi được gọi là Lumo. Imiya được Naofumi chọn do chủng tộc của cô nổi tiếng là giỏi làm những công việc chi tiết và bắt đầu học chế tạo phụ kiện. Ban đầu khá rụt rè, nhưng những người dân làng đã có thể đưa cô ra khỏi vỏ bọc của mình khi Naofumi có thể đoàn tụ cô với chú của mình. Dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Naofumi, Imiya trở nên xuất sắc trong việc chế tạo phụ kiện đến mức Naofumi và Therese thừa nhận rằng cô ấy có khả năng vượt qua giáo viên của mình. Người ta cũng ngụ ý rằng cô đã phải lòng Naofumi. Wyndia (ウィンディア, Uindia) Lồng tiếng bởi: Hana Hishikawa Một á nhân thuộc loại Chó có niềm yêu thích với quái vật, đặc biệt là rồng, được Naofumi mua để tái định cư cho ngôi làng. Wyndia ban đầu được Long Hoàng Gaelion nuôi dưỡng cho đến khi bị Ren và nhóm của anh lỡ giết chết. Sau đó cô được dân làng gần đó tìm thấy, gia đình còn lại của cô (là một con rồng đã nuôi cô) bị giết và bản thân bị bán làm nô lệ. Naofumi không hề hay biết, cô đã giúp thu thập thêm quái vật cho làng, và khi Naofumi phát hiện ra, Wyndia đã cố gắng phủ nhận rằng có nhiều quái vật hơn bằng cách đứng ngay trước mặt một con quái vật trong vô vọng, khiến Naofumi gọi ngắn gọn là "Cô gái thung lũng" như một sự ám chỉ đến một bộ anime mà anh đã xem. Quan tâm đến quả trứng rồng được tặng cho Naofumi, Wyndia đã đặt tên nó là Gaelion khi nó mới nở, theo tên cha nuôi của cô và trở thành người chăm sóc nó. Wyndia không biết rằng Gaelion hiện tại cũng chứa đựng ý thức về người cha đã khuất của cô; đã bắt Naofumi hứa không tiết lộ sự tồn tại của ông. Cùng với Ratotille, Wyndia chăm sóc hầu hết quái vật trong làng và duy trì mối quan hệ khó khăn nhưng chấp nhận với Ren, người cố gắng chuộc lỗi với cô vì đã giết Gaelion (cha rồng) của cô. Ratotille Anthreya (ラトティル=アンスレイア, Ratotiru Ansureia) Lồng tiếng bởi: Satsuki Kokubu biệt danh Rat (ラト, Rato), một nhà nghiên cứu quái vật và nhà giả kim đến từ Faubrey, người đã đến làng Naomi sau khi bị lưu đày vì không muốn chịu sự thống trị của Takt. Gaelion (ガエリオン Gaerion) Một con rồng được Naofumi ấp và nuôi dưỡng từ một quả trứng được một nguồn ẩn danh từ một quốc gia khác tặng cho anh ta. Melromarc Erhard (エルハルト, Eruharuto) Lồng tiếng bởi: Hiroki Yasumoto Thợ rèn địa phương của Castletown, Erhard ban đầu là một nhà thám hiểm, kiếm sống bằng cách đi du lịch khắp nơi và săn quái vật. Một ngày nọ, Erhard gặp một thợ rèn và bị mê hoặc bởi những vũ khí mà anh chế tạo ra. Từ bỏ việc trở thành một nhà thám hiểm, anh và một học sinh khác trở thành người học việc của thợ rèn; mặc dù quá trình học việc của họ chưa hoàn thành do Chủ nhân lăng nhăng của họ đã biến mất. Nhiều năm sau, Erhard định cư ở Melomarc và mở tiệm rèn của riêng mình ở thị trấn lâu đài. Erhard gặp Naofumi lần đầu tiên sau khi Malty đưa cậu đến cửa hàng của mình và bắt đầu thích thú với việc cậu bé mặc cả để có giá thấp hơn. Khi nghe tin Naofumi phạm tội, anh ta trở nên rất tức giận và đến đối đầu với anh, kéo Naofumi sang một bên. Tuy nhiên, để ý đến thái độ của anh ta, Erhard nhận ra sự vô tội của Naofumi và đưa cho anh một túi trang bị cơ bản để giúp sống sót. Là người đầu tiên tin tưởng Naofumi, anh ấy đánh giá cao Erhard. Tìm kiếm lời khuyên của anh và cung cấp công việc kinh doanh cho anh ấy bất cứ khi nào có thể, Naofumi coi kỹ năng thợ rèn của anh gần như không ai sánh kịp; thường không thành công trong việc yêu cầu Erhard chuyển đến ngôi làng của Naomi lập nghiệp. Sau đó, anh tham gia nhóm của Naofumi trong cuộc hành trình đến Q'Ten Lo, tìm cách đoàn tụ với Chủ nhân của mình và hoàn thành quá trình học việc, cũng như yêu cầu anh trả những món nợ mà Erhard đã gánh khi rời đi. Beloukas (ベローカス, Berōkasu) Lồng tiếng bởi: Kenichi Ogata Một thương gia xảo quyệt chuyên bán quái vật hoang dã và nô lệ ở chợ đen Melromarc, chỉ được gọi là Người buôn nô lệ cho nhanh. Tìm cách lợi dụng hoàn cảnh của Naofumi và thu lợi từ danh tiếng của một Anh hùng huyền thoại, ông ta tiếp cận Naofumi và thuyết phục anh mua nô lệ để giúp anh nâng cao trình độ của mình; đặc biệt lưu ý rằng nô lệ không thể nói dối chủ nhân. Bán Raphtalia và sau đó là Filo cho Naomi, Beloukas có thể mở rộng hoạt động kinh doanh của mình ra khắp thị trường chợ đen. Chán ghét lòng tham và không thích bị lợi dụng, Naofumi cố gắng giữ mối tương tác của mình với Beloukas ở mức mang tính giao dịch nhất có thể nhưng thường nhờ đến sự trợ giúp của ông ta khi thu thập thông tin hoặc tìm kiếm những cư dân phải di dời ở ngôi làng ban đầu của Raphtalia. Sau đó, người ta cho thấy rằng ông ta cũng làm việc và có gia đình ở nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả các quốc gia bán nhân loại, tất cả họ đều có nét giống nhau một cách đáng kinh ngạc. Ông ta tỏ ra không thiên vị khi nói đến nô lệ, ngay cả khi một nhóm mới trong số họ mà ông được giới thiệu là những người từng là nô lệ. Melty Q. Melromarc (メルティ=Q=メルロマルク, Meruti Meruromaruku) Lồng tiếng bởi: Maaya Uchida Nhị công chúa và là người thừa kế ngai vàng của Melromarc. Không giống như chị gái, cô tốt bụng và chu đáo. Cô cực kỳ yêu quý Filolial và nhanh chóng trở thành bạn thân nhất của Filo. Ban đầu, Naofumi cho rằng cô giống chị gái mình, phớt lờ nỗ lực của cô để nhờ anh hàn gắn mối quan hệ với cha cô. Chỉ sau khi suýt bị ám sát bởi chị gái cô và chính những hiệp sĩ đã bảo vệ cô, Naofumi mới chấp nhận cô làm đồng minh, đề nghị bảo vệ anh. Sau đó, cô rời nhóm của Naofumi để tập trung vào trách nhiệm với vương quốc của mình. Melty chuyên về phép thuật nước và là một nhà ngoại giao tài ba, từng cùng mẹ đi khắp thế giới. Thường trêu chọc cô khi còn trẻ, Naofumi tôn trọng trí tuệ và khả năng quản lý của cô và hy vọng sẽ để Filo cho cô chăm sóc nếu anh trở về nhà. Trước sự xấu hổ của cô, cô bị mẹ mình khuyến khích cố gắng kết hôn với anh, tin rằng cuộc hôn nhân của họ sẽ mang lại hòa bình cho các quốc gia á nhân. Sau cái chết của mẹ cô, cô lên ngôi Nữ hoàng mới. Elrasla Ragnarok (エルラスラ=ラグラロック, Erurasura Ragurarokku) Lồng tiếng bởi: Maki Izawa Một người lớn tuổi nhưng vẫn mạnh mẽ sử dụng phong cách võ thuật Hengen Muso, người chủ yếu được gọi là Hengen Muso Lady. Bà là một cựu nhà thám hiểm và là người thực hành cuối cùng của phong cách Hengen Muso; một phong cách võ thuật sử dụng năng lượng Sinh lực trong chiến đấu. Elrasla gặp Naofumi lần đầu khi bị ốm và trên giường bệnh, được con trai đưa đến cho bà. Naofumi không chỉ có thể chữa khỏi bệnh mà còn phục hồi phần lớn sức sống tuổi trẻ, cho phép bà tham gia vào Làn sóng thứ ba. Nữ hoàng Mirellia sau đó giao cho Elrasla huấn luyện các Anh hùng và nhóm của họ để tăng cường sức mạnh, mặc dù chỉ có nhóm của Naofumi và Eclair học Hengen Muso dưới sự hướng dẫn của bà. Elrasla đặc biệt quan tâm đến Rishia, người mà bà nhận thấy có tài năng hiếm có về phong cách Hengen Muso và nhận cô làm học trò của mình. Ngay sau đó, bà được Naofumi thuê để trở thành người hướng dẫn thường xuyên trong làng của anh, giúp huấn luyện nô lệ của anh cách tự vệ. Eclair Seaetto (エクレール=セーアエット, Ekurēru Sēatto) Lồng tiếng bởi: Ruriko Aoki Một nữ quý tộc và hiệp sĩ của Melromarc. Con gái của một quý tộc được Mirelli chọn để trông coi một tỉnh thân thiện với á nhân. Ngay sau Làn sóng đầu tiên mà cha cô trở thành nạn nhân, cô đã tiến hành cuộc điều tra của riêng mình về các Hiệp sĩ Hoàng gia đã bắt làng của Raphtalia làm nô lệ nhưng bị buộc tội phản quốc và bị Giáo hội Tam Anh hùng giam giữ. Khi Mirellia trở về, cô được thả và được giao nhiệm vụ giúp huấn luyện Nhóm Anh hùng Huyền thoại; mặc dù chỉ có nhóm của Naofumi thực hiện nghiêm túc chỉ dẫn của cô ấy. Được bổ nhiệm trông coi lãnh thổ của người cha quá cố, cô và Naofumi thường tranh cãi với nhau về mối quan tâm lớn hơn của cô đối với việc huấn luyện thay vì quản lý và đạo đức của Naofumi. Mặc dù vậy, Naofumi tôn trọng cô như một nữ kiếm sĩ, có thể đánh bại những kẻ thù cấp cao hơn như Raphtalia và Ren chỉ bằng kỹ năng. Các nhân vật khác Therese Alexanderite (テリス=アレキサンドライト, Terisu Arekisandoraito) Lồng tiếng bởi: Saori Hayami Bạn đồng hành của L'Arc và là thành viên trong nhóm của Kizuna. Cùng du hành với L'Arc để đánh bại các Anh hùng Huyền thoại và cứu thế giới song song của họ, cô gặp nhóm của Naofumi trên đường đến quần đảo Cal Mira để huấn luyện. Cô vô tình kết bạn với Naofumi, tin rằng anh là một người tốt không giống như những tin đồn lan truyền về việc Anh hùng Khiên là tội phạm. Cô rất tiếc phải tham gia cùng L'Arc & Glass trong cuộc chiến chống lại nhóm của Naofumi trong Cal Mira Wave. Cùng với các thành viên còn lại trong nhóm của mình, cô tham gia cùng Naofumi trong cuộc chiến chống lại Kyo. Là thành viên của chủng tộc được gọi là Jewel, Therese được sinh ra với một viên đá quý lớn trên đầu. Di sản của cô cho phép cô giao tiếp với những viên đá quý đặc biệt và nhận được sức mạnh từ chúng: có thể sử dụng phép thuật tấn công mà không gây hại cho đồng minh. Nói chung là một người dè dặt, cô bị ám ảnh bởi khả năng chế tạo của Naofumi và thích quan sát anh làm việc. Việc cô không biết gì về tình cảm của L'Arc dành cho mình sau đó đã dẫn đến sự cạnh tranh một chiều giữa anh và Naofumi. Therese không xuất hiện trong web novel. Ost Horai (オスト=ホウライ, Osuto Hōrai) Lồng tiếng bởi: Kana Hanazawa Một linh hồn con người của Rùa Thần, với mục đích là mở đường cho sự thức tỉnh của Rùa Thần bằng cách lôi kéo các quốc gia vào chiến tranh và thu thập linh hồn của những người vừa chết để tạo ra hàng rào phòng thủ chống lại Làn Sóng. Khi Kyo sớm giải phong ấn sức mạnh của Rùa Thần và bắt đầu điều khiển nó nổi cơn thịnh nộ, Ost đã đến gặp Naofumi để nhờ anh giúp đỡ trong việc giết nó, dù biết rằng điều này cũng sẽ kết thúc mạng sống của cô. Đi cùng nhóm của Anh hùng Khiên vào Rùa Linh hồn, Ost hỗ trợ tìm đường đến trái tim của Quái thú Hộ mệnh, sử dụng phép thuật trọng lực và kiểm soát hạn chế đối với các ma thú khác để đẩy nhanh tiến trình của chúng. Bên trong lõi của Quái vật, cả nhóm chiến đấu với Kyo nhưng gần như bị áp đảo, với Ost hướng dẫn Naofumi trong phép thuật hỗ trợ của lớp Giải phóng và mở khóa Khiên Rùa Thần cho anh để anh có thể phá hủy trái tim của nó. Khi cô nằm hấp hối, Ost xác nhận sự nghi ngờ của Naofumi rằng cô thực chất là biểu hiện của Rùa Thần, và hài lòng khi biết rằng mặc dù công việc của cô có nghĩa là mình phải chết trong hận thù và cô đơn, nhưng cô đã có những người bạn thực sự sẽ thương tiếc cho sự mất mát. Với việc Kyo đã trốn thoát về thế giới hắn của mình bằng năng lượng do Rùa Thần lấy đi, Ost sử dụng quyền hạn của mình với tư cách là Thần hộ mệnh để cho phép Naofumi du hành giữa các thế giới để đòi lại nó trước khi biến mất. Naofumi và nhóm của anh sớm thực hiện lời hứa với Ost bằng cách đánh bại Kyo và giải phóng năng lượng bị đánh cắp trở lại thế giới. Linh hồn của Ost tồn tại bên trong thế giới của các linh hồn Vũ khí Huyền thoại, nơi cô và Atla sau đó xuất hiện để giải thích cho Naofumi về bản chất của kẻ đứng sau Làn Sóng. Yomogi Emarl (ヨモギ=エーマール, Yomogi Ēmāru) Lồng tiếng bởi: Maki Kawase Một người có ý thức mạnh mẽ về công lý, sẵn sàng và tự cho mình là đúng, Yomogi, sống trong thế giới của Kizuna, là bạn thời thơ ấu và là bạn đồng hành của Kyo Ethina, người đã tự mình hỗ trợ anh ta trong những gì cô tin là có thể ngăn chặn những làn sóng. Sau khi thanh kiếm do Kyo đưa cho cô phát nổ khi cô lần đầu tham gia vào cuộc chiến chống lại nhóm của Naofumi và Kizuna như một phần trong nhiệm vụ do Kyo giao để giết Naofumi và Raphtalia, cô bắt đầu đặt câu hỏi về động cơ của mình và quyết định khám phá sự thật về Kyo, cho đến khi cô sớm phát hiện ra ý định thực sự của anh ta khi Làn sóng của Thảm họa kích hoạt sớm. Sau cái chết của Kyo dưới tay Naofumi, cô đã hợp tác với Kizuna để chống lại những Làn sóng.
19850951
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bombay%20%28bang%29
Bombay (bang)
Bang Bombay (; ; ) là một bang cũ của Ấn Độ. Bang này được thành lập từ tỉnh Bombay vào năm 1950, và sáp nhập thêm các khu vực khác trong những năm tiếp theo. Vào ngày 1 tháng 11 năm 1956, bang Bombay được tổ chức lại theo Đạo luật Tái tổ chức các bang dựa trên ranh giới ngôn ngữ, tiếp nhận nhiều lãnh thổ như các bang Saurashtra và Kutch. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1960, bang Bombay bị giải thể và phân chia theo ranh giới ngôn ngữ thành hai bang là Gujarat có cư dân nói tiếng Gujarat và Maharashtra có cư dân nói tiếng Marath. Lịch sử Trong thời kỳ Raj thuộc Anh, tỉnh Bombay (Bombay Presidency) bao gồm một phần vùng bờ biển phía tây của Ấn Độ, nằm dưới quyền cai trị trực tiếp của Anh. Sau khi Ấn Độ độc lập vào năm 1947 và bị chia cắt, tỉnh Bombay vẫn là một phần của Ấn Độ, trong khi tỉnh Sind trở thành một phần của Pakistan. Khi Ấn Độ trở thành một nước cộng hòa vào năm 1950, lãnh thổ mà Ấn Độ giữ lại được tái cơ cấu thành bang Bombay. Bang này bao gồm các phiên vương quốc (princely state) cũ như Kolhapur ở Deccan, và Baroda và Dang ở Gujarat, trước đó chúng là bộ phận của Cơ quan Các nhà nước Deccan và Cơ quan Các nhà nước Baroda, Tây Ấn Độ và Gujarat. Mở rộng Theo kết quả của Đạo luật Tái tổ chức các bang 1956 vào ngày 1 tháng 11 năm 1956, các huyện nói tiếng Kannada là Belgaum (ngoại trừ taluka Chandgad), Bijapur, Dharwar và Bắc Canara được chuyển từ bang Bombay sang bang Mysore. Tuy nhiên lãnh thổ bang Bombay vẫn tăng lên đáng kể vì được mở rộng về phía đông, sáp nhập vùng Marathwada nói tiếng Marath của bang Hyderabad, vùng Vidarbha nói tiếng Marath thuộc miền nam bang Madhya Pradesh, và các bang Saurashtra và Kutch nói tiếng Gujarat. Bang Bombay được người dân địa phương gọi là "Maha Dwibhashi Rajya", nghĩa là "bang song ngữ vĩ đại". Năm 1956, trái với ý muốn của Jawaharlal Nehru, Ủy ban Tái tổ chức các bang đề xuất một bang song ngữ cho Maharashtra-Gujarat có thủ phủ là Bombay. Trong khi tại các cuộc thảo luận trong Lok Sabha vào năm 1955, Đảng Quốc đại từng yêu cầu thành phố Bombay được lập làm một thành phố-bang tự trị. Trong bầu cử năm 1957, phong trào Samyukta Maharashtra phản đối những đề xuất này và kiên quyết rằng Bombay phải được tuyên bố là thủ phủ của Maharashtra. Giải thể Bang Bombay cuối cùng bị giải thể để hình thành các bang Maharashtra và Gujarat vào ngày 1 tháng 5 năm 1960. Sau các cuộc biểu tình của phong trào Samyukta Maharashtra, khi có 107 người bị cảnh sát giết chết, bang Bombay được tổ chức lại theo ranh giới ngôn ngữ. Các khu vực nói tiếng Gujarat của bang Bombay được phân chia thành bang Gujarat sau phong trào Mahagujara. Bang Maharashtra có Bombay là thủ phủ, được thành lập khi hợp nhất của các khu vực nói tiếng Marath của bang Bombay, tám huyện từ tỉnh Trung tâm và Berar, năm huyện từ bang Hyderabad, và nhiều thân vương quốc riêng biệt nằm giữa chúng. Quan chức Bang Bombay có ba thủ hiến (chief minister) sau khi Ấn Độ độc lập: Balasaheb Gangadhar Kher là thủ hiến đầu tiên của Bombay (1946–1952) Morarji Desai (1952–1956) Yashwantrao Chavan (1956–1960) Sau khi bang Bombay được chia tách vào năm 1960, chức vụ "thống đốc Bombay" được đổi thành thống đốc Maharashtra. Nguồn: Chính phủ Maharashtra và Công báo huyện Đại Bombay Đồ họa Tham khảo Khởi đầu năm 1950 ở Ấn Độ Chấm dứt năm 1960 Gujarat Vùng lịch sử Ấn Độ Lịch sử Maharashtra Bang và lãnh thổ liên bang của Ấn Độ
19851168
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C6%B0%C6%A1ng%20t%C3%A1c%20c%E1%BB%A7a%20con%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20v%E1%BB%9Bi%20vi%20sinh%20v%E1%BA%ADt
Tương tác của con người với vi sinh vật
Tương tác của con người với vi sinh vật () gồm cả ứng dụng vi sinh vật trên trong thực tiễn lẫn ý nghĩa biểu tượng, bên cạnh những tương tác tiêu cực dưới dạng bệnh ở người, động vật và cây trồng. Ứng dụng vi sinh vật trong thực tiễn bắt đầu ở thời cổ đại với quy trình lên men trong chế biến thực phẩm; bánh mì, bia và rượu được chế biến từ nấm men từ bình minh của văn hóa nhân loại, chẳng hạn như ở Ai Cập cổ đại. Gần đây hơn, vi sinh vật được ứng dụng trong những hoạt động chiến tranh sinh học để sản xuất ra hóa chất nhờ lên men, khi các nhà hóa học công nghiệp phát hiện ra cách để sản xuất hàng loạt hóa chất hữu cơ, gồm enzym và phân tử sinh học hoạt tính như hormone và chất ức chế cạnh tranh dùng để làm thuốc. Lên men cũng được ứng dụng để sản xuất các chất thay thế nguyên liệu hóa thạch dưới dạng như ethanol và methan; ngoài ra tảo cũng có thể dùng để sản xuất nhiên liệu. Vi sinh vật kỵ khí có vai trò quan trọng trong khâu xử lý nước thải. Trong nghiên cứu khoa học, nấm men và vi khuẩn Escherichia coli có chức năng làm sinh vật mô hình, đặc biệt ở môn di truyền và các ngành liên quan. Về mặt ý nghĩa biểu tượng, bài thơ đầu tiên về chế biến rượu là "Hymn to Ninkasi" của người Sumer từ năm 1800 TCN. Ở thời Trung Cổ, Mười ngày của Giovanni Boccaccio và Truyện cổ Caunterbury của Geoffrey Chaucer: nhắc đến nỗi sợ bệnh dịch gây chết người, từ đó gây ra suy đồi đạo đức. Những tiểu thuyết gia khai thác đề tài tận thế do đại dịch gây ra gồm Mary Shelley với cuốn The Last Man (1826) và Jack London với cuốn The Scarlet Plague (1912). Hilaire Belloc là tác giả bài thơ hài hước "The Microbe" vào năm 1912. Những bệnh dịch và lây nhiễm kịch tính đã hình thành mạch truyện của nhiều tác phẩm điện ảnh Hollywood, bắt đầu bằng Nosferatu vào năm 1922. Năm 1971, The Andromeda Strain kể về sự việc một vi sinh vật ngoài Trái Đất đe dọa sự sống trên hành tinh xanh. Những nhà vi sinh vật học sau Alexander Fleming đã sử dụng tập đoàn vi khuẩn nhuộm màu hoặc huỳnh quang để chế tác những tác phẩm tiểu họa. Vi sinh vật như vi khuẩn và virus có vai trò quan trọng như mầm bệnh, chúng là tác nhân gây bệnh ở người, cây trồng và gia súc. Bối cảnh Văn hóa là tập hợp hành vi và chuẩn mực xã hội trong xã hội loài người và được truyền tải qua học tập xã hội. Phổ quát văn hóa ở mọi xã hội loài người gồm các hình thức biểu hiện như nghệ thuật, âm nhạc, nhảy múa, nghi thức, tôn giáo và công nghệ như sử dụng công cụ, nấu ăn, dựng nhà và may quần áo. Khái niệm văn hóa vật chất gồm các biểu hiện vật chất như công nghệ, kiến trúc và nghệ thuật, còn văn hóa phi vật chất gồm những nguyên tác tổ chức xã hội, thần thoại, triết học, văn học và khoa học. Vì con người chưa đến vi sinh vật cho đến tận thời kỳ cận đại, nên trước đó chúng xuất hiện gián tiếp trong văn học qua miêu tả làm bánh và chế biến bia. Chỉ đến khi ra đời phát minh kính hiển vi (được Robert Hooke sử dụng trong cuốn Micrographia vào năm 1665 và Antonie van Leeuwenhoek sử dụng ở thập niên 1670), thuyết mầm bệnh và sự tiến bộ trong ngành vi sinh vật học ở thế kỷ 19 mới được xác định trực tiếp, con người nhận dạng chúng là sinh vật sống và đưa vào ứng dụng trên cơ sở khoa học. Kiến thức tương tự cũng tạo điều kiện cho vi sinh vật xuất hiện rõ trong văn học và nghệ thuật. Ứng dụng thực tiễn Chế biến thực phẩm Lên men có kiểm soát bằng vi sinh vật trong chế biến bia, chế biến rượu, làm bánh, muối chua và các chế phẩm sữa như sữa chua và pho mát được sử dụng để điều chỉnh thành phần nguyên liệu nhằm chế biến thực phẩm với đặc tính mong muốn. Vi sinh vật chính tham gia làm bia, rượu và bánh mì thường là nấm men; còn vi khuẩn tham gia lên men kỵ khí để chế biến rau, chế phẩm sữa và bánh mì bột nhào chua. Những phép cấy vi sinh vật khác nhau mang lại hương vị và mùi thơm, làm ức chế mầm bệnh, tăng cường khả năng tiêu hóa và vị ngon, làm bánh mì nở, giảm thời lượng nấu và tạo nên những sản phẩm hữu ích như alcohol, acid hữu cơ, vitamin, amino acid và carbon dioxide. An toàn trong chế biến thực phẩm được duy trì với sự hỗ trợ của ngành vi sinh vật học thực phẩm. Xử lý nước Quá trình xử lý nước thải oxy hóa phụ thuộc vào vi sinh vật để làm oxy hóa thành phần hữu cơ. Vi sinh vật kỵ khí làm giảm chất rắn trong bùn - thứ tạo ra khí methan và bã khoáng hóa cằn cỗi. Trong xử lý nước uống, phương pháp lọc cát chậm sử dụng một lớp gelatin phức tạp gồm một lượng lớn vi sinh vật để loại bỏ vật liệu hòa tan lẫn hạt khỏi nước thô. Năng lượng Vi sinh vật được ứng dụng trong lên men để sản xuất ethanol, và sản xuất methan trong lò phản ứng biogas. Các nhà khoa học đang nghiên cứu ứng dụng của tảo để sản xuất nhiên liệu lỏng, và vi khuẩn để chuyển đổi nhiều dạng chất thải nông nghiệp và đô thị thành nhiên liệu dùng được. Enzym và hóa chất Vi sinh vật được ứng dụng cho nhiều mục đích công nghiệp và thương mại, gồm sản xuất hóa chất, enzyme và phân tử hoạt tính sinh học khác, thường bằng kỹ thuật protein. Ví dụ, acid acetic được sản xuất bởi vi khuẩn Acetobacter aceti, còn acid citric do nấm Aspergillus niger điều chế. Vi sinh vật được ứng dụng để điều chế một lượng lớn phân tử hoạt tính sinh học và enzym. Ví dụ, streptokinase được sản xuất bởi Streptococcus và điều chỉnh nhờ kỹ thuật di truyền, được dùng để loại bỏ cục máu đông từ mạch máu của những bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim. Cyclosporin A là chất ức chế miễn dịch trong cấy ghép nội tạng, còn statin chiết xuất từ nấm men Monascus purpureus có tác dụng là chất giảm cholesterol trong máu, ức chế cạnh tranh của enzym (chất tổng hợp cholesterol). Khoa học Vi sinh vật là công cụ thiết yếu trong các ngành công nghệ sinh học, di truyền học, hóa sinh và sinh học phân tử. Nấm men làm bia (Saccharomyces cerevisiae) và nấm men phân hạch (Schizosaccharomyces pombe) là những sinh vật mô hình quan trọng trong khoa học, vì chúng là những sinh vật nhân thực đơn giản có thể tăng trưởng nhanh chóng với số lượng lớn và dễ điều phối. Chúng có giá trị đặc biệt trong di truyền học, gen học và protein học, ví dụ như sản xuất protein. Vi khuẩn đường ruột dễ nuôi cấy Escherichia coli (một sinh vật nhân sơ) được ứng dụng rộng rãi làm sinh vật mô hình theo cách tương tự. Nội cộng sinh Vi sinh vật có thể lập quan hệ nội cộng sinh với những sinh vật lớn hơn. Ví dụ, vi khuẩn sống trong hệ tiêu hóa của con người góp phần tăng sức đề kháng nhờ miễn dịch đường ruột, tổng hợp các vitamin như acid folic và biotin, đồng thời lên men những carbohydrat phức tạp khó tiêu. Những loại thuốc và hóa chất thực phẩm trong tuơng lai có thể cần được thử nghiệm trên hệ vi sinh đường ruột; đây là bằng chứng rõ ràng cho thấy việc bổ sung probiotic có thể tăng sức đề kháng, và vi sinh vật đường ruột chịu tác động của cả chế độ ăn lẫn thuốc men. Chiến tranh Vi sinh vật gây bệnh và những độc tố mà chúng sản sinh ra được phát triển thành các tác nhân có thể gây chiến tranh sinh học. Những hình thức chiến tranh sinh học nguyên thủy đã có thời cổ đại. Ở thế kỷ thứ 6 TCN, người Assyria đã đầu độc giếng của quân địch bằng một loại nấm để làm chúng hôn mê. Năm 1346, thi thể của những chiến binh Mông Cổ ở Hàn quốc Kim Trướng mất mạng vì dịch hạch đã bị quăng qua tường thành Kaffa thuộc Krym đang cố thủ, có thể góp phần làm lây lan Cái Chết Đen sang châu Âu. Những tiến bộ trong ngành vi khuẩn học ở thế kỷ 20 đã làm tăng tính phức tạp của tác nhân sinh học tiềm tàng trong chiến tranh. Phá hoại bằng sinh học—dưới dạng bệnh than và loét mũi truyền nhiễm—được tiến hành dưới thời chính phủ Đế quốc Đức trong Thế chiến I, song thu được kết quả không đáng kể. Ở Thế chiến II, Anh Quốc đã vũ trang hóa bệnh sốt thỏ, bệnh than, brucellosis và độc thịt, song chưa bao giờ ứng dụng chúng. Tương tự, Hoa Kỳ cũng khám phá tác nhân chiến tranh sinh học, phát triển bào tử bệnh than, brucellosis, và độc tố thịt để có thể ứng dụng trong quân sự. Nhật Bản thì phát triển tác nhân chiến tranh sinh học nhờ ứng dụng thí nghiệm lên tù nhân và định sử dụng chúng khi chiến tranh kết thúc. Ứng dụng ý nghĩa biểu tượng Với kích thước vô cùng nhỏ bé và không được biết đến trước khi phát minh kính hiển vi ra đời, vi sinh vật không có mặt trực tiếp trong nghệ thuật và văn học trước thời kỳ cận đại (chúng xuất hiện gián tiếp trong các tác phẩm về chế biến bia và làm bánh), để rồi Antonie van Leeuwenhoek quan sát vi sinh vật trong nước vào năm 1676; kết quả ấy sớm được Robert Hooke đính chính. Một số ít bệnh lớn như lao xuất hiện trong văn học, nghệ thuật, điện ảnh, opera và âm nhạc. Trong văn học Tiềm năng của những câu chuyện hậu tận thế về đại dịch (bùng phát dịch bệnh toàn thế giới) đã được khám phá trong tiểu thuyết và phim điện ảnh kể từ The Last Man (1826) của Mary Shelley và The Scarlet Plague (1912) của Jack London. Những tác phẩm thời Trung Cổ nhắc đến dịch hạch gồm Mười ngày của Giovanni Boccaccio và Truyện cổ Caunterbury của Geoffrey Chaucer: cả hai tác phẩm đều nhắc đến nỗi sợ bệnh dịch của con người và hệ lụy suy đồi đạo đức, cũng như cơ thể chết. Chế biến bia đã được tôn vinh trong vần thơ kể từ thời Sumer cổ đại (khoảng năm 1800 TCN), khi "Thánh ca về Ninkasi" được khắc lên tấm bia bằng đất sét. Ninkasi (nữ thần giám hộ bia, đồng thời là con gái của đấng sáng tạo Enki và "nữ hoàng nước thiêng" Ninki) "xử lý bột nhào bánh và dùng một cái xẻng lớn để xúc trộn trong hố, bappir bằng mật ong [quá hạn],... tưới mạch nha trên nền đất,... ngâm mạch nha trong lọ,... trải hỗn hợp rượu đã nấu lên chiếu sậy lớn, để nguội,... cầm hèm bia ngọt lịm bằng cả hai tay, ủ bia bằng mật ong". Rượu vang là đề tài thường xuất hiện trong văn học Anh, từ những món từ Pháp và Ý gồm "ypocras", "claree" và "vernage" trong cuốn The Merchant's Tale của Chaucer. Nhân vật Falstaff của William Shakespeare đã uống "sherris sack" của Tây Ban Nha, trái ngược với loại rượu "canary" mà Sir Toby Belch yêu thích. Những chi tiết liên hệ đến rượu ở các thế kỷ sau mở rộng ra nhiều vùng trồng rượu. The Microbe là một bài thơ hài (1912) của Hilaire Belloc, bắt đầu bằng các câu"The microbe is so very small / You cannot make him out at all,/ But many sanguine people hope / To see him through a microscope. Microbes and Man là một cuốn sách "kinh điển" được nhiều độc giả ngưỡng mộ, do "cha đẻ của vi sinh vật học Anh" lần đầu xuất bản vào năm 1969" John Postgate thì nhắc đến toàn thể đối tượng vi sinh vật và quan hệ của chúng với con người. Trong điện ảnh Vi sinh vật có mặt trong nhiều tác phẩm điện ảnh cực kỳ kịch tính. Hollywood nhanh chóng khai thác tiềm năng của bệnh dịch chết người, lây nhiễm hàng loạt và phản ứng quyết liệt của chính phủ, bắt đầu sớm nhất với Nosferatu (1922); trong phim, nhân vật kiểu Dracula là Bá tước Orlok, ngủ trong khu đất tạm bợ bị nhiễm Cái Chết Đen, dịch bệnh ấy theo chân anh đến bất cứ đâu. Một bộ phim kinh điển khác là The Seventh Seal (1957) của Ingmar Bergman, nhắc đến dịch hạch theo cách rất khác, khi thần chết được một diễn viên đội nón thể hiện trực tiếp. Gần đây hơn, bộ phim The Andromeda Strain (1971) dựa trên tiểu thuyết của Michael Crichton, miêu tả vi sinh vật ngoài Trái Đất làm ô uế hành tinh xanh. Trong âm nhạc "A Very Cellular Song" (bài hát của ban nhạc psychedelic folk người Anh The Incredible String Band trích từ album The Hangman's Beautiful Daughter vào năm 1968) thuật lại một phần từ góc nhìn của sinh vật nguyên sinh amip. Đại dịch COVID-19 đã tạo cảm hứng cho một số bài hát và album. Trong nghệ thuật Nghệ thuật vi sinh là ngành sáng tạo tác phẩm nghệ thuật bằng nuôi cấy vi khuẩn, thường trên đĩa agar để tạo thành các mẫu mong muốn. Chúng có thể được nhuộm huỳnh quang dưới ánh sáng tia cực tím với nhiều màu sắc khác nhau. Alexander Fleming (người khám phá penicillin) đã chế tác "bức tranh vi trùng" nhờ sử dụng nhiều loại vi khuẩn khác nhau có những sắc tố tự nhiên khác nhau. Một ví dụ về sinh vật nguyên sinh trong tác phẩm nghệ thuật là bức điêu khắc Amoeba bằng đồng của nghệ sĩ Louise Bourgeois. Tác phẩm có một lớp gỉ đồng màu trắng và được thiết kế vào khoảng 1963–5, dựa trên bức vẽ bụng một người phụ nữ đang mang thai mà bà thực hiện từ thập niên 1940. Theo Nhà trưng bày Tate, tác phẩm "là một dạng hữu cơ mô phỏng thô, những chỗ phồng và lỗ hở trong bức hình gợi đến sinh vật sống đang chuyển động trong giai đoạn tiến hóa." Tương tác tiêu cực Bệnh tật Vi sinh vật là tác nhân (mầm bệnh) gây nhiều bệnh truyền nhiễm ở người và gia súc. Vi khuẩn gây bệnh là tác nhân gây các bệnh như dịch hạch, lao và bệnh than. Động vật nguyên sinh gây nên các bệnh gồm sốt rét, truypanosoma, lỵ và toxoplasmosis. Nấm vi sinh gây nên các bệnh như nấm da, nấm candida và histoplasmosis. Virus mầm bệnh gây ra các bệnh như cúm, sốt vàng và AIDS. Con người thực hiện vệ sinh nhằm ngăn ngừa nhiễm trùng hoặc làm sạch thực phẩm bằng cách loại bỏ vi sinh vật gây nhiễm độc, đặc biệt là vi khuẩn khỏi môi trường xung quanh. Trong nông nghiệp và làm vườn Vi sinh vật (gồm vi khuẩn, nấm và virus) có vai trò quan trọng, bởi chúng là mầm mống gây bệnh ở cây trồng. Nấm gây những bệnh nghiêm trọng ở cây trồng như bệnh gỉ sắt ở lá ngô, gỉ sắt ở thân lúa mì và bệnh phấn trắng. Vi khuẩn gây nên các bệnh ở thực vật gồm đốm lá và khối u ở ngọn cây. Virus gây các bệnh ở thực vật như bệnh khảm lá. Oomycete Phytophthora infestans làm mốc khoai tây, góp phần gây nên Nạn đói lớn ở thập niên 1840. Virus phá hoa tulip có một vai trò nhất định trong hội chứng hoa tulip ở Kỷ nguyên vàng của Hà Lan. Cụ thể, cây hoa tulip nổi tiếng Semper Augustus có hình dáng nổi bật do nhiễm bệnh (gây ra bởi một loại virus bệnh khảm), trở thành búp hoa tulip nổi tiếng nhất lịch sử. Chú thích Sinh học và văn hóa Văn hóa Vi sinh vật học
19851172
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%A0ng%20th%C6%A1%20c%E1%BB%A7a%20Miller
Nàng thơ của Miller
Nàng thơ của Miller (tên tiếng Anh: Miller's Girl) là bộ phim chính kịch hài đen của Hoa Kỳ được đạo diễn kiêm biên kịch bởi Jade Halley Bartlett. Phim sẽ có sự tham gia diễn xuất chính của Jenna Ortega và Martin Freema trong vai diễn một cô bé học trò cùng giáo viên của mình bắt đầu bước vào một mối quan hệ phức tạp sau bài tập viết sáng tạo. Bộ phim được công chiếu tại Hoa Kỳ vào ngày 26 tháng 1, 2024 bởi Lionsgate. Tại thị trường Việt Nam, bộ phim cũng chính thức được ra mắt tại các rạp vào ngày 16 tháng 2, 2024 tức mùng 7 Tết Âm lịch. Cốt truyện Diễn viên Martin Freeman thủ vai Jonathan Miller Jenna Ortega thủ vai Cairo Sweet Gideon Adlon thủ vai Winnie Bashir Salahuddin thủ vai Boris Fillmore Dagmara Domińczyk thủ vai Beatrice Christine Adams thủ vai Joyce Manor Sản xuất Phát hành Tiếp nhận Nguồn Liên kết ngoài Phim Mỹ Phim thập niên 2020 Phim tiếng Anh Phim năm 2024 Phim hài đen Phim chính kịch Phim chính kịch hài đen
19851174
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paddington%20In%20Peru
Paddington In Peru
Paddington in Peru là bộ phim hoạt hình người đóng thuộc thể loại hài phiêu lưu được đạo diễn bởi Dougal Wilson với kịch bản do Mark Burton, Jon Foster và James Lamout chấp bút dựa trên câu chuyện của Paul King, Simon Farnaby và Burton. Phim sẽ dựa trên của chuyện của Gấu Paddington được sáng tạo bởi Michael Bond, là phần phim thứ ba thuộc loạt phim Gấu Paddington và đồng thời cũng là phần hậu truyện của Paddington (2014) và Paddington 2 (2017). Nguồn Liên kết ngoài Phim năm 2024 Phim Anh Phim Pháp Phim thập niên 2020 Phim tiếng Anh Phim hài Phim hoạt hình người đóng Phim phiêu lưu Phim hài phiêu lưu Phim tiếp nối Vương quốc Liên hiệp Anh Phim về gia đình Phim dựa trên tiểu thuyết Vương quốc Liên hiệp Anh Phim dựa theo sách thiếu nhi Phim lấy bối cảnh ở Luân Đôn Phim quay tại Luân Đôn Công nghệ ghi hình chuyển động trong điện ảnh Phim hãng StudioCanal
19851181
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng%20T%E1%BB%A9%20%C4%90%E1%BA%A1i
Vương Tứ Đại
Vương Tứ Đại () là một quan đại thần nhà Nguyễn. Hoạn lộ Vương Tứ Đại quê Thọ Xuân, Thanh Hóa. Ban đầu, ông làm việc cho thực dân Pháp ở Đông Dương, từng làm thông ngôn ở Tòa Công Sứ Thanh Hóa. Năm 1919, ông thăng chứ bố chính Nghệ An. Năm 1921, làm bố chính Quảng Bình. Một năm sau, ông thăng chức phủ doãn Thừa Thiên. Đến năm 1923, ông thăng chức tuần phủ Trị-Bình. Năm 1927, làm tuần phủ Khánh Hòa. Một năm sau, thăng chức tổng đốc Bình-Phú. Năm 1930, ông được bổ làm thượng thư bộ Công, và sung chức đại thần viện Cơ mật. Năm 1931, thăng hàm Hiệp tá đại học sĩ. Sau khi về nước, vua Bảo Đại cải tổ nội các vào năm 1933, ông Vương Tứ Đại bị bãi chức. Chú thích Thượng thư Việt Nam Người Thanh Hóa
19851183
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B1%20ch%C3%A8n
Tự chèn
Tự chèn là một thủ thuật văn học trong đó tác giả tự viết mình vào câu chuyện dưới vỏ bọc hoặc từ góc nhìn của một nhân vật hư cấu. Nhân vật đó dù công khai hay cách khác, cư xử giống hoặc có tính cách và thậm chí có thể được mô tả là giống với tác giả của tác phẩm về mặt thể chất. Trong nghệ thuật thị giác, tương đương với việc tự chèn là bức chân dung tự họa được chèn vào, trong đó nghệ sĩ đưa một bức chân dung tự họa vào bức tranh về một chủ đề tường thuật. Đây đã là một công cụ/thiết bị nghệ thuật phổ biến ít nhất là từ thời Phục Hưng ở châu Âu. Trong số các nhà văn chuyên nghiệp, việc sử dụng có chủ/cố ý các kỹ thuật tự chèn ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba thường được coi là một hành động không có nguồn gốc (không chính gốc/nguyên bản) từ phía tác giả và thể hiện sự thiếu hụt tư duy sáng tạo trong bài viết của tác giả. Hình thức văn học Các thiết bị văn học tương tự bao gồm tác giả đóng vai trò là người kể chuyện ngôi thứ nhất (first-person narrative) hoặc viết đại diện tác giả (author surrogate) ở ngôi thứ ba hoặc thêm vào một nhân vật dựa trên tác giả một phần, cho dù tác giả có cố ý đưa nó vào hay không. Nhiều nhân vật được mô tả là vô tình tự chèn vào, ngụ ý rằng tác giả của họ (các nhân vật) đang vô thức sử dụng họ làm người đại diện tác giả. Việc tự chèn cũng có thể được sử dụng trong câu chuyện ở ngôi thứ hai, sử dụng trí tưởng tượng của người đọc và sự đình chỉ hoài nghi của anh ta. Người đọc, được nhắc đến ở ngôi thứ hai, được miêu tả là đang tương tác với một nhân vật khác, với mục đích khuyến khích người đọc hòa mình (immersion, dive) và tâm lý phóng chiếu (psychological projection) bản thân vào câu chuyện, hình dung rằng chính anh ta đang thực hiện câu chuyện đã viết. Mặc dù các ví dụ trong tiểu thuyết đã xuất bản về việc tự chèn ngôi thứ hai là rất hiếm, nhưng việc sử dụng như vậy lại phổ biến trong fan fiction, trong đó người đọc được ghép đôi với một nhân vật hư cấu, thường trong bối cảnh thân mật. Ví dụ Việt Nam Tác phẩm Lục Vân Tiên là truyện thơ Nôm được sáng tác bởi nhà văn Nguyễn Đình Chiểu. Nhật Bản Manga Người Bà Tài Giỏi Vùng Saga của tác giả Yoshichi Shimada minh họa bởi họa sĩ Saburo Ishikawa. Nhóc Maruko của nữ tác giả Sakura Momoko.v.v. Tham khảo Tự sự học
19851190
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%A5llands%C3%B6
Kållandsö
Kållandsö là một hòn đảo trong hồ Vänern của Thụy Điển. Với diện tích 56,78 km² đây là hòn đảo lớn thứ hai trong hồ sau Torsö. Đây là phần cực bắc của đô thị Lidköping. Kållandsö và quần đảo xung quanh có khoảng 1.100 cư dân. Vì vị trí và các điểm tham quan như lâu đài Läckö, Kållandsö là một địa điểm du lịch nổi tiếng. Tham khảo
19851194
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20Gibraltar
Giải bóng đá Gibraltar
Giải bóng đá Gibraltar là giải đấu chuyên nghiệp cấp cao nhất đồng thời là duy nhất của bóng đá Gibraltar, được thành lập vào năm 2019 với tên gọi Giải bóng đá Quốc gia Gibraltar sau khi hợp nhất Giải bóng đá Ngoại hạng Gibraltar (đã tồn tại từ năm 1905) và Giải bóng đá hạng nhì quốc gia Gibraltar (đã tồn tại từ năm 1909). Quyết định này được thông báo vào tháng 8 năm 2019 bởi Hiệp hội bóng đá Gibraltar. Giải đấu này được hỗ trợ bởi Gibraltar Intermediate League cho các đội U23 và Hound Dogs. Thể thức Đồn đoán về giải đấu mới bắt đầu xuất hiện vào năm 2018, khi Hiệp hội Bóng đá Gibraltar công bố kế hoạch cho Thể thức giải đấu ở cấp độ đỉnh cao trong hiến pháp giải đấu 2018–19 Gibraltar Premier Division. Ngày 1 tháng 8 năm 2019, GFA xác nhận chi tiết về cấu trúc mới của bóng đá nội địa tại Gibraltar, cũng như Thể thức của giải đấu mới với 16 đội tham gia. Sau khi có 4 đội rời khỏi giải, 12 đội còn lại tiếp tục theo cùng một Thể thức giải đấu. Trong 4 phiên bản đầu tiên của giải đấu, các đội thi đấu một vòng đấu như một giải đấu đơn, trước khi chia thành hai nhóm: Nhóm Vô địch với 6 đội hàng đầu và Nhóm Thách thức giữa 6 đội dưới cùng. Người chiến thắng của Nhóm Thách thức sẽ nhận GFA Challenge Trophy và được đặc quyền vào vòng thứ hai của Rock Cup mùa giải tiếp theo. Hound Dogs, tham gia mùa giải cuối cùng của Gibraltar Second Division, được miễn giảm để tham gia Gibraltar Intermediate League. Mùa giải đầu tiên của Giải bóng đá Quốc gia Gibraltar không có nhà vô địch, khi mùa giải được tuyên bố vô hiệu bởi GFA do Đại dịch COVID-19. Năm 2021, GFA thông báo rằng mọi trận đấu của mùa giải 2021–22 Gibraltar National League sẽ được phát sóng trực tuyến thông qua một thỏa thuận phát sóng với Footters. Vào tháng 7 năm 2022, giải đấu chuyển đổi thành Giải bóng đá Gibraltar, với một bản danh tính và logo mới. Năm sau đó, Thể thức giải đấu thay đổi. Thay vì chỉ có một vòng đấu tròn trước khi giải đấu chia thành hai giai đoạn, giải đấu trở lại Thể thức vòng đấu tròn kép, với mỗi đội thi đấu với tất cả các đội khác hai lần. Ở cuối mùa giải thông thường, chỉ có 6 đội hàng đầu tiến lên giai đoạn tiếp theo, tham gia Nhóm Vô địch GFL để quyết định nhà vô địch. Các Đội Trong số 17 đội tham gia giải đấu ban đầu, ba đội nguyên tạo đã rút lui trước khi mùa giải khai mạc: Gibraltar Phoenix, Gibraltar United, và Leo. Ngoài ra, Olympique 13 bị loại khỏi giải đấu sau khi từ bỏ hai trận đầu tiên của mùa giải 2019-20. Hound Dogs, mặc dù là thành viên nguyên tạo, đã quyết định không tham gia Giải bóng đá Quốc gia, thay vào đó tham gia Gibraltar Intermediate League vì lý do tài chính. Tháng 12 năm 2020, Boca Gibraltar cũng bị loại khỏi giải đấu. Do đó, hiện có 11 đội tham gia giải đấu. Bruno's Magpies College 1975 Europa FC Europa Point Glacis United Lincoln Red Imps Lions Gibraltar Lynx Manchester 62 Mons Calpe St Joseph's Tham khảo Giải bóng đá vô địch quốc gia châu Âu
19851195
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C5%8Dbetsu%2C%20Hokkaid%C5%8D
Tōbetsu, Hokkaidō
là thị trấn thuộc huyện Ishikari, phó tỉnh Ishikari, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 15.916 người và mật độ dân số là 38 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 422,86 km2. Tham khảo Thị trấn của Hokkaidō
19851209
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trimma%20annosum
Trimma annosum
Trimma annosum là một loài cá biển thuộc chi Trimma trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2003. Từ nguyên Tính từ định danh annosum trong tiếng Latinh có nghĩa là “trọn năm; già cỗi”, hàm ý đề cập đến đôi má màu xám trơn của loài cá này trông như một ông già đã bạc râu. Phân bố và môi trường sống Từ đảo Đài Loan và đảo Hải Nam, T. annosum có phân bố trải dài về phía nam đến rạn san hô Great Barrier, về phía đông đến quần đảo Caroline, Kiribati và Fiji. Ghi nhận của loài này ở Ấn Độ Dương nhiều khả năng là loài Trimma fucatum. T. annosum sống trên các rạn san hô, đặc biệt là trong các hang hốc, độ sâu đến ít nhất là 60 m. Mô tả Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở T. annosum là 2,8 cm. Đầu màu xám, có một đốm màu vàng cam có to bằng con ngươi ở giữa trước, phía trên và cuối nắp mang. Có một đốm vàng cam nhỏ hơn phía sau mắt. Gốc vây ngực có một đốm hình bầu dục màu vàng cam hoặc đỏ cam. Thân có các đốm vàng cam xếp thành 3 đến 4 hàng. Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 8; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 8. Tham khảo A Cá Thái Bình Dương Cá Đài Loan Cá Trung Quốc Cá Việt Nam Cá Philippines Cá Papua New Guinea Cá Palau Cá Fiji Động vật được mô tả năm 2003
19851214
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20v%E1%BA%ADn%20%C4%91%E1%BB%99ng%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Chulalongkorn
Sân vận động Đại học Chulalongkorn
Sân vận động Đại học Chulalongkorn, trước đây là Sân vận động Charusathian, là một sân vận động đa năng thuộc Đại học Chulalongkorn tại Pathum Wan, Băng Cốc, Thái Lan. Nó nằm trên Chulalongkorn Soi 9 tại Pathumwan trung tâm của Băng Cốc với sức chứa 20.000 người. Nó thường được sử dụng cho các trận đấu bóng đá và tổ chức các cuộc thi thể thao trong và liên trường dành cho các sinh viên. Sân vận động là sân nhà của Chamchuri United F.C. thuộc Thai League 4, và trước đây từng là sân nhà của BBCU F.C. hiện đã giải thể (trước đây là Chulalongkorn University F.C., Chula-Sinthana F.C. hoặc Chula United). Vào năm 2005, sân vận động được cải tạo và trở thành sân vận động thể thao đầu tiên ở Thái Lan được trang bị cỏ nhân tạo. Các sân vận động khác ở Băng Cốc bao gồm Sân vận động Quốc gia, Sân vận động Rajamangala, Sân vận động Quân đội Hoàng gia Thái Lan và Sân vận động Thái-Nhật. Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin địa điểm đại học Chulalongkorn Đại học Chulalongkorn đại học Chulalongkorn Quận Pathum Wan
19851215
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stiftsfehde
Stiftsfehde
Xung đột giáo phận () là một cuộc xung đột căng thẳng giữa hai ứng viên của cuộc bầu cử cho vị trí thân vương-giám mục, hoặc một cuộc xung đột vũ trang giữa hai phe phái trong một Giáo phận vương quyền, thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh. Sự ra đời của Hệ thống Giáo hội Hoàng gia (Reichskirchensystem) vào thế kỷ thứ 10 nhằm mục đích đảm bảo vị trí của thân vương-giám mục là không được thừa kế, vì tất cả các giáo sĩ Công giáo đều phải độc thân và do đó không thể sinh con hợp pháp để thừa kế tài sản của họ. Thay vào đó, Hoàng đế La Mã Thần thánh sẽ bổ nhiệm một trong những người thân tín của mình làm thân vương-giám mục, và khi người này qua đời, ông ta lại có thể tự mình chọn người kế vị. Tuy nhiên, sau sự suy giảm quyền lực của triều đình đối với việc bổ nhiệm giáo sĩ do Tranh cãi việc bổ nhiệm giáo sĩ (1076–1122), kết thúc bằng Thỏa ước Worms, các phân khu trong giáo hội bắt đầu tự bầu chọn giám mục và sự bầu chọn này phải được thông qua xác nhận bởi Giám mục đô thành. Vào thế kỷ 14, Tòa Thánh bắt đầu bảo lưu việc bổ nhiệm một số giám mục cho riêng mình, sau đó Giáo hoàng (cũng là giám mục của Roma) dần dần tuyên bố có độc quyền bổ nhiệm tất cả các giám mục ở khắp mọi nơi. Trên thực tế, tất cả các ứng viên kế vị một thân vương-giám mục đã qua đời, cũng như các thành viên giáo đoàn được quyền bỏ phiếu cho những ứng viên này, đều là thành viên của các vương tộc hùng mạnh hoặc phổ biến hơn là giới quý tộc Đức cấp thấp, đã tìm cách bổ sung các lãnh địa của vị trí thân vương-giám mục đó vào tài sản của gia tộc họ trên thực tế. Trong một số trường hợp, đặc biệt là vào cuối thời Trung cổ (từ năm 1300 đến năm 1500), kết quả của cuộc bầu cử không làm hài lòng một trong các phe tranh cử, và các cuộc xung đột quân sự xảy ra sau đó, được gọi là stiftsfehde, vốn có nhiều điểm tương đồng đến những cuộc chiến tranh giành quyền kế vị . Những ví dụ về các cuộc xung đột giáo phận nổi tiếng nhất trong Đế quốc La Mã Thần thánh là: Mối thù giáo phận Bremen (1258–59) Mối thù giáo phận Cologne (1473–1480) Mối thù giáo phận Hildesheim (1519–1523) Mối thù giáo phận Mainz (1461–62) Mối thù giáo phận Münster (1450–1457) Chiến tranh Giám mục Strasbourg (1592–1604) Chủ nghĩa ly giáo Utrecht (1423–1449) Chiến tranh Utrecht (1456–1458) Chiến tranh Utrecht 1481–83 () Một ví dụ về một xung đột giáo phận bên ngoài Đế quốc La Mã Thần thánh là Cuộc chiến giữa các linh mục (1467–1479) ở Giáo phận vương quyền Warmia, một lãnh địa bán độc lập dưới sự bảo hộ hỗn hợp của Kị sĩ đoàn quốc Teuton và Vương quốc Ba Lan. Chú thích Lịch sử châu Âu Giáo hội Công giáo Rôma
19851216
https://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich%20III%2C%20Tuy%E1%BB%83n%20h%E1%BA%A7u%20x%E1%BB%A9%20Sachsen
Friedrich III, Tuyển hầu xứ Sachsen
{{Infobox royalty | name = Frederick III | title = | image = Lucas Cranach d.Ä. - Friedrich III. von Sachsen, genannt der Weise (Liechtenstein Collection).jpg | caption = Chân dung của Lucas Cranach the Elder | succession = Tuyển hầu xứ Sachsen | reign = 26 tháng 8 năm 1486 – 5 tháng 5 năm 1525 | predecessor = Tuyển đế hầu Ernest | successor = Tuyển đế hầu Johann | birth_date = 17 tháng 1 năm 1463 | birth_place = Torgau, Tuyển hầu xứ Sachsen trong Đế chế La Mã Thần thánh | death_date = | death_place = Lâu đài Lochau gần Annaburg, Tuyển hầu xứ Sachsen ở Đế chế La Mã Thần thánh | burial_place = Schlosskirche, Wittenberg | spouse = | issue = | house = Nhà Wettin | father = Ernst, Tuyển hầu xứ Sachsen | mother = Elisabeth xứ Bayern | religion = {{ubl|Công giáo (1463-1525)|Không rõ (1525)]]}} | signature = Signatur Friedrich III. (Sachsen).PNG }} Friedrich III xứ Sachsen (tiếng Đức: Friedrich III. von Sachsen; 17 tháng 1 năm 1463 – 5 tháng 5 năm 1525), còn được gọi là Friedrich Khôn ngoan (tiếng Đức: Friedrich der Weise), là Tuyển hầu xứ Sachsen từ năm 1486 đến năm 1525, người được nhớ đến nhiều nhất vì sự bảo vệ của ông dành Martin Luther và Cải cách Tin Lành. Friedrich là con trai của Ernst, Tuyển hầu xứ Sachsen và vợ là Công nữ Elisabeth, con gái của Albrecht III, Công tước xứ Bayern. Ông được chú ý là một trong những người bảo vệ mạnh mẽ nhất của Martin Luther. Ông đã bảo vệ thành công Luther khỏi Hoàng đế La Mã Thần thánh, Giáo hoàng và những nhân vật thù địch khác. Bề ngoài, ông thực hành lãnh đạo, không phải bởi niềm tin tôn giáo, mà là bởi niềm tin cá nhân vào một phiên tòa công bằng dành cho bất kỳ thần dân nào của mình (một đặc quyền được đảm bảo bởi luật pháp của Đế chế La Mã Thần thánh) và pháp quyền. Tuyển đế hầu Friedrich có rất ít liên hệ cá nhân với Luther. Thủ quỹ của ông là Degenhart Pfaffinger đã thay mặt ông nói chuyện với Luther. Pfaffinger đã hỗ trợ Friedrich kể từ khi họ cùng nhau hành hương đến Đất Thánh. Friedrich được cho là vẫn theo Công giáo La Mã suốt đời, nhưng dần dần nghiêng về các học thuyết Cải cách và được cho là đã cải đạo trên giường bệnh. Friedrich III được tưởng niệm là một nhà cai trị Cơ đốc giáo trong Lịch phụng vụ của Nhà thờ Lutheran - Thượng hội đồng Missouri vào ngày 5 tháng 5. Tiểu sử Sinh ra ở Torgau, ông kế vị cha mình làm tuyển đế hầu vào năm 1486; năm 1502, ông thành lập Đại học Wittenberg, nơi Martin Luther và Philip Melanchthon giảng dạy. Friedrich là một trong những thân vương thúc ép Hoàng đế Maximilian I thực hiện cầu cải cách Đế chế La Mã Thần thánh, và vào năm 1500, ông trở thành chủ tịch hội đồng nhiếp chính mới thành lập (Reichsregiment''). Họa sĩ cung đình của ông từ năm 1504 là Lucas Cranach Trưởng lão. Năm 1519, Friedrich trở thành ứng cử viên của Giáo hoàng Leo X cho vị trí Hoàng đế La Mã Thần thánh; Giáo hoàng đã trao tặng ông Bông hồng vàng đức hạnh vào ngày 3 tháng 9 năm 1518 trong nỗ lực thuyết phục ông chấp nhận ngai vàng. Tuy nhiên, Friedrich đã ủng hộ Đại công tước Karl của Áo bằng cách thuyết phục các tuyển đế hầu khác làm điều tương tự nếu Karl trả một khoản nợ của Sachsen từ năm 1497. Tham khảo Nguồn Tuyển hầu xứ Sachsen Tuyển hầu thân vương tử Sachsen Vương tộc Wettin Sinh năm 1463 Mất năm 1525 Thánh Tin Lành Người Đức thế kỷ 16
19851219
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trimma%20stobbsi
Trimma stobbsi
Trimma stobbsi là một loài cá biển thuộc chi Trimma trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2001. Từ nguyên Từ định danh stobbsi được đặt theo tên của Robin E. Stobbs, người bạn và đồng nghiệp đã giúp Winterbottom khi mới bắt đầu sự nghiệp, đặc biệt là khía cạnh nghiên cứu thực địa, suốt những năm tại Viện Nghiên cứu Ngư học JLB Smith. Phân bố và môi trường sống Từ Maldives, T. stobbsi có phân bố trải dài về phía đông, qua Việt Nam đến Vanuatu và Nouvelle-Calédonie, về phía nam đến rạn san hô Ashmore. T. stobbsi sống trong các hang hốc và dưới gờ đá ở độ sâu từ 10 đến đến ít nhất là 40 m. Mô tả Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở T. stobbsi là 2,5 cm. Đầu màu vàng, thân màu nâu xám và có một đốm đen ở phía trên và ngay phía trước góc sau trên của nắp mang. Số gai vây lưng: 6–7; Số tia vây lưng: 9–10; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 8–9. Tham khảo S Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Maldives Cá Việt Nam Cá Philippines Cá Papua New Guinea Cá Nouvelle-Calédonie Cá Vanuatu Động vật được mô tả năm 2001
19851223
https://vi.wikipedia.org/wiki/Constantin%20Zuckerman
Constantin Zuckerman
Constantin Zuckerman (; sinh năm 1957) là một nhà sử học người Pháp. Ông là Giáo sư nghiên cứu về Đế quốc Đông La Mã tại Ecole Pratique des Hautes Etudes tại Paris. Tiểu sử Zuckerman là tác giả của nhiều bài báo về Đế quốc Đông La Mã, người Goth, người Armenia, người Hung, người Thổ Nhĩ Kỳ, người Khazar, người Magyar và người Rus đầu tiên, trong nhiều dân tộc khác. Thư mục La Crimee entre Byzance et le Khaganat khazar. Ed. Constantin Zuckerman. Paris: Association des Amis du Centre d'Histoire et Civilisation de Byzance, 2006. 197 tr. Zuckerman, Constantin. (2002) "Heraclius in 625" (bài viết trong tập san Revue des études Byzantines) Zuckerman, Constantin. (2002) On the Origin of the Khazar Diarchy and the Circumstances of Khazaria's Conversion to Judaism (Book Chapter in The Turks, Volume 1: Early Ages) Zuckerman, Constantin. Les centres proto-urbains russes entre Scandinavie, Byzance et Orient / eds. M. Kazanski, A. Nercessian, C. Zuckerman (Réalités Byzantines 7). - Paris, 2000. - tr. 95-120. Zuckerman, Constantin. (2000) "Review of 'Rome and Persia at War, 502-532' by G. Greatrex" (phê bình sách trong Revue des études Byzantines) Zuckerman, Constantin. (1998) Two reforms of the 370s: recruiting soldiers and senators in the divided empire (bài viết trong tập san Revue des études Byzantines ) Zuckerman, Constantin. (1988) The Reign of Constantine V in the Miracles of St. Theodore the Recruit (bài viết trong tập san Revue des études Byzantines) Zuckerman, Constantin. (1995) On the Date of the Khazars' Conversion to Judaism and the Chronology of the Kings of the Rus Oleg and Igor (bài viết trong tập san Revue des études Byzantines ) К. Цукерман, "Перестройка древнейшей русской истории", In: У истоков русской государственности, 2007, (tài liệu của một hội nghị năm 2005) Tham khảo Liên kết ngoài Ephe.academia.edu: about Zuckerman and his full bibliography. Sinh năm 1957 Nhân vật còn sống Nhà sử học Pháp thế kỷ 20 Nghiên cứu Khazar Nam nhà văn phi hư cấu Pháp Nhà sử học Pháp thế kỷ 21
19851227
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jeffrey%20Zuckerman
Jeffrey Zuckerman
Jeffrey Zuckerman là một dịch giả chuyên về văn học Pháp. Đối tượng dịch th của ông chủ yếu là tiểu thuyết hiện đại của chính quốc Pháp và Mauritius, của các nhà văn như Ananda Devi, Shenaz Patel, và Carl de Souza. Ông hiện sống tại Thành phố New York. Bản dịch của ông cho cuốn sách Eve Out of Her Ruins của Ananda Devi giành giải Firecracker Award for Fiction của CLMP. Tác phẩm chọn lọc Jakuta Alikavazovic Night as It Falls (Faber & Faber, 2022) Jean-Michel Basquiat Les Cahiers (dịch sang tiếng Pháp cùng với David Ferrière, 2018) Thomas Clerc Interior (Farrar, Straus and Giroux, 2018) "Out of Debt" (Hotel Cordel no. 1, 2019) The Dardenne Brothers On the Back of Our Images, vol. 1 (Featherproof Books, 2019) Ananda Devi Eve Out of Her Ruins (Deep Vellum, 2016; Les Fugitives, 2016; Speaking Tiger Books, 2017) The Living Days (Feminist Press, 2019; Les Fugitives, 2020) "Kari Disan" (Words Without Borders, 2017) Jean Genet The Criminal Child (New York Review Books, 2020) Hervé Guibert Written in Invisible Ink: Selected Stories (Semiotext(e), 2020) My Manservant and Me: Madcap Novel (Nightboat Books, 2022) Alain Guiraudie Now the Night Begins (Semiotext(e), 2018) Caroline Laurent An Impossible Return (AmazonCrossing, 2022) Shenaz Patel Silence of the Chagos (Restless Books, 2019) Titaua Peu Pina (Restless Books, 2022) Jean-Jacques Schuhl Dusty Pink (Semiotext(e), 2018) Carl de Souza Kaya Days (Two Lines Press, 2021) Antoine Volodine "The Fringe of Reality" (The White Review, 2014) "Post-Exotic Novels, Nȯvelles, and Novelists" (The New Inquiry, 2015) "The Year of Octobers" (Hayden's Ferry, 2015) Radiant Terminus (Open Letter Books, 2017) "Slogans" by Maria Sudayeva (The White Review, 2017) Black Village by Lutz Bassmann (Open Letter Books, 2022) Tham khảo Sinh năm 1987 Dịch giả Mỹ Nhân vật còn sống
19851228
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lillian%20Zuckerman
Lillian Zuckerman
Lillian Zuckerman (tên khai sinh là Lillian Fara Stein, 16 tháng 9 năm 1916 – 11 tháng 10 năm 2004) là một nữ diễn viên người Mỹ. Bà sinh ra ở Baltimore, Maryland và mất ở Miami, Florida. Sự nghiệp điện ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1916 Mất năm 2004 Nữ diễn viên đến Baltimore Chết vì ung thư ở Florida Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 20
19851253
https://vi.wikipedia.org/wiki/Andromeda%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Andromeda (định hướng)
Andromeda có thể đề cập đến: Andromeda, thần thoại Andromeda (tàu chiến Ý) Andromeda, chi thực vật Tiên Nữ (chòm sao) Thiên hà Tiên Nữ
19851272
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hyderabad%20%28bang%29
Hyderabad (bang)
Bang Hyderabad (, ) là một bang cũ của Ấn Độ, được hình thành sau khi Nhà nước Hyderabad gia nhập Liên bang vào ngày 17 tháng 9 năm 1948. Bang này tồn tại từ năm 1948 đến năm 1956. Sau Đạo luật Tái tổ chức các bang, 1956, các bang của Ấn Độ được tổ chức lại theo ngôn ngữ, bang Hyderabad do vậy bị giải thể. Các vùng đất của bang được sáp nhập vào các bang Andhra, Mysore và Bombay. Ấn Độ sáp nhập Trong thời kỳ thuộc Anh, các phiên vương quốc (princely state) của Ấn Độ về nguyên tắc có chính quyền tự trị trong lãnh thổ của mình, còn Anh kiểm soát về quan hệ đối ngoại. Theo Đạo luật Độc lập Ấn Độ 1947, người Anh đã từ bỏ tất cả các liên minh này, cho phép các thân vương quốc quyền lựa chọn độc lập hoàn toàn. Tuy nhiên, đến năm 1948 thì hầu như toàn bộ các phiên vương quốc đều gia nhập vào Ấn Độ hoặc Pakistan. Hyderabad là phiên vương quốc giàu có và quyền lực nhất, và nhà nước này trở thành một ngoại lệ. Nizam Mir Osman Ali Khan là một vị quân chủ theo Hồi giáo nhưng phần lớn thần dân của ông theo đạo Hindu, ông hy vọng duy trì được độc lập bằng một đội quân không chính quy. Tuy nhiên, Ấn Độ sáp nhập thân vương quốc Hyderabad vào tháng 9 năm 1948 thông qua một hoạt động quân sự mang tên Chiến dịch Polo. Thống đốc quân sự Sau khi Ấn Độ sáp nhập Nhà nước Hyderabad, người chỉ huy Chiến dịch Polo là Thiếu tướng J. N. Chaudhuri giữ chức thống đốc quân sự cho đến tháng 12 năm 1949. Cư dân trong bang tổ chức cuộc khích động Mulkhi năm 1952 sau khi các công việc trong chính phủ được giao cho những người từ bên ngoài, dù trước đây chỉ dành cho người dân địa phương . Rajpramukh Nizam cuối cùng của Nhà nước Hyderabad là Mir Osman Ali Khan (1886–1967) được bổ nhiệm làm Rajpramukh của bang Hyderabad từ 26 tháng 1 năm 1950 đến 31 tháng 10 năm 1956. Bầu cử Trong bầu cử hội đồng lập pháp cấp bang tại Ấn Độ vào năm 1952, Burgula Ramakrishna Rao được bầu làm thủ hiến bang Hyderabad. Trong thời gian này có một số người theo phong trào Telangana kích động bạo lực nhằm gửi trả các quan chức đến từ bang Madras, và thực hiện nghiêm ngặt 'quy tắc Mulki' (việc làm địa phương chỉ dành cho người địa phương), là quy định nằm trong pháp luật của Nhà nước Hyderabad từ năm 1919. Hành chính Về mặt hành chính, bang Hyderabad được phân thành 16 huyện, được nhóm thành bốn phân khu: Tổ chức lại Theo đạo luật về tổ chức lại các bang của Ấn Độ dựa trên các ranh giới ngôn ngữ, khu vực nói tiếng Telugu của bang Hyderabad được sáp nhập với bang Andhra. Khu vực nói tiếng Marathi được sáp nhập với bang Bombay, và khu vực nói tiếng Kannada được sáp nhập với bang Mysore. Ủy ban Tái tổ chức các bang (SRC) không ủng hộ việc sáp nhập ngay lập tức khu vực nói tiếng Telugu của bang Hyderabad với bang Andhra, mặc dù họ có ngôn ngữ chung. Đoạn 378 của báo cáo SRC cho biết Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến phản đối Vishalandhra (phong trào lập một bang duy nhất cho người nói tiếng Telugu) dường như là vì người dân Telangana bị lạc hậu về mặt giáo dục nên họ cảm thấy rằng mình có thể bị những người tiến bộ hơn ở vùng ven biển chèn ép và bóc lột. Bang Andhra và bang Hyderabad được sáp nhập để tạo thành Andhra Pradesh vào ngày 1 tháng 11 năm 1956, nhưng một thoả thuận quy định các biện pháp bảo vệ cho khu vực Telangana. Tuy nhiên đến tháng 6 năm 2014, Telangana được tái lập thành một bang riêng biệt. Thành phố Hyderabad tiếp tục là thủ phủ của cả Andhra Pradesh và Telangana trong 10 năm sau. Thủ hiến Bang Hyderabad bao gồm: khu vực Telangana với chín huyện nói tiếng Telugu, khu vực Gulbarga với bốn huyện nói tiếng Kannada, và khu vực Aurangabad với bốn huyện nói tiếng Marathi. Xem thêm Nhà nước Nizam Hyderabad (1724–1948) Ghi chú Tham khảo Nguồn Đọc thêm Khởi đầu năm 1948 Chấm dứt năm 1956 Vùng lịch sử Ấn Độ Hyderabad, Telangana Bang và lãnh thổ liên bang của Ấn Độ Telangana
19851274
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%8B%20%C4%91%E1%BA%B9p%20%C4%91%E1%BA%A1p%20gi%C3%B3%20r%E1%BA%BD%20s%C3%B3ng%20%28m%C3%B9a%201%29
Chị đẹp đạp gió rẽ sóng (mùa 1)
Mùa đầu tiên của chương trình Chị đẹp đạp gió rẽ sóng được phát sóng trên kênh truyền hình VTV3 từ ngày 28 tháng 10 năm 2023 đến ngày 3 tháng 2 năm 2024. Ban cố vấn và dẫn chương trình Ban cố vấn của mùa đầu tiên đã được chương trình tiết lộ bao gồm Trần Hồng Hànhà báo và phó ban Văn nghệ của Đài Truyền hình Việt Nam, Denis Đặngdiễn viên, nhà sản xuất chương trình và giám đốc sáng tạo của chương trình, và Trần Thành Trungnhà sản xuất âm nhạc kiêm đạo diễn sân khấu. Ngày 10 tháng 8 năm 2023, Anh Tuấn, Quốc Trường và Lâm Bảo Châu được thông báo là những người dẫn chương trình trong mùa đầu tiên. Danh sách "chị đẹp" 30 nữ nghệ sĩ từ 30 tuổi trở lên (được gọi là các "chị đẹp") tham gia chương trình đều phải trải qua quá trình luyện tập thanh nhạc và vũ đạo để tham gia vào các đêm công diễn. Sau năm đêm công diễn, đêm chung kết sẽ xác định bảy chị đẹp cuối cùng để ra mắt với tư cách một nhóm nhạc, dựa trên bình chọn của khán giả trường quay. Danh sách dưới đây bao gồm 30 nghệ sĩ đã tham gia trong mùa đầu tiên, theo thứ tự bị loại ở từng đêm công diễn và đêm chung kết. Vòng trình diễn cá nhân Mỗi chị đẹp phải chuẩn bị một tiết mục trình diễn cá nhân trong vòng 90–120 giây. 12 chị đẹp ứng cử trưởng nhóm sẽ tham gia biểu diễn trước, sau đó là các chị đẹp còn lại. Đặc biệt, với các chị đẹp ứng cử làm trưởng nhóm, 29 chị đẹp còn lại sẽ chấm điểm cho người đang biểu diễn. Sau phần trình diễn, mỗi chị đẹp sẽ được các cố vấn chấm điểm trên tổng điểm tối đa là 90 điểm. Sau vòng này, ba chị đẹp đứng đầu bảng điểm chị đẹp sẽ trở thành ba trưởng nhóm cho vòng công diễn 1, và hai chị đẹp đứng đầu bảng điểm cố vấn sẽ trở thành hai trưởng nhóm tiếp theo. Vòng công diễn Vòng công diễn 1: Tắc kè hoa Trước khi bước vào vòng công diễn 1, vòng chọn đội được tổ chức. Từ hai bảng điểm của vòng trình diễn cá nhân, năm vị trí trưởng nhóm được lựa chọn (với ba vị trí đầu tiên từ bảng điểm chị đẹp và hai vị tiếp theo từ bảng điểm cố vấn). Theo bảng điểm chị đẹp (dành cho 12 chị đẹp ứng cử làm trưởng nhóm), ba chị đẹp có số phiếu bầu cao nhất và trở thành trưởng nhóm là Thu Phương, Lệ Quyên, và Trang Pháp. Còn theo bảng điểm cố vấn (dành cho 30 chị đẹp), hai chị đẹp có số điểm cao nhất và trở thành trưởng nhóm là Hồng Nhung và Mỹ Linh. Các tên nhóm trong vòng này dựa theo tên bài hát mà nhóm đó được trình diễn; các nhóm ba người gồm có "Nếu anh đi", "Răng khôn"; nhóm năm người có "Ưng quá chừng" (sau đổi thành "Đi đu đưa đi"), "Đưa em về nhà" và nhóm bảy người có "Vũ trụ có anh", "Gửi anh xa nhớ & Người ơi người ở đừng về". Sau đó, năm trưởng nhóm lần lượt chọn bài hát theo thứ tự điểm số từ cao đến thấp (bảng điểm chị đẹp chọn trước, bảng điểm cố vấn chọn sau). Năm trưởng nhóm có hai lượt chọn lựa thành viên theo quy tắc xoay vòng. Nếu chị đẹp được mời từ chối vào nhóm thì trưởng nhóm sẽ bị mất lượt. Sau hai lượt trưởng nhóm chọn thành viên, các chị đẹp còn lại sẽ lựa chọn ca khúc bản thân mong muốn trình diễn theo thứ tự từ bảng điểm cố vấn. Khi năm nhóm được hoàn thiện, các thành viên còn lại tự động về nhóm cuối cùng (một số chị đẹp có quyền tự nguyện vào nhóm cuối trong quá trình chia nhóm), và Đoan Trang được các thành viên trong nhóm đó hội ý quyết định trở thành trưởng nhóm cho nhóm cuối. Thứ tự trình diễn của các nhóm được quyết định dựa theo lựa chọn của các trưởng nhóm có quyền ưu tiên chọn thứ tự trong đêm công diễn ở tập 4. Để giành được quyền ưu tiên này, trước đêm công diễn, các nhóm có 120 phút tập luyện với các cố vấn của chương trình; sau đó, các nhóm cùng số lượng thành viên thi đấu đối kháng với nhau, nhóm chiến thắng sẽ giành được quyền ưu tiên. Ngoài ra, ở đêm công diễn này, chương trình cũng lựa chọn ngẫu nhiên một nhóm để chọn giữa "Thử thách nhân đôi" (lựa chọn một trong ba thử thách đổi bài hát, trình diễn không vũ công hoặc trình diễn không đạo cụ) và "Lợi thế ưu tiên" (được mời một cổ động viên đến sân khấu để cổ vũ, đặc quyền này cũng tương đương với một phiếu bình chọn). Ở vòng công diễn, các khán giả tại trường quay bỏ phiếu lựa chọn giữa hai nhóm có cùng số người. Hai nhóm có cùng số lượng thành viên đối đầu nhau tại đêm Công diễn 1, kết quả được quyết định bởi 357 khán giả nữ tại trường quay, mỗi khán giả có hai lượt bình chọn và có quyền chia đều hai phiếu cho hai nhóm hoặc dành cả hai phiếu cho một nhóm. Kết thúc vòng công diễn 1, ba nhóm cao điểm hơn trở thành ba nhóm an toàn, đồng thời toàn bộ thành viên sẽ được thăng cấp và đi thẳng vào vòng trong, ba nhóm thấp điểm hơn nằm trong vòng nguy hiểm. Sau khi cả sáu nhóm đã hoàn thành màn trình diễn, khán giả tiếp tục bình chọn điểm số cá nhân cho các chị đẹp mà mình yêu thích (thông qua bảng xếp hạng cá nhân), mỗi khán giả được bình chọn tối đa cho ba chị đẹp. Sau vòng công diễn đầu tiên, ngoại trừ Bảo Anh chủ động tuyên bố rút lui ngay trước đêm công diễn, năm chị đẹp có số điểm bình chọn thấp nhất phải tạm rời khỏi chương trình là Yến Trang, Vân Hugo, Tú Vi, Hoàng Oanh và Nguyên Hà. Vòng công diễn 2: Thủy triều Trước khi bước vào vòng công diễn 2, vòng chọn đội được tiếp tục diễn ra. Từ bảng điểm chị đẹp (bảng điểm yêu thích cá nhân của khán giả trong vòng công diễn 1), sáu vị trí trưởng nhóm được thiết lập. Theo bảng điểm chị đẹp, sáu chị đẹp có số phiếu bầu cao nhất và trở thành trưởng nhóm là Đoan Trang, Ninh Dương Lan Ngọc, Diệu Nhi, Hà Kino, H'Hen Niê và MLee. Các tên nhóm trong vòng này dựa theo tên bài hát mà nhóm đó được trình diễn; các nhóm ba người gồm có "Ai cũng có ngày xưa", "Dòng thời gian", "Phi hành gia cô đơn" và nhóm năm người có "Lớn rồi còn khóc nhè", "Chị ngả em nâng", "Tình bạn diệu kỳ & Cún yêu". Sau đó, các thành viên còn lại được chọn nhóm dựa trên thứ hạng trong bảng điểm chị đẹp. Ngày thứ hai sau khi các nhóm luyện tập, thứ tự công diễn được quyết định thông qua kết quả đánh giá trong phần thử thách tập luyện trong tập 6. Ở vòng này, thử thách tập luyện được diễn ra như sau: Mỗi nhóm chọn ra hai thành viên và có quyền hoán đổi cho nhau. Việc lựa chọn được diễn ra theo hình thức bốc thăm. Sau khi xác định vị trí và thảo luận, các nhóm có 60 phút để tập luyện với vị trí đã hoán đổi. Nhóm giành chiến thắng có quyền được quyết định thứ tự diễn cho nhóm đó và tính toán thứ tự diễn cho các nhóm sau, còn hai nhóm xếp hạng thấp nhất sẽ diễn sau và đồng thời gặp bất lợi trong vòng công diễn này. Sau vòng công diễn này, hai nhóm có số phiếu thứ hạng cao nhất trong buổi công diễn được vào vòng trong, bốn người trong nhóm nguy hiểm có số phiếu yêu thích cá nhân ít nhất trong các nhóm còn lại tạm thời rời khỏi chương trình. Khác với vòng công diễn đầu tiên, do hai nhóm xếp hạng thấp nhất trong phần đánh giá trước đó nên kết quả bình chọn của hai nhóm đó không được công bố, thay vào đó chỉ có thể công bố kết quả bình chọn cho bốn nhóm còn lại. Việc có hai nhóm không được công bố kết quả bình chọn đã khiến cách bình chọn của khán giả tại trường quay vòng này có sự thay đổi so với vòng công diễn đầu tiên. Cụ thể, sau khi phần trình diễn của mỗi nhóm kết thúc, khán giả tại trường quay tiến hành bình chọn ngay cho nhóm đó khi họ trở về phòng chờ. Khi có kết quả, người dẫn chương trình công bố luôn cho nhóm đó, do vậy nhóm có số phiếu cao cũng chưa thể chắc suất thắng bởi kết quả quyết định nhóm thắng và nhóm thua được công bố sau khi kết thúc các phần trình diễn ở vòng công diễn 2. Kết thúc vòng công diễn 2, 4 chị đẹp phải tạm dừng gồm Quỳnh Nga, Phạm Lịch, Hà Kino và Thái Trinh. Vòng công diễn 3: Chuyến tàu thời gian Trước khi bước vào vòng công diễn 3, chương trình tổ chức vòng chọn đội. Từ bảng điểm chị đẹp (bảng điểm yêu thích cá nhân của khán giả trong vòng công diễn 2), bốn vị trí trưởng nhóm được thành lập. Trong đêm công diễn 3, 20 chị đẹp được chia thành bốn nhóm, mỗi nhóm gồm năm thành viên. Điều đặc biệt là mỗi nhóm không được chọn trùng quá 50% số thành viên ở hai vòng công diễn trước đó. Bốn đội trưởng sẽ được lựa chọn cụ thể như sau: Đội trưởng đầu tiên: Chị đẹp có lượt bình chọn cá nhân cao nhất trong 2 nhóm an toàn được chọn là đội trưởng đầu tiên. Đội trưởng đầu tiên có quyền lựa chọn hai thành viên về đội của mình. Đội trưởng thứ hai: Chị đẹp có lượt bình chọn cá nhân cao nhất trong bốn nhóm nguy hiểm được chọn là đội trưởng thứ hai. Đội trưởng thứ ba: Chị đẹp có lượt bình chọn cá nhân cao thứ hai trong bốn nhóm nguy hiểm được chọn là đội trưởng thứ ba. Các chị đẹp còn lại chọn đội theo thứ tự bảng điểm bình chọn cá nhân. Đội trưởng thứ tư: Chị đẹp có lượt bình chọn cá nhân cao nhất trong nhóm chưa có đội trưởng được chọn là đội trưởng thứ tư. Theo thể lệ như vậy, bốn chị đẹp trở thành trưởng nhóm lần lượt là Ninh Dương Lan Ngọc, Diệu Nhi, MLee và Hương Ly. Các tên nhóm trong vòng này dựa theo tên bài hát mà nhóm đó được trình diễn; các nhóm năm người có "Hai đứa trẻ", "Màu hồng chủ nhật", "Mưa phi trường & Ước gì", "Vì sao". Sau đó, các thành viên còn lại được chọn nhóm dựa trên thứ hạng trong bảng điểm chị đẹp. Ngoài ra, trưởng nhóm Ninh Dương Lan Ngọc cũng được sở hữu một "tấm thẻ quyền lực" (thẻ tín dụng MasterCard của MB Bank, còn được gọi là thẻ đen) do có số phiếu yêu thích cá nhân cao nhất trong nhóm nguy hiểm, khi sử dụng sẽ có quyền hồi sinh một trong các chị đẹp tạm rời khỏi chương trình ở vòng công diễn 3 (có thể hồi sinh chính bản thân nếu bản thân thuộc diện phải tạm rời khỏi chương trình) hoặc có quyền đổi bài hát với một trong các nhóm còn lại trong quá trình luyện tập. Ngày thứ ba sau khi các nhóm luyện tập, thứ tự công diễn được quyết định thông qua kết quả đánh giá trong phần thử thách tập luyện trong tập 8. Các nhóm sẽ có khoảng 60 phút tập luyện lượt cuối trước khi thể hiện với các cố vấn của chương trình để đánh giá, từ đó dựa theo kết quả đánh giá để quyết định thứ tự diễn cho vòng công diễn 3 (đối với nhóm có xếp hạng cao nhất khi quyết định thứ tự diễn có quyền thảo luận với các nhóm khác để có thể đổi thứ tự diễn trước khi quyết định thứ tự diễn chính thức). Bên cạnh đó, mỗi một nhóm sẽ cử ra một chị đẹp tham gia vòng thi "Dance Battle". Bài hát "Vũ điệu hoang dã" được sử dụng để thi đấu sẽ được trình diễn theo bốn thể loại âm nhạc khác nhau, 4 nhóm phân chia thể loại bằng cách bốc thăm. Bốn thành viên sau khi trình diễn xong đều được khán giả tại trường quay bình chọn, số điểm này được cộng vào điểm nhóm và quyết định điểm số xếp hạng cho đêm công diễn 3. Sau vòng công diễn này, chỉ có một nhóm có số phiếu thứ hạng cao nhất trong buổi công diễn sẽ vào vòng trong, bốn người (ba người nếu được hồi sinh) trong nhóm nguy hiểm có số phiếu yêu thích cá nhân ít nhất trong các nhóm còn lại tạm thời rời khỏi chương trình. Điểm số xếp hạng cho vòng công diễn ba được tính bởi điểm bình chọn vòng công diễn 3 và điểm bình chọn vòng thi "Dance Battle", các điểm số đó được quy đổi từ tỉ lệ bình chọn của khán giả tại trường quay, nhóm có tỉ lệ bình chọn cao hơn được quy đổi thành 4 điểm và giảm dần dựa theo tỉ lệ bình chọn của khán giả. Kết thúc vòng công diễn 3, chỉ có ba chị đẹp phải tạm dừng cuộc chơi là Thanh Ngọc, Giang Hồng Ngọc và Hương Ly, do Lan Ngọc đã sử dụng chiếc thẻ quyền lực để cứu Khổng Tú Quỳnh trở lại chương trình. Vòng công diễn 4: Đi tìm hạnh phúc Trước khi bắt đầu vòng công diễn 4, chương trình tổ chức vòng chọn đội. Từ bảng điểm chị đẹp (bảng điểm yêu thích cá nhân của khán giả trong vòng công diễn 3), ba vị trí trưởng nhóm được thiết lập. Theo bảng điểm chị đẹp, ba chị đẹp có số phiếu bầu thấp nhất và trở thành trưởng nhóm là Hồng Nhung, Thu Phương và Khổng Tú Quỳnh. Trong đêm công diễn 4, 17 chị đẹp được chia thành hai nhóm năm thành viên và một nhóm bảy thành viên, đồng thời mỗi nhóm không được chọn trùng quá 50% số thành viên ở vòng công diễn 3. Các chị đẹp trong nhóm an toàn có quyền ưu tiên được chọn bài hát trước, thứ tự ưu tiên dựa vào lượt bình chọn cá nhân của từng chị đẹp. Các nhóm chị đẹp còn lại lần lượt chọn bài hát theo thứ hạng ở công diễn 3, thứ tự chị đẹp chọn ca khúc cũng dựa trên bình chọn cá nhân của từng chị đẹp ở trong nhóm. Tại công diễn này, mỗi nhóm chị đẹp phải trình diễn hai tiết mục, bao gồm một tiết mục nhóm và một tiết mục trình diễn với khách mời nam trong nhóm anh tài. Ba anh tài trình diễn với ba nhóm chị đẹp trong công diễn lần này là BigDaddy, Tăng Duy Tân và Mono. Các tên nhóm trong vòng này dựa theo tên bài hát mà nhóm đó được trình diễn; các nhóm năm người gồm có "Hoa nở không màu & Bông hoa đẹp nhất", "Hương ngọc lan" và nhóm bảy người có "Đóa hoa hồng & Cánh hồng phai". Trong màn trình diễn chung với khách mời nam, Mono trình diễn chung với nhóm "Hoa nở không màu & Bông hoa đẹp nhất", Tăng Duy Tân trình diễn chung với nhóm "Đóa hoa hồng & Cánh hồng phai", và BigDaddy trình diễn chung với nhóm "Hương ngọc lan". Ngày thứ tư sau khi các nhóm luyện tập, thứ tự công diễn được quyết định dựa theo kết quả đánh giá trong phần thử thách tập luyện trong tập 10. Các nhóm có khoảng 120 phút tập luyện lượt cuối trước khi thể hiện với các cố vấn của chương trình để đánh giá, từ đó dựa theo kết quả đánh giá để quyết định thứ tự trình diễn cho vòng công diễn 4. Trong phần thử thách tập luyện này được chia làm hai lượt, cụ thể như sau: Lượt 1: Các nhóm chỉ cần thể hiện một đoạn của phần trình diễn, tuy nhiên chỉ cho phép 2/3 số thành viên của nhóm thể hiện với ban cố vấn (nhóm năm người tạm loại hai người, nhóm bảy người tạm loại ba người) để thể hiện khả năng ứng biến trong trường hợp trình diễn thiếu người. Việc phân bổ nhóm trong phần thử thách tập luyện ở lượt này do ban cố vấn thực hiện. Lượt 2: Các nhóm thể hiện một phần trình diễn với đầy đủ thành viên như các phần thử thách tập luyện trước đó. Kết thúc phần thử thách tập luyện, nhóm giành chiến thắng có thêm 30 giây vào thời gian của nhóm đó để kêu gọi khán giả tại trường quay bình chọn sau khi trình diễn xong tại vòng công diễn 4. Ở vòng công diễn 4, việc bình chọn của khán giả tại trường quay vòng này có sự thay đổi. Cụ thể, mỗi khán giả đều có một lượt bình chọn cho một tiết mục, và khán giả có quyền bình chọn hoặc không bình chọn cho tiết mục. Số điểm bình chọn của mỗi nhóm trong vòng công diễn 4 được tính bằng tổng của điểm tiết mục nhóm cộng với điểm của tiết mục kết hợp cùng anh tài. Sau vòng công diễn này, chỉ có một nhóm có số phiếu thứ hạng cao nhất trong buổi công diễn được vào vòng trong, ba người trong nhóm nguy hiểm có số phiếu yêu thích cá nhân ít nhất trong các nhóm còn lại tạm thời rời khỏi chương trình. Kết thúc vòng công diễn 4, Khổng Tú Quỳnh dù được trao cơ hội tiếp tục đổi mới bản thân, song cô vẫn phải dừng bước cùng với Đoan Trang và Lưu Hương Giang. Vòng công diễn 5: Nguyệt thực Trước khi bắt đầu vòng Công diễn 5, 14 chị đẹp còn lại được chia làm hai nhóm thông qua vòng chọn đội, trưởng nhóm tại vòng này được quyết định qua phần bầu chọn. Có tổng cộng ba nhóm bảy người tại vòng công diễn này, bao gồm hai nhóm với 14 chị đẹp còn lại (gọi là nhóm ứng cử viên quán quân) và một nhóm với bảy chị đẹp được hồi sinh thông qua kết quả bình chọn của khán giả tại hạng mục "Hồi sinh" trên nền tảng Onlala diễn ra từ ngày 19 tháng 10 đến ngày 25 tháng 11 năm 2023 (gọi là nhóm hồi sinh). Theo kết quả bỏ phiếu chung cuộc, hai trưởng nhóm ứng cử viên quán quân được bầu chọn tại vòng này là Thu Phương và MLee. Còn theo kết quả bình chọn của khán giả tại hạng mục "Hồi sinh" trên nền tảng Onlala, bảy chị đẹp được hồi sinh là: Đoan Trang, Thanh Ngọc, Tú Vi, Quỳnh Nga, Nguyên Hà, Hà Kino và Hương Ly. Tại vòng chọn đội, không giống như các vòng công diễn trước đó, việc lựa chọn các thành viên cho hai nhóm ứng cử viên quán quân được thực hiện theo hình thức tự do. Có hai vòng thi được triển khai trong công diễn 5: Vòng đối kháng cá nhân: Mỗi nhóm trình diễn bảy bài hát theo hình thức cá nhân (mỗi thành viên trình diễn một bài hát). Hình thức thi đấu vòng này là 1 đấu 1 đấu 1 (mỗi bài hát có ba thành viên của ba nhóm tham gia), lần lượt theo thứ tự từ nhóm hồi sinh đến nhóm ứng cử viên quán quân. Kết thúc mỗi lượt thi, chị đẹp thuộc nhóm hồi sinh sẽ được quyền chọn so điểm với một trong hai chị đẹp bất kỳ của nhóm ứng cử viên quán quân. Sau đó, khán giả tại trường quay tiến hành bầu chọn cho chị đẹp thuộc nhóm hồi sinh và chị đẹp thuộc nhóm ứng cử viên quán quân. Trong quá trình thi đấu, mỗi bên đều có một cơ hội để xem điểm sau các lượt thi. Việc xem điểm này có tác dụng nhằm hỗ trợ cho chiến thuật chọn bài thách đấu của các chị đẹp. Sau khi kết thúc vòng đối kháng cá nhân, nếu tổng điểm của nhóm hồi sinh cao hơn nhóm ứng cử viên quán quân, họ sẽ nhận được một suất hồi sinh cho một thành viên. Các bài hát trong vòng này tương ứng lượt đấu như sau: Anh (Hình thức hát). Em gái mưa (Hình thức hát). Như một giấc mơ (Hình thức hát). Đường cong (Hình thức hát và nhảy). Mây và núi (Hình thức hát và trình diễn nhạc cụ). Đã không yêu thì thôi (Hình thức hát và nhảy). Trình diễn vũ đạo (Hình thức nhảy đối kháng). Vòng thi đấu hát nhóm: Ba nhóm bảy người trình diễn một trong ba bài hát mashup do chương trình đưa ra, bao gồm: "Tìm lại & Chưa bao giờ", "Diễm xưa & Đại minh tinh" và "Walk away & Tìm lại giấc mơ". Nhóm ứng cử viên quán quân có tổng điểm cá nhân của từng thành viên cao nhất được chọn bài hát trước, sau khi hai nhóm ứng cử viên quán quân chọn bài hát thì bài hát mashup cuối cùng sẽ được nhóm Hồi sinh trình diễn. Kết quả được quyết định bởi 357 khán giả nữ tại trường quay. Mỗi khán giả có một lượt bình chọn cho một tiết mục, và khán giả có quyền bình chọn hoặc không bình chọn cho tiết mục. Trong hai nhóm ứng cử viên quán quân, nhóm cao điểm hơn là nhóm an toàn và giữ nguyên đội hình tiến vào chung kết, nhóm còn lại trở thành nhóm nguy hiểm, và họ có nguy cơ bị thay thế tối đa ba thành viên từ nhóm hồi sinh. Điều đặc biệt là trong vòng thi đấu nhóm, nếu nhóm hồi sinh giành chiến thắng chung cuộc, họ sẽ có thêm hai cơ hội hồi sinh; nếu về nhì chung cuộc thì sẽ có một cơ hội hồi sinh. Trải qua hai vòng thi đấu và dựa trên tổng số cơ hội hồi sinh có được, chị đẹp có lượt bình chọn cá nhân cao nhất ở nhóm hồi sinh sẽ tiến vào chung kết để thế chỗ cho thành viên có lượt bình chọn cá nhân thấp nhất thuộc nhóm ứng cử viên quán quân rơi vào thế nguy hiểm. Với hình thức này, do đã giành chiến thắng ở vòng đối kháng cá nhân nhưng lại xếp chót ở vòng đấu nhóm, nên nhóm hồi sinh đã có một chị đẹp được hồi sinh thành công để tiến vào chung kết. Nguyên Hà là người được lựa chọn để hồi sinh, qua đó cô chính thức thay thế cho Huyền Babythành viên của nhóm ứng cử viên quán quân nguy hiểm. ‎Vòng công diễn 6 – Chung kết: Dải ngân hà Trước khi bắt đầu vòng Chung kết, 14 chị đẹp được chia thành hai nhóm ứng cử viên quán quân (nhóm an toàn và nhóm nguy hiểm) dựa theo kết quả của vòng công diễn 5. Với nhóm ứng cử viên quán quân an toàn, các thành viên nhóm được thăng cấp và giữ nguyên đội hình (bao gồm cả nhóm trưởng MLee), còn nhóm ứng cử viên quán quân nguy hiểm là các thành viên nhóm được thăng cấp và thành viên được hồi sinh thành công, với trưởng nhóm là Trang Pháp (do các thành viên trong nhóm bầu chọn). Tại vòng chung kết, hai nhóm trình diễn các bài hát theo hình thức 3–5–7. Theo đó, mỗi nhóm sẽ chia các thành viên thành ba nhóm trình diễn nhỏ (trong đó nhóm trưởng phải tham gia biểu diễn ở cả ba nhóm) với các bài hát như sau: Nhóm 3 người (2 chị đẹp + Nhóm trưởng): Các chị đẹp tự do lựa chọn ca khúc, song cả hai nhóm đều quyết định chọn hai ca khúc mới để trình diễn là "Ai cho tôi lương thiện" và "Đầu đội trời chân đạp đất". Nhóm 5 người (4 chị đẹp + Nhóm trưởng): "Lý ngựa ô & Ngựa ô thương nhớ" và "Lý kéo chài & Mái đình làng biển". Nhóm 7 người (Cả 7 thành viên trong nhóm đều tham gia): "Nam quốc sơn hà & Đất nước lời ru" và "Thư pháp, Tiếng Việt, Máu đỏ da vàng & Tôi yêu". Nhóm an toàn có quyền được lựa chọn bài trước cho nhóm năm người và nhóm bảy người. Vòng chung kết được chia làm hai đêm, được phát sóng trong hai tập 14 và 15: Tập 14 – Chung kết 1: Trình diễn các bài hát của nhóm ba người và nhóm năm người. Các nhóm lần lượt trình diễn theo thứ tự ở trên, kết quả được quyết định bởi 357 khán giả nữ tại trường quay. Mỗi khán giả sẽ có một lượt bình chọn cho một tiết mục, khán giả có quyền bình chọn hoặc không bình chọn cho tiết mục. Sau khi kết thúc vòng thi đấu nhóm ba và nhóm năm, khán giả tại trường quay tiếp tục bình chọn cá nhân cho chị đẹp mà mình yêu thích nhất, và mỗi khán giả sẽ được bình chọn tối đa ba chị đẹp. Dựa trên điểm bình chọn này, hai vị trí của phần thi đấu nhóm ba và nhóm năm sẽ được tiết lộ cụ thể ở đêm Chung kết 2 và Gala trao giải. Tập 15 – Chung kết 2 + Gala trao giải: Gala trao giải cá nhân, trình diễn các bài hát nhóm bảy người, các tiết mục khách mời và công bố kết quả chung cuộc. Đối với phần tiết mục của khách mời, Gonzo, Binz, Soobin Hoàng Sơn và Chi Pu là bốn nghệ sĩ tham gia trình diễn trong tập này. Ngoài ra, tất cả 30 chị đẹp đều trình diễn ca khúc "Nơi bình minh đầy nắng"ca khúc chủ đề và cũng là tiết mục đặc biệt của chương trìnhđể tổng kết và khép lại mùa đầu tiên của chương trình. Sau hai đêm chung kết, bảy chị đẹp có số phiếu cao nhất dựa trên bình chọn của khán giả sẽ trở thành thành viên và tạo nên nhóm nhạc "Đạp gió". Quy tắc thành lập nhóm nhạc như sau: Vị trí đầu tiên dành cho chị đẹp có điểm bình chọn cá nhân trên nền tảng Onlala cao nhất tính đến ngày 3 tháng 1 năm 2024. Chị đẹp này sẽ trở thành quán quân của chương trình, đồng thời cũng là đội trưởng của nhóm nhạc. Hai vị trí tiếp theo dành cho hai chị đẹp có điểm số cá nhân cao nhất theo tổng điểm qua tất cả các vòng công diễn. Với ba vị trí kế tiếp, nhóm chiến thắng vòng thi đấu nhóm ba hoặc nhóm năm mang về một suất ra mắt cho chị đẹp có điểm số cá nhân cao nhất của nhóm trong chung kết 1, nhóm chiến thắng vòng thi đấu nhóm bảy sẽ mang về một suất ra mắt cho chị đẹp có điểm số cá nhân cao nhất của nhóm trong chung kết 2. Với vị trí cuối cùng, nhóm có tổng điểm trong cả hai đêm chung kết cao hơn mang về một suất ra mắt cho chị đẹp có điểm số cá nhân cao nhất của nhóm (Điểm số cá nhân cho vị trí này dựa vào tổng điểm cá nhân của hai đêm chung kết). Điều đặc biệt là chị đẹp có điểm số cá nhân cao nhất của nhóm chiến thắng nếu đã giành được vị trí ra mắt trong nhóm nhạc, thì vị trí này tiếp tục dành cho thành viên có điểm số cá nhân cao tiếp theo. Bên cạnh đó, sáu giải thưởng cá nhân được trao cho những chị đẹp xuất sắc trong chương trình, bao gồm: Y-Sister – Chị đẹp của năm, dành cho Mỹ Linh. Y-Talent – Chị đẹp toàn năng, dành cho Trang Pháp. Y-Pearl – Chị đẹp tỏa sáng, dành cho Ninh Dương Lan Ngọc. Y-Energy – Chị đẹp ấm áp, dành cho Phương Vy. Y-Spirit – Chị đẹp bứt phá, dành cho Hồng Nhung. Y-Leader – Trưởng nhóm của năm, dành cho Trang Pháp. Ngoài ra, hai giải thưởng phụ khác cũng được tổng kết dựa vào kết quả bình chọn trên nền tảng Onlala và trao giải sau khi chung kết 2 được phát sóng, bao gồm: Best Performance, dành cho Huyền Baby. Chị đẹp truyền cảm hứng, dành cho Diệp Lâm Anh. Thứ tự bị loại Đón nhận Với sức nóng từ sự xuất hiện của Chi Pu tại Tỷ tỷ đạp gió rẽ sóng mùa thứ tư, việc một format như vậy về Việt Nam được rất nhiều người quan tâm và chú ý. Đến tháng 10 năm 2023, theo thông tin đăng tải trên fanpage chương trình, kênh TikTok của chương trình cán mốc 100 triệu lượt xem trên mọi nền tảng và 1000 tin bài về chương trình trước khi phát sóng. Sự xuất hiện của đến 30 chị đẹp là các tên tuổi nổi tiếng trong ngành giải trí đã trở thành chủ đề bàn tán trên mạng xã hội. Bên cạnh đó, MV chủ đề của chương trình "Nơi bình minh đầy nắng" cũng sở hữu hơn 20 triệu lượt xem trên các nền tảng mạng xã hội. Tập đầu tiên của chương trình chỉ sau khoảng 2 ngày phát sóng đã lọt vào top 4 thịnh hành trên YouTube với hơn 1,7 triệu lượt xem. Tập 2 sau đó cũng đã ghi nhận hơn 1 triệu lượt xem trong vòng chưa đầy 24 giờ kể từ thời điểm công chiếu và nhanh chóng có mặt trên top thịnh hành. Tập 3 có được điều tương tự sau khoảng 14 giờ công chiếu, giúp cho cả ba tập đầu tiên của chương trình đều có mặt trên top thịnh hành tại cùng một thời điểm. Đây cũng là ba tập gây được ấn tượng với khán giả với những bản phối mới của các chị đẹp trong chương trình, nổi bật trong số đó có thể kể đến Huyền Baby với "2 phút hơn", Mỹ Linh với mashup "Yên" và "Tóc ngắn", hay Nguyên Hà với "Nhắm mắt thấy mùa hè". Đêm công diễn 2 của chương trình sau khi lên sóng nhận được nhiều lời khen của khán giả. Tập 7 của chương trình đạt hơn 1 triệu lượt xem chỉ sau 18 giờ phát sóng. Báo Lao Động cho rằng chương trình đã thu hút khán giả ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Một bài viết khác của báo này đánh giá rằng với sức hút lớn của chương trình trên mọi nền tảng, khán giả có được cái nhìn khác về mô hình hoạt động nhóm nhạc thần tượng. Tranh cãi Vai trò của Quốc Trường và Lâm Bảo Châu Ngay sau khi tập đầu tiên lên sóng, nhiều ý kiến tranh luận đã phát sinh liên quan đến khả năng dẫn chương trình của hai trong số ba người dẫn chương trình chính của chương trình là Quốc Trường và Lâm Bảo Châu. Cả hai tuy xuất hiện với vẻ điển trai, sáng sân khấu nhưng nhiều khán giả nhận xét rằng họ dẫn bị khớp và chưa thoải mái. Nhiều chị đẹp tham gia là người dẫn chương trình hoặc có khả năng hoạt ngôn càng khiến cả hai lộ ra điểm yếu của mình. Lệ Quyên cho rằng Lâm Bảo Châu có chiều sâu nhưng thiếu hoạt ngôn và khẳng định việc anh dẫn chương trình là "một trải nghiệm liều lĩnh". Bên cạnh đó, chuyện đời tư của Lệ Quyên và Lâm Bảo Châu cũng bị cho là chiếm quá nhiều thời lượng của chương trình. Trên mạng xã hội, khán giả nhận xét cả hai dẫn mờ nhạt và chưa đủ chuyên nghiệp, đồng thời khẳng định chỉ cần Anh Tuấn là quá đủ cho một chương trình như Chị đẹp đạp gió rẽ sóng. Một ý kiến của khán giả với báo Tuổi Trẻ cho rằng "khán giả không phải là chuột bạch thí nghiệm". Liên quan đến vấn đề này, bản thân Quốc Trường và Lâm Bảo Châu đều thừa nhận rằng mình chưa có kinh nghiệm dẫn chương trình. Thậm chí, Quốc Trường còn thổ lộ ban đầu anh định không nhận lời dẫn chương trình cho chương trình này và chỉ nhận lời theo góp ý của nhiều khán giả. Trong tập 2, Quốc Trường và Lâm Bảo Châu không xuất hiện; ở tập sau đó, cả hai cùng Anh Tuấn xuất hiện ở phòng chờ của các chị đẹp nhưng phần dẫn của họ ít hơn nhiều so với Anh Tuấn. Từ tập 5 đến tập 6, Quốc Trường đều không có mặt do vướng lịch ra mắt bộ phim Kẻ ẩn danh từ trước, và trở lại từ tập 7 cho đến cuối chương trình. Tuy nhiên, sự xuất hiện của họ tiếp tục bị khán giả cho là mờ nhạt; cụ thể ở đêm chung kết 1, Quốc Trường và Lâm Bảo Châu chỉ giới thiệu các thành viên của hai đội chơi, sau đó rút vào trong sân khấu, để lại phần giao lưu với các chị đẹp sau khi tiết mục diễn ra cho Anh Tuấn. Chất lượng kỹ thuật và sân khấu Sau khi lên sóng, nhiều ý kiến cho rằng chương trình chưa thực sự hấp dẫn và cuốn hút người xem như kỳ vọng. Họ cho rằng kịch bản dài dòng, phần giới thiệu 30 chị đẹp tuy không đủ hấp dẫn lại bị lặp đi lặp lại, khiến cho toàn bộ thời lượng trình diễn solo của 5 chị đẹp trong tập đầu tiên chỉ kéo dài 10 phút so với thời lượng phát sóng hơn hai tiếng đồng hồ. Tiền Phong cho rằng dù chương trình bám sát bản gốc nhưng việc một số chị đẹp bị "khớp", chưa thật sự tự nhiên khi tương tác khiến bầu không khí của chương trình đôi lúc hơi bị trùng xuống. Sân khấu của chương trình bị đánh giá là thiếu đầu tư hơn so với phiên bản gốc, khiến nhiều khán giả cảm thấy hụt hẫng. Các tiết mục bị cho là đơn giản, không có vũ đạo, góc máy không tốt và thiếu ánh sáng khiến khán giả khó theo dõi được theo phần trình diễn của các chị đẹp. Theo Tiền Phong, đó có thể là do ê-kíp sản xuất chương trình gặp khó khăn hơn so với bản gốc trong việc mời đơn vị tài trợ; cũng vì là những tập đầu tiên nên nhiều khán giả bày tỏ sự cảm thông về điều này. Phản hồi với báo Tuổi Trẻ, đại diện nhà sản xuất cho rằng chương trình bị giới hạn về cơ sở vật chất nên gặp khó khăn trong việc sản xuất chương trình. Với những phần trình diễn, chương trình không tổng duyệt trước nhằm tạo thử thách cho các chị đẹp khi phải trình diễn trong khoảng 90–120 giâytrong lúc trình diễn, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng khiến máy quay đôi lúc không thể theo kịp những khoảnh khắc đẹp nhất của các chị đẹp. Báo Thanh Niên cho biết nhiều khán giả nhận xét nội dung chương trình khá dài dòng, lê thê, phân chia thời lượng xuất hiện của các nghệ sĩ chưa đồng đều, nội dung bị dàn trải, ít có chi tiết "đắt giá". Đơn cử như ở tập 1, chương trình dành thời lượng đáng kể cho phần các nghệ sĩ lộ diện và tương tác trong phòng son môi, cùng chụp hình, lưu lại dấu son. Nội dung này được đánh giá không có gì đặc sắc nhưng lại dài dòng. Cùng với đó, khoảnh khắc hội ngộ của các chị đẹp hay giao lưu với ban cố vấn cũng bị khán giả "mổ xẻ" nhiều tình huống thiếu tự nhiên, thiếu kết nối. Tình trạng này vẫn tiếp tục xảy ra trong tập 5đêm công diễn 1 của chương trình, khi hệ thống ánh sáng của sân khấu không đủ sáng khiến các phần trình diễn trở nên kém chất lượng. Chia sẻ về câu chuyện này, đại diện nhà sản xuất chia sẻ vì điều kiện sản xuất tại Việt Nam có giới hạn nên yếu tố ánh sáng, góc quay sẽ được cải thiện vào những đêm công diễn tiếp theo. Điểm số của các chị đẹp Tập 2 lên sóng gây tranh cãi xoay quanh điểm số của ban cố vấn dành cho phần trình diễn của 14 chị đẹp. Trong khi Thu Phương, Hồng Nhung, Lệ Quyên chỉ thể hiện phần trình diễn bằng giọng hát thu hút khán giả dù thiếu hẳn phần vũ đạo nhưng vẫn nhận số điểm cao (88 điểm) từ ban cố vấn, thì các chị đẹp khác tuy có phần vũ đạo đặc sắc hay thể hiện nhiều kỹ năng cá nhân nhưng bị điểm thấp hơn. Điển hình, tiết mục của MLee với phần trình diễn vừa hát, vừa nhảy lại vừa rap nhưng chỉ được 80 điểm; phần trình diễn của Hương Ly kết hợp hát, múa, chơi trống và đàn tỳ bà được 83 điểm; còn Đoan Trang chỉ múa trên nền nhạc cũng được 83 điểm. Nhiều khán giả đặt nghi vấn ban cố vấn quá ưu ái cho các nghệ sĩ có tên tuổi khi tiêu chí của chương trình là chọn những chị đẹp có giọng hát hay kết hợp với vũ đạo giỏi và cho rằng những chị đẹp còn lại lẽ ra phải được điểm cao hơn. Tập 3 phát sóng một tuần sau đó tiếp tục gây tranh cãi về điểm số; trong đó tiết mục "Nhắm mắt thấy mùa hè" của Nguyên Hà được nhiều khán giả yêu mến nhưng chỉ được 77 điểm từ giám khảo. Nhiều ý kiến cho rằng chị đẹp này không thể đứng ở vị trí áp chót bảng xếp hạng vòng trình diễn solo dù đây là phần trình diễn an toàn và không có sự đột phá. Những ý kiến khác cho rằng có thể có một số yếu tố khác khiến giám khảo không đánh giá cao tiết mục này. Một số phần thể hiện của các thí sinh khác cũng có điểm số gây tranh cãi trong tập này như "Đừng ngoảnh lại" (Lưu Hương Giang, 83 điểm) và "Lười yêu" (Bảo Anh, 85 điểm). Mặc dù ban cố vấn đã công bố rất rõ tiêu chí chấm điểm các chị đẹp ngay từ tập đầu tiên, nhưng nhiều khán giả vẫn tỏ ra khó hiểu với cách chấm điểm như vậy cho nhiều phần thể hiện của các chị đẹp. Chính vì vậy mà họ đã đặt nhiều nghi vấn vào sự công tâm của ban giám khảo và ê-kíp chương trình. Phản hồi những tranh cãi xoay quanh điểm số của ban cố vấn, Trần Thành Trungđại diện ban cố vấn của chương trìnhchia sẻ với báo Phụ nữ mới rằng các chị đẹp tham gia vòng thi diễn solo đều phải hát live và không được tập dượt trước nhằm tạo thử thách cho họ về "khả năng ứng biến sân khấu của từng người". Thêm vào đó, các tiết mục phát sóng đều đã được hậu kỳ sẵn về hình ảnh lẫn âm thanh, vì vậy trải nghiệm của ban cố vấn tại trường quay sẽ khác trải nghiệm của khán giả. Một bài viết trên báo Tiền Phong khẳng định khán giả không cần tranh cãi quá nhiều về điều này vì giống như phiên bản gốc, quyết định cuối cùng ở các đêm công diễn thuộc về các khán giả có mặt tại trường quay. Tranh cãi "chuyển tiền để mua bình chọn" Một bài viết của Quỳnh Ngamột thí sinh tham gia mùa đầu tiêntrên trang cá nhân của mình chia sẻ số tài khoản cá nhân để kêu gọi khán giả chuyển tiền mua sim cho fan của cô bình chọn khiến cô ngay lập tức bị khán giả chỉ trích. Bởi lẽ, theo ý kiến của nhiều người, việc chuyển tiền như thế này khá phản cảm và số tiền đó có thể không thật sự được sử dụng vào đúng việc bình chọn trong chương trình. Cô sau đó đã phải ẩn bài đăng và lên tiếng giải thích về điều này. Tương tự, một chị đẹp khác tham gia chương trình là Hương Ly cũng gây tranh cãi khi đăng tải bài viết kèm số tài khoản trên trang cá nhân của mình nhằm kêu gọi khán giả chuyển tiền nhằm bình chọn cho cô (bài đăng này cũng đã bị ẩn đi). Phụ nữ mới nhận định nếu các chị đẹp có thể kêu gọi bình chọn để tăng lượt vote thì những chị đẹp có tài chính tốt hoặc lượng fan đông đảo có thể dễ dàng trở lại sau khi bị loại, ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng. Theo giải thích của Quỳnh Nga và Hương Ly về vấn đề kêu gọi bình chọn, cả hai đều nhìn nhận công đoạn bình chọn "hơi loằng ngoằng, mua sim mới rồi kích hoạt". Bài viết trên báo Lao Động đồng tình với ý kiến này, bởi cách thức bình chọn chương trình được cho là quá vô lý, khó hiểu và hiếm được áp dụng trước đây, kể cả ở phiên bản gốc. Cụ thể, để bình chọn, đầu tiên khán giả phải mua sim và gói data trên ứng dụng hoặc website chính thức, sau đó tới cửa hàng để kích hoạt, cuối cùng vào ứng dụng để bình chọn với 25 lượt, nếu mua thêm gói data thì sẽ có thêm lượt bình chọn (số lượt bình chọn không giới hạn). Nhiều khán giả cho rằng cách thức bình chọn này quá phức tạp, vừa mất thời gian lại vừa tốn kém và có thể không đủ công bằng vì một số chị đẹp có thể bỏ nhiều tiền mua sim để có lượng bình chọn cao hơn. Trước phản ứng từ dư luận, Quỳnh Nga sửa lại thông báo kêu gọi bình chọn trên trang cá nhân, đồng thời lên tiếng giải thích và gửi lời xin lỗi đến khán giả. Cô cho biết không còn kêu gọi chuyển khoản hay chia sẻ tài khoản cá nhân nhằm tránh việc khán giả hiểu sai về mục đích của cô; thay vào đó cô giới thiệu người đại diện để liên hệ đăng ký mua sim. Tiền Phong cho biết thêm, chị đẹp Khổng Tú Quỳnh cũng kêu gọi bình chọn của trên trang cá nhân của mình nhưng cô chỉ hướng dẫn khán giả mua sim chứ không tiết lộ tài khoản của mình. Tranh cãi về kết quả đêm công diễn Sau đêm công diễn 1, ngoại trừ Bảo Anh phải nói lời chia tay sớm vì không đảm bảo tiêu chí của chương trình, năm chị đẹp Yến Trang, Nguyên Hà, Hoàng Oanh, Vân Hugo và Tú Vi là những người phải chia tay chương trình. Kết quả này khiến nhiều khán giả bất ngờ và tiếc nuối, bởi Yến Trang vừa có ngoại hình đẹp, lại có vũ đạo và phần trình diễn nổi bật, nhiệt huyết, còn Nguyên Hà được khán giả đánh giá cao vì sự cố gắng và hòa nhập nhanh của cô. Việc Ninh Dương Lan Ngọc, Diệu Nhi, H'Hen Niê, MLee, Hà Kino và Đoan Trang nhận được bình chọn cao nhất của khán giả và trở thành các nhóm trưởng tại đêm công diễn 2 khiến nhiều khán giả đặt nghi vấn về tiêu chí thực sự của chương trình. Sau đêm công diễn 2, đội Phi hành gia cô đơn của trưởng nhóm MLee với 311/357 phiếu bình chọn, nhưng đây lại là tiết mục gây nhiều tranh cãi. Theo cư dân mạng, sân khấu gây choáng ngợp bởi sự đầu tư công phu với bối cảnh vũ trụ bao la, màn "trao người trên không" ở phần kết cũng như việc hai chị đẹp Thu Phương và Lệ Quyên đã có sự mạo hiểm khi hát rap, nhưng tổng thể màn trình diễn tiết mục "Phi hành gia cô đơn" lại không quá bùng nổ khi so với đội của Lan Ngọc hay H'Hen Niê. Dù được kết hợp vũ đạo, đu dây nhưng tiết mục của MLee vẫn được cho là chưa xuất sắc nếu so với các đội còn lại. Hơn nữa, phần rap của ba chị đẹp được nhận định không ăn nhập, làm trùng xuống không khí của tiết mục. Dù trưởng nhóm MLee tâm sự "có thể ở vòng công diễn này, ca khúc của hai [đội hát] vô tình chạm được vào trái tim khán giả", nhưng trên các trang mạng xã hội, nhiều ý kiến cho rằng chương trình đang quá "ưu ái" các chị đại và loại đi các gương mặt xứng đáng được đi tiếp. Ngoài ra, việc đội có Lệ Quyên nhận điểm cao, giành chiến thắng trong hai vòng công diễn gần đây của Chị đẹp đạp gió rẽ sóng khiến nhiều người cho rằng nữ ca sĩ được ưu ái khi tham gia chương trình. Lệ Quyên sau đó bác thông tin được ban tổ chức ưu ái. Cô khẳng định chơi công bằng, văn minh với các nữ nghệ sĩ khác. Trong khi đó, đội Chị ngả em nâng của nhóm Ninh Dương Lan Ngọc là phần thể hiện gây tranh cãi nhiều nhất, bởi cả năm chị đẹp đã mang đến phần trình diễn quá sức bùng nổ như một nhóm nhạc nữ thực thụ với đội hình đáng mơ ước, nhưng cuối cùng lại rơi vào vòng nguy hiểm khi chỉ nhận về 297/357 phiếu bình chọn. Việc Quỳnh Nga và Phạm Lịch bị loại gây tiếc nuối, bởi hai người được nhận xét hát hay và nhảy tốt, nên việc họ phải ra về gây bức xúc dư luận. Cũng có ý kiến cho rằng những chị đẹp hát và nhảy hạn chế như Diệu Nhi và H'Hen Niê nên ra về hơn thay vì hai người kể trên. Theo luật của chương trình, 357 khán giả nữ tại trường quay bình chọn cho các tiết mục đêm công diễn gồm 50% khán giả dưới 30 tuổi và 50% khán giả trên 30 tuổi, được tuyển chọn theo nhiều tiêu chí khác nhau, và kết quả bình chọn của họ đều được kiểm định bởi Tilly Baker A&C – một đơn vị kiểm toán độc lập. Tuy nhiên, VOH nhận định rằng kết quả của đêm công diễn đầu tiên đặt ra thách thức cho sự công bằng và chính xác trong việc đánh giá và xếp hạng các chị đẹp. Tiền Phong cho rằng khán giả trong các chương trình truyền hình chỉ là những người được mời đến và không được kiểm tra về chuyên môn hay độ hiểu biết cụ thể nên việc để họ bình chọn mà không cho thấy rõ được những gì ở phía sau rất dễ gây nên tranh cãivà bài viết khẳng định đó cũng là tình trạng mà hai mùa đầu tiên của phiên bản gốc gặp phải. Một đánh giá của báo Lao Động về kết quả đêm công diễn 2 cho biết rằng dù theo luật chơi, các nhóm cùng số lượng thành viên thi đấu với nhau, nhưng cả hai nhóm 3 người lại đều là hai nhóm an toàn, nên nếu các nhóm 3 có lợi thế hơn các nhóm 5 thì việc chia nhóm gần như là vô nghĩa. Chưa dừng lại ở đó, bài đánh giá còn cho biết rằng 357 khán giả có xu hướng bình chọn thiên về mặt ca hát khiến các đội mạnh về vũ đạo gặp bất lợi, đặc biệt là đội của Lan Ngọc. Nhiều người cho rằng 357 người tại trường quay không thể đại diện cho toàn bộ khán giả theo dõi chương trình. Báo Zing bình luận phần bình chọn này từ vòng 1 được cho là cảm tính, không phản ánh chính xác khả năng của các chị đẹp. Việc nhóm Lệ Quyên giành chiến thắng ở vòng công diễn 3 cũng gây ra nhiều tranh cãi với đủ ý kiến trái chiều. Những kết quả trên dựa trên lượng bình chọn của 357 khán giả nữ tại trường quay, điều này đã dấy lên nhiều ý kiến rằng lượng bình chọn từ nhóm nhỏ này không thực sự phản ánh được sự yêu thích, công nhận của khán giả đối với hành trình "đạp gió rẽ sóng" của các chị đẹp. Tuy vậy, một bài viết trên báo Tiền Phong chỉ ra rằng, cách bình chọn của khán giả trong chương trình không hẳn là do may rủi, mà có những nguyên tắc của nó – bởi những người đang lên, hoạt động tích cực trong thị trường âm nhạc hoặc có chỗ đứng vững chắc trong khán giả sẽ xứng đáng ở lại, còn những người rời sân khấu quá lâu sẽ không còn đủ ấn tượng để khán giả trong trường quay nhớ đến, dù họ cố gắng hết mình trong chương trình. Đêm công diễn 4 kết thúc với kết quả đội Lan Ngọc giành chiến thắng, trong khi hai đội Hồng Nhung và Lệ Quyên thua và phải chia tay với ba chị đẹp Lưu Hương Giang, Khổng Tú Quỳnh và Đoan Trang. Kết quả này tiếp tục khiến khán giả tranh cãi. Trong đó, gây tranh cãi nhiều nhất là phần trình diễn của đội Hồng Nhung, vì dù có nhiều người giọng hát hay (thậm chí còn có cả người là diva trong đội) và hòa giọng không khó, nhưng kết quả bình chọn của đội chỉ là 188 phiếu – con số được cho là quá thấp so với tổng điếm của 357 khán giả, thậm chí thấp hơn tới 100 điểm so với hai đội còn lại – điều này khiến khán giả khó có thể chấp nhận, dù phần vũ đạo có thể không tốt. Trên mạng xã hội, nhiều người cho rằng điểm số này không phản ánh đúng chất lượng của tiết mục này. Một trang cộng đồng chia sẻ kiến thức về thanh nhạc cũng đánh giá rằng một tiết mục hay như của đội Hồng Nhung mà chỉ được 188 phiếu bình chọn thì việc khán giả bức xúc với những người bình chọn tại trường quay là điều dễ hiểu. Kết quả sau 5 phần trình diễn cá nhân đầu tiên của đêm công diễn 5 khiến khán giả tranh luận, vì dù nhóm hồi sinh thắng 3 trên 5 lượt đấu nhưng so với tổng số lượt bình chọn thì lại ít hơn so với nhóm Ứng cử viên quán quân (802 so với 834). Ngoài ra, khán giả cũng thắc mắc việc chương trình tính điểm của các phần trình diễn trong lượt đấu, vì tổng điểm của hai phần trình diễn trong cả bốn lượt đầu đều là 327 điểm (trong khi số khán giả tại trường quay là 357). Nghệ sĩ bị tổn thương khi tham gia chương trình Trong một buổi biểu diễn của mình, Lệ Quyên – một nghệ sĩ tham gia chương trình Chị đẹp đạp gió rẽ sóng – có những chia sẻ về trải nghiệm của mình trong chương trình. Cô bày tỏ sự thất vọng của mình vì chương trình không như mong muốn và kỳ vọng của cô ban đầu. Cô từng cho rằng chương trình "mang đến một chiếc kẹo rất đẹp, ngon", nhưng khi mở chiếc kẹo ra thì "chỉ toàn là giấy thôi. Không đẹp đẽ, không chứa chan như [cô] mơ ước". Đoạn chia sẻ này khiến cộng đồng mạng cảm thấy bất ngờ, vì trước đó cô và Lâm Bảo Châu bị cho là được nhà sản xuất chương trình ưu ái khi biểu diễn chung trong đêm công diễn 3. Khi được hỏi thêm về điều này, đại diện của cô từ chối nói thêm. Trước đó, cô cũng đăng tải tâm thư ẩn ý rằng một thành viên đã phá hỏng công sức của cả ê-kíp sản xuất chương trình. Tương tự như Lệ Quyên, Phương Vy sau đó cũng chia sẻ trên trang cá nhân với những lời ẩn ý tương tự sau khi tham gia chương trình; trong khi Mỹ Linh đăng bài tổng kết hành trình của mình với những lời xoa dịu. Một bài viết trên báo Tuổi Trẻ cho rằng vì họ quá bức xúc về chương trình nên mới chia sẻ những nhận xét, góp ý một cách thẳng thắn như thế. Bài viết cho rằng khi nghệ sĩ bị chạm đến lòng tự ái của mình thì điều đầu tiên đương nhiên là họ phản ứng lại. Chương trình được làm lại từ phiên bản gốc vốn đầy những thị phi, nhưng bài viết chỉ ra rằng do nhà sản xuất chưa ứng biến linh loạt và phù hợp với tình hình thực tế của nghệ sĩ Việt nên dẫn đến những tranh cãi không mong muốn. Một chị đẹp tham gia chương trình tiết lộ với Tuổi Trẻ rằng bất kỳ người chơi nào bất ngờ bị loại cũng đều khiến họ hụt hẫng. Chính vì thế, nếu ai đó dừng lại sớm thì lại là một điều may mắn, vì còn nhiều người khác không thể dừng lại được do ràng buộc trong bản hợp đồng được ký trước đó. Bài viết khẳng định nghệ sĩ dễ bị tổn thương khi những cống hiến của họ trong chương trình không được công nhận, điều này thậm chí còn khiến một số người cho biết họ sẽ không tham gia chương trình truyền hình thực tế nữa, khẳng định rằng tham gia "lần đầu cũng sẽ là lần cuối". Mặc dù vậy, Tiền Phong lại cho rằng có thể "cái kẹo" mà Lệ Quyên nhận được từ ê-kíp không như cô mong muốn nhưng với một số nghệ sĩ, nó vẫn là điều hoàn toàn khiến họ hài lòng. Tác giả bài viết chỉ ra rằng, bên cạnh những sự tranh luận không hồi kết về chương trình, tên tuổi của nhiều nghệ sĩ tham gia luôn được khán giả chú ý và được phủ sóng trên mọi nền tảng. Bài viết còn so sánh chương trình này với những chương trình truyền hình thực tế nổi tiếng của Hàn Quốc, chẳng hạn như Street Women Fighter, và khẳng định dù có ồn ào bủa vây thì các chị đẹp tham gia chương trình vẫn được hưởng lợi. Chia sẻ về điều này, nhà sản xuất thừa nhận họ có lỗi vì đã không cảnh báo trước với các chị đẹp rằng chương trình sẽ "khốc liệt" đến mức như thế khi nhập cuộc chính thức. Đại diện nhà sản xuất cho biết thêm, họ phải nỗ lực hết mình vì đồng đội, nỗ lực thể hiện để có thể cống hiến cho khán giả, điều đó khiến nghệ sĩ bị kiệt sức, đó là cảm nhận chung của tất cả các nghệ sĩ khi tham gia chương trình. Giám đốc sáng tạo bị tố nhận vơ ý tưởng Chiều ngày 11 tháng 1, trên mạng xã hội lan truyền thông tin Denis Đặng đăng bản phác thảo các mẫu thiết kế cho nhóm nghệ sĩ Thu Phương, Huyền Baby, Trang Pháp, Diệu Nhi và Lan Ngọc ở vòng công diễn 4 với tiết mục mashup "Hoa nở không màu" và "Bông hoa đẹp nhất" cũng như màn kết hợp với Mono trong ca khúc "Em xinh" như là ý tưởng của chính anh. Thông tin này nhanh chóng gây ra những tranh cãi trái chiều. Nhiều nhà thiết kế thời trang lên tiếng trên trang cá nhân như Hoàng Ku, Kelbin Lei, Phạm Bảo Luận, Long Ichi để chứng minh quá trình thực hiện thiết kế cho các chị đẹp. Tuy nhiên, theo Hoàng Ku, năm bộ đồ cho năm chị đẹp Thu Phương, Huyền Baby, Trang Pháp, Diệu Nhi và Lan Ngọc ở tiết mục "Em xinh" do năm nhà thiết kế khác nhau thực hiện, theo đó mỗi người làm việc với một chị đẹp, sau đó họ đã họp bàn rồi lên ý tưởng và làm riêng biệt từng bộ đồ cho mỗi chị đẹp. Denis sau đó đã xóa đoạn clip này và gửi lời xin lỗi, tuy vậy, các nhà thiết kế vẫn cảm thấy bức xúc. Hoàng Ku cho rằng anh "vẫn chưa biết mình sai ở đâu", còn Kelbin Lei khẳng định Denis đang đánh tráo khái niệm khi khiến mọi người hiểu rằng toàn bộ công việc và ý tưởng từ đầu đến cuối đều là của anh. Sự cố hát sai lời bài hát "Diễm xưa" Trong tập 13, tiết mục "Diễm xưa" & "Đại minh tinh" trong công diễn 5 nhận được sự quan tâm của công chúng. Tuy nhiên, nhiều khán giả đã phát hiện ra Mỹ Linh, Thu Phương và Uyên Linh đã hát sai lời của ca khúc "Diễm xưa", một bài hát nổi tiếng đã gắn liền với tên tuổi của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Cụ thể, lời gốc bài "Diễm xưa" là "Chiều nay còn mưa sao em không lại? Nhỡ mai trong cơn đau vùi", song cả ba người lại hát nhầm thành "Nhớ mãi trong cơn đau vùi". Sau sự cố trên, bản thân Mỹ Linh thừa nhận sự thiếu sót của mình và rút kinh nghiệm trong việc kiểm tra lại lời gốc một cách uy tín. Ngày 24 tháng 1 năm 2023, ông Nguyễn Trung Trựcchồng của bà Trịnh Vĩnh Trinh (em gái của Trịnh Công Sơn) cho biết Mỹ Linh vừa gọi điện gửi lời xin lỗi gia đình ông vì sự cố, riêng ban tổ chức của chương trình cũng đang làm việc với gia đình của Trịnh Công Sơn. Một ngày sau, đại diện nhà sản xuất lên tiếng xin lỗi gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vì sự việc, theo đó bà Vũ Thị Tuyết Vânđại diện nhà sản xuấtcho biết đơn vị đã sử dụng ca khúc "Diễm xưa" qua Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (VCPMC) trong tập 13. Ê-kíp đã tham khảo lời bài hát trên Google rồi đưa vào sử dụng để cho các nghệ sĩ tập và biểu diễn. Cũng theo bà Vân, sau khi tham khảo ý kiến từ gia đình của cố nhạc sĩ, nhà sản xuất nhận được phản hồi rằng lời ca khúc "Diễm xưa" được lưu hành với hai phiên bản. Bà Trinh cho biết gia đình ghi nhận sự cầu thị của ban tổ chức. Nghi vấn nhóm nhạc "Đạp gió" tan rã ngay sau khi ra mắt Sau chương trình, Lệ Quyên có bài tâm thư dài gây chú ý khi tiết lộ rằng các chị đẹp sẽ không còn đứng chung sân khấu sau chung kết, đồng thời cô cũng bày tỏ mong muốn nhường vị trí của mình trong thành đoàn cho một nghệ sĩ trẻ hơn. Những chia sẻ của cô khiến nhiều khán giả đặt nghi vấn rằng nhóm nhạc "Đạp gió" sẽ không biểu diễn cùng nhau và tan rã ngay khi vừa ra mắt. Trường hợp này có phần tương tự như bản gốc ở Trung Quốc, khi các nghệ sĩ trở thành thành viên của nhóm nhạc trong chương trình hầu hết đều hoạt động độc lập và không duy trì hoạt động trong nhóm nhạc. Trả lời cho vấn đề trên vào ngày 4 tháng 2 năm 2024, đại diện nhà sản xuất cho biết do các chị đẹp cần phải có một khoảng thời gian nghỉ ngơi và giải quyết việc riêng sau nửa năm đồng hành cùng chương trình, nên nhóm "Đạp gió" chưa có kế hoạch hoạt động cụ thể. Khác Khi mới lên sóng, chương trình cũng gây tranh luận vì khai thác chuyện tình cảm của Lâm Bảo Châu và Lệ Quyên. Khán giả cho rằng chương trình có tới 30 chị đẹp tài năng với thông điệp là sự bứt phá bất chấp định kiến tuổi tác. Do đó, việc khai thác chuyện đời tư để gây chú ý là không cần thiết. Tập 2 của chương trình xuất hiện nhiều cảnh quay có rác. VieZ nhận định dù khu vực phòng chờ có thức ăn và đồ uống để giúp các chị đẹp quay hình trong nhiều giờ nhưng ê-kíp lại thiếu chuyên nghiệp khi không chú ý góc quay, khiến hình ảnh của họ bị ảnh hưởng. Trong tập 3 của chương trình, Hồng Nhung gây tranh cãi khi có hành động ngồi gác hai chân thiếu tinh tế lên bảng tên của chương trình trong vòng chọn đội. Nhiều khán giả mong muốn cô nên kiểm soát hành động và cảm xúc của mình trên sóng truyền hình, trong khi một số khán giả cho rằng cô chỉ bày trò chứ không cố tình tỏ vẻ "trịch trượng". Tối ngày 24 tháng 11, Hồng Nhung lên tiếng thừa nhận sự bất cẩn của mình khi gác chân lên bảng tên và giải thích do cô bị chấn thương nhẹ, rách cơ sau vai trái trong lúc chuẩn bị ghi hình đêm công diễn đầu tiên. Cô cho biết, nếu được ghi hình lại thì cô sẽ chú ý điều này để tránh tiếp tục gây tranh cãi. Ngoài ra, trong những tập đầu của chương trình, cô còn có một số hành động và câu hỏi gây khó hiểu. Nhiều người cho rằng cô đã quá thoải mái và không tôn trọng khán giả khi tham gia chương trình. Ở tập 4, mặc dù trailer đã hé lộ nội dung xung quanh sinh hoạt của các chị đẹp cùng với nội dung đêm công diễn đầu tiên, nhưng trong suốt hơn hai giờ phát sóng, khán giả chỉ xem được những tâm sự của các chị đẹp tại nhà chung, trong khi phần công diễn không hề xuất hiện trong tập này. Việc nội dung tập 4 khác hẳn so với trailer khiến nhiều khán giả bức xúc. Nhà sản xuất giải thích rằng vì là chương trình truyền cảm hứng bám sát theo phiên bản gốc, nên mỗi đêm công diễn được chia làm hai tập phát sóng chính thức, bao gồm tập đầu nói về nội dung tại ngôi nhà chung, những chia sẻ của các chị đẹp và thử thách tập luyện, tập sau mới có nội dung về đêm công diễn nhóm chính thức. Liên quan đến trailer vòng công diễn 1 không xuất hiện trong tập 4, nhà sản xuất cho biết đây là trailer của cả vòng công diễn chứ không phải chỉ là tập 4, đồng thời gửi lời xin lỗi vì khiến khán giả nhầm lẫn về điều này. Họ cũng cho biết thêm, các đêm công diễn ở phiên bản gốc cũng có hai tập nhưng được phát sóng trong hai ngày liên tiếp nên khán giả không cảm thấy phải chờ quá lâu. Cũng trong tập 4, việc nhóm Trang Pháp bị đổi bài hát giữa chừng cũng khiến khán giả tranh cãi vì nó sẽ gây ảnh hưởng đến phần thi của các chị đẹp. Việc đổi bài hát như thế cũng là điều chưa từng xảy ra ở phiên bản gốc, vì thế mà khán giả nghi ngờ nhà sản xuất đang gặp vấn đề về bản quyền bài hát nên thực hiện việc đổi bài để che giấu cho việc này, tạo cuộc chơi không lành mạnh giữa các nhóm. Trong tập 6, phần hóa trang thành người thân và chia sẻ những câu chuyện chưa được kể của các chị đẹp dù mang lại nhiều cảm xúc, song vẫn bị một bộ phận khán giả đánh giá là lê thê, dài dòng và không cần thiết. Ngoài ra, phần quảng cáo ở bản phát sóng trên YouTube được lồng vào khá nhiều và lộ liễu gây khó chịu cho người xem. Sau khi hé lộ trailer với một số cảnh luyện tập cho công diễn 2, chương trình lại tiếp tục gây tranh luận bởi Quang Đăng trở thành người hướng dẫn vũ đạo cho đội của Thái Trinh. Nữ ca sĩ cùng đội Diệu Nhi, Huyền Baby, Lynk Lee, Hương Ly và biểu diễn ca khúc "Lớn rồi còn khóc nhè". Trong đoạn trailer, ê-kíp sản xuất đã quay cận biểu cảm của Thái Trinh khi Quang Đăng xuất hiện. Một bộ phận khán giả cho rằng Thái Trinh biết Quang Đăng biên đạo tiết mục "Lớn rồi còn khóc nhè" nhưng vẫn chọn vào đội Diệu Nhi bởi cô đã hoàn toàn vượt qua chuyện cũ. Dẫu vậy, nhiều ý kiến nhận xét việc ê-kíp tập trung vào biểu cảm của nữ ca sĩ khi gặp tình cũ vẫn là thiếu tế nhị. Trước đó, ở họp báo, Thái Trinh cũng chia sẻ về việc chạm mặt tình cũ tại chương trình. Thái Trinh bày tỏ cô và Quang Đăng cùng làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật. Việc cả hai gặp nhau ở các sự kiện hay chương trình là không tránh khỏi. Do đó, cô không quá bận tâm vấn đề này. Lệ Quyên tiếp tục hứng chỉ trích sau khi vòng công diễn 3 lên sóng. Nhiều người xem bày tỏ sự khó chịu khi cô đưa bạn trai Lâm Bảo Châu vào phần nhảy của mình trong tiết mục biểu diễn cùng MLee, Hồng Nhung, Trang Pháp và Huyền Baby. Lâm Bảo Châu đảm nhận vai trò dẫn dắt chương trình, không phải nghệ sĩ tranh tài hay vũ công nên việc anh tham gia trình diễn trong tiết mục của người yêu bị nhận xét là làm lố. Không ít khán giả cũng xem đây là một trong những minh chứng cho thấy chương trình đang ưu ái cho "nữ hoàng phòng trà". Trong khi đó, Tú Vi – người bị loại trong đêm công diễn 1 – đã chia sẻ rằng cô cảm thấy hụt hẫng vì nhận nhiều chỉ trích về thái độ khi có những tranh cãi trong lúc tập luyện với Thanh Ngọc trước đêm công diễn. Cô cảm thấy bất ngờ khi thấy một tình huống bình thường bỗng dưng bị biến thành "nhạy cảm" khi lên sóng, dù đó chỉ là những sự tương tác đời thường giữa họ với nhau. Sau bốn vòng công diễn, việc Diệu Nhi và H'Hen Niê vẫn an toàn khiến khán giả tranh luận, đặc biệt là khi họ nghi ngờ vào tài năng thực sự của cả hai khi tham gia chương trình. Trong khi H'Hen Niê chỉ đáp ứng tiêu chí về ngoại hình của chương trình và cả bốn đêm công diễn đều lọt vào nhóm nguy hiểm, thì Diệu Nhi từng gây tranh cãi vì độ hiếu thắng và có thái độ thiếu tinh tế với Quỳnh Nga. Trước những bình luận tiêu cực này, Lynk Lee đã đăng bài trên trang cá nhân của mình, trong đó nêu cảm nhận của mình về H'Hen Niê và động viên cô không nên buồn bã. Việc MLee tự bầu cho mình hai phiếu để được làm đội trưởng đêm công diễn 5 khiến khán giả tranh luận trái chiều. Đáp lại, cô chia sẻ lại bài đăng của H'Hen Niê nhận xét về mình, và khi được một khán giả hỏi thẳng lý do, cô nhắn vị khán giả này hãy thử kiên nhẫn xem những đêm công diễn sau của mình để biết được lý do vì sao. Trước đó, khán giả tranh cãi việc MLee được ban tổ chức ưu ái vì dù không được đánh giá cao trước cuộc thi nhưng cô lại luôn luôn thuộc nhóm ít thí sinh giành chiến thắng trong cả ba đêm công diễn đầu tiên và phần trình diễn cá nhân ở đêm công diễn 5, và luôn cùng đội với Lệ Quyên trong suốt năm đêm công diễn. Sau khi danh sách bảy nghệ sĩ được cứu để tham gia đêm công diễn 5 được công bố trong tập 13, Hà Kino là người bị khán giả phản ứng nhiều nhất. Dù là người thay thế Yến Trangngười không thể tham gia tiếp chương trình vì lý do sức khỏe, nhưng cô vẫn bị cho là chưa xứng đáng để được hồi sinh vì chưa thể hiện rõ được tài năng ca hát hay khả năng vũ đạo của mình khi tham gia chương trình. Cũng trong tập 13, hình ảnh đồ uống có nồng độ cồn đã bất ngờ xuất hiện, song không hề dán nhãn "chỉ dành cho người trên 18 tuổi". Sự việc trên khiến nhiều người bức xúc cho rằng nhà sản xuất chương trình không tôn trọng quy định về luật quảng cáo. Chiều ngày 21 tháng 1, chương trình đã phát đi thông báo về sự việc. Nhà sản xuất thừa nhận sai sót trong nội dung quảng cáo của chương trình, họ cho biết ê-kíp đã xử lý sai sót nói trên và cuối cùng đã hoàn thành việc chỉnh sửa nội dung. Trong đêm chung kết 1, có 14 chị đẹp thuộc hai đội ứng cử viên quán quân do Trang Pháp và MLee làm đội trưởng tranh tài để giành cơ hội ra mắt nhóm Đạp gió sau chương trình. Trước khi chị đẹp bước vào hai phần trình diễn, ban tổ chức công bố luật tìm ra 7 chị đẹp chiến thắng. Nhưng thay vì để những người dẫn chương trình công bố, chương trình phải chạy chữ kèm phụ đề do luật quá dài. Cũng trong đêm chung kết 1 này, tiết mục nhóm 5 người của MLee thể hiện "Lý ngựa ô" và "Ngựa ô thương nhớ" bị nhiều khán giả cho là "mượn ý tưởng" của một tiết mục do Hoàng Thùy Linh thể hiện trong đêm nhạc Vietnamese Concert của cô vào tháng 9 năm 2023, bằng chứng là bài chia sẻ của nhà thiết kế thời trang Hoàng Ku về Hoàng Thùy Linh tại đêm nhạc càng khiến nhiều khán giả có cơ sở về việc "mượn ý tưởng" này. Một số khán giả khác phát hiện rằng điểm giống nhau duy nhất giữa 2 tiết mục của MLee và Hoàng Thùy Linh là về trang phục biểu diễn của vũ công; tuy nhiên, theo Lao Động, trang phục đó là sản phẩm được sử dụng độc quyền trong concert của Hoàng Thùy Linh, nên việc sử dụng trang phục này cho tiết mục của nhóm MLee đã gây nên nhiều tranh luận. Theo báo Phụ nữ số, Diệu Nhi – một thành viên của nhóm MLee trong tiết mục này – trước đó đã có bài đăng cảm ơn Hoàng Thùy Linh và ê-kíp trong việc hỗ trợ trang phục, phụ kiện và sân khấu cho tiết mục của cả nhóm. Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Chương trình truyền hình Việt Nam Truyền hình thực tế Chương trình truyền hình thực tế tại Việt Nam Chương trình truyền hình trên VTV Chương trình truyền hình tiếng Việt Khởi đầu năm 2023 ở Việt Nam Truyền hình Việt Nam năm 2023
19851276
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%91ng%20%C4%91%E1%BB%91c%20%28Hoa%20K%E1%BB%B3%29
Thống đốc (Hoa Kỳ)
Ở Hoa Kỳ, thống đốc (tiếng Anh: governor) là người đứng đầu ngành hành pháp và là tổng tư lệnh của mỗi 50 tiểu bang và 5 vùng lãnh thổ có người sinh sống, ở đó thống đốc giữ chức như nguyên thủ và người đứng đầu chính phủ. Vì vậy, thống đốc là người chịu trách nhiệm cho việc thi hành luật của tiểu bang và quản lý ngành hành pháp của bang. Với vai trò là lãnh đạo của các tiểu bang, các thống đốc đề xuất và thực hiện các chính sách và chương trình mới và được sửa đổi bằng nhiều công cụ pháp lý khác nhau, trong đó gồm các sắc lệnh, ngân sách hành pháp, dự luật và quyền phủ quyết các dự luật. Các thống đốc thực hiện nhiệm vụ của mình với sự trợ giúp từ lãnh đạo của các cơ quan nhà nước của bang, trong số đó có nhiều chức vụ do thống đốc bổ nhiệm. Đa số thống đốc cũng có quyền bổ nhiệm các thẩm phán cấp bang, thường là từ một danh sách ứng cử viên do một ủy ban đề cứ. Trừ năm bang (Arizona, Maine, New Hampshire, Oregon và Wyoming), tất cả các bang đều có một phó thống đốc. Phó thống đốc sẽ kế nhiệm thống đốc trong trường hợp thống đốc bị phế truất, qua đời hoặc từ chức (ở bang Massachusetts và Tây Virginia, phó thống đốc chỉ đảm nhiệm quyền lực và nghĩa vụ của thống đốc chứ không nhậm chức thống đốc). Phó thống đốc cũng đóng vai trò như thống đốc lâm thời không chính thức khi thống đốc đương nhiệm không thể thi hành công vụ, và họ cũng thường kiêm nhiệm chức chủ tịch thượng viện của nghị viện bang. Tuy nhiên, với vai trò là chủ tịch thượng viện, họ không có quyền tham gia vào các cuộc thảo luận chính trị và không có quyền bỏ phiếu, trừ trường hợp sau khi bỏ phiếu, hai bên ngang phiếu nhau. Vai trò và quyền lực Các tiểu bang ở Hoa kỳ được xem là các chính thể cộng hòa có bán chủ quyền, tồn tại song song với chính quyền liên bang Hoa Kỳ, có các quyền lực theo Hiến pháp Hoa Kỳ như quản lý giao thương trong bang, tổ chức bầu cử, thành lập các chính quyền địa phương và phê chuẩn các tu chính hiến pháp. Mỗi tiểu bang có một hiến pháp riêng theo chế độ cộng hoà và một chính quyền riêng gồm ba nhánh: hành pháp, lập pháp và tư pháp. Vì sự chia sẻ chủ quyền giữa các tiểu bang và chính quyền liên bang, người Mỹ là công dân của cả hợp chúng quốc lẫn tiểu bang nơi họ sinh sống. Thống đốc là lãnh đạo của ngành lập pháp của chính quyền tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ và, tùy vào mỗi nơi, thống đốc có sự chi phối lớn đến ngân sách chính phủ, việc bổ nhiệm nhiều công chức (bao gồm nhiều thẩm phán) và việc lập pháp. Thống đốc có thể đảm nhiệm thêm một số vai trò, như là tổng tư lệnh của Lực lượng Vệ binh Quốc gia của tiểu bang (khi không được chính quyền liên bang huy động) và của lực lượng tự vệ riêng của bang (không nằm dưới sự kiểm soát liên bang). Ở nhiều bang và vùng hải quốc, thống đốc có quyền ân xá hoặc xá tội một phần hoặc tuyệt đối. Nhiệm kỳ của các thống đốc Hoa Kỳ là bốn năm, chỉ có nhiệm kỳ của thống đốc bang New Hampshire và Vermont là hai năm. Ở tất cả các bang, thống đốc được bầu cử trực tiếp và thường có quyền lực lớn trên thực tế, nhưng có thể bị tiết chế bởi cơ quan lập pháp tiểu bang hoặc các công chức hành pháp khác. Trong năm vùng lãnh thổ chính, hiện nay các thống đốc cũng được bầu cử trực tiếp, nhưng trước đây nhiều thống đốc vùng lãnh thổ được bổ nhiệm bởi tổng thống Hoa Kỳ. Thống đốc có quyền phủ quyết các dự luật bang, và ngoại trừ bảy bang, họ cũng có quyền phủ quyết từng phần ngân sách nhà nước (quyền này tổng thống không có). Ở một số bang, nghị viện có thể gạt bỏ sự phủ quyết của thống đốc bằng cách biểu quyết với tỉ lệ ⅔ phiếu thuận, ở các bang khác là ⅗ phiếu thuận. Ở bang Alabama, Indiana, Kentucky và Tennessee, sự phủ quyết của thống đốc có thể bị gạt bỏ với đa số phiếu thuận ở nghị viện. Ở Arkansas, sự phủ quyết có thể bị gạt bỏ với đa số nghị sĩ ủng hộ. Thống đốc Bắc Carolina không có quyền phủ quyết cho đến năm 1996. Ở 47 trong số 50 bang, khi có một ghế trống trong hai ghế của tiểu bang trong Thượng viện Hoa Kỳ, thống đốc có quyền bổ nhiệm một thượng nghị sĩ lâm thời cho tới khi một cuộc bầu cử đặc biệt được tổ chức; thống đốc các bang Oregon, Alaska và Wisconsin không có quyền này. Mỗi năm, thống đốc bang đọc Thông điệp Tiểu bang trước nghị viện theo quy định của hiến pháp bang rằng thống đốc phải báo cáo mỗi năm một lần về tình hình của tiểu bang. Thống đốc cũng đảm nhiệm các vai trò mang tính chất nghi lễ, như là chào đón khách quý, trao thưởng các danh hiệu cấp bang, ban hành các tuyên bố biểu trưng, hoặc tham gia lễ hội tiểu bang. Các thống đốc cũng có nơi ở và làm việc chính thức. Lịch sử Ở các thuộc địa Bắc Mỹ, các thống đốc được chọn theo nhiều cách khác nhau theo cơ cấu chính quyền của từng thuộc địa. Ở các thuộc địa vương thất của Vương quốc Anh, Pháp và Tây Ban Nha, thống đốc được bổ nhiệm bởi quân chủ hoặc đại diện quân chủ của mẫu quốc; ở các thuộc địa Anh, Ủy ban Mậu dịch là cơ quan chính đưa ra quyết định. Các thuộc địa được thành lập theo giấy phép công ty do Hoàng gia Anh cấp, như thuộc địa Connecticut hay thuộc địa Vịnh Massachusetts, tự bầu chọn thống đốc theo giấy phép hoặc các đạo luật thuộc địa khác. Ở các thuộc địa độc quyền, như tỉnh Carolina trước khi nó trở thành một thuộc địa vương thất (và được tách ra làm hai phần, Bắc và Nam), thống đốc được chọn bởi lãnh chúa độc quyền kiểm soát thuộc địa đó. Trong những năm đầu của Chiến tranh Cách mạng Mỹ, mười một trong số mười ba bang thuộc địa đã trục xuất các thống đốc hoàng gia và độc quyền của họ. Hai thuộc địa còn lại (Connecticut và Rhode Island) có giấy phép công ty; Thống đốc Connecticut Jonathan Trumbull, giữ chức trước và trong thời chiến, trong khi Thống đốc Rhode Island Joseph Wanton bị bãi nhiệm vào năm 1775 vì không ủng hộ cách mạng. Trước khi trở thành tiểu bang, nhiều bang trước đây là các vùng lãnh thổ hoặc một phần của các vùng lãnh thổ. Dưới sự quản lý của chính quyền liên bang, những vùng lãnh thổ này có thống đốc do tổng thống bổ nhiệm và Thượng viện phê chuẩn thay vì do người dân bầu ra. Bầu cử thống đốc lãnh thổ bắt đầu ở Puerto Rico vào năm 1948. Thống đốc lãnh thổ không qua bầu cử cuối cùng, Hyrum Rex Lee của Samoa thuộc Mỹ, rời chức vụ vào năm 1978. Thống kê Theo đảng phái Tính đến tháng 1 năm 2024, có 27 thống đốc bang thuộc Đảng Cộng hòa và 23 thống đốc bang thuộc Đảng Dân chủ. Chức thống đốc ở các vùng lãnh thổ và thị trưởng Đặc khu Columbia được nắm giữ bởi bốn thành viên Đảng Dân chủ, một thành viên Đảng Tân tiến bộ (Puerto Rico) và một chính khách độc lập. Hiện không có thống đốc bang nào thuộc đảng thứ ba hoặc là chính khách độc lập. Theo nhiệm kỳ Mỗi nhiệm kỳ của thống đốc có bốn năm, ngoại trừ Vermont và New Hampshire, tại hai bang này nhiệm kỳ của thống đốc kéo dài hai năm. Thống đốc đương nhiệm lâu năm nhất hiện tại là Jay Inslee của bang Washington. Ông tái đắc cử nhiệm kỳ thứ ba vào năm 2020. Thống đốc giữ chức lâu năm nhất lịch sử Hoa kỳ là Terry E. Branstad của bang Iowa. Ông đắc cử nhiệm kỳ thứ sáu (không liên tục) vào năm 2014. Branstad từ chức vào ngày 24 tháng 5 năm 2017 để được bổ nhiệm làm Đại sứ Hoa kỳ tại Trung Quốc. Ông giữ chức vụ Thống đốc Iowa suốt 22 năm. Ngày 14 tháng 12 năm 2015, ông trở thành thống đốc giữ chức lâu năm nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, phá kỷ lục đạt được bởi George Clinton của bang New York, người giữ chức thống đốc trong vòng 21 năm từ năm 1777 đến 1795 và từ 1801 đến 1804. Đa số các tiểu bang và vùng lãnh thổ có ban hành luật giới hạn số nhiệm kỳ của thống đốc. Theo tuổi Hiện nay, thống đốc lớn tuổi nhất là Kay Ivey của bang Alabama, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1944 ( tuổi). Thống đốc trẻ tuổi nhất hiện nay là Sarah Huckabee Sanders của bang Arkansas, sinh ngày 13 tháng 8 năm 1982 ( tuổi). Trong số các thống đốc vùng lãnh thổ, Albert Bryan của Quần đảo Virgin thuộc Mỹ là thống đốc trẻ tuổi nhất, sinh ngày 21 tháng 2 năm 1968 ( tuổi). Người trẻ tuổi nhất từng giữ chức thống đốc ở Hoa Kỳ là Stevens T. Mason của Lãnh thổ Michigan, thắng cử vào năm 1835 khi chỉ mới 24 tuổi. Mason sau này trở thành thống đốc đầu tiên của bang Michigan khi nó gia nhập Hợp chúng quốc Hoa Kì vào tháng 1 năm 1837, khi đó ông 25 tuổi. Mason tái đắc cử vào tháng 11 năm 1837, lúc đó 26 tuổi. Người trẻ tuổi thứ nhì được bầu làm thống đốc là Henry C. Warmoth của bang Louisiana, được bầu trong thời kỳ cải tổ sau Nội chiến vào năm 1868 khi ông 26 tuổi. Thống đốc trẻ tuổi thứ ba là William Sprague IV của bang Rhode Island, đắc cử năm 1860 ở tuổi 29. Khi Bill Clinton, sau này là Tổng thống Hoa Kỳ, được bầu làm thống đốc bang Arkansas năm 1978 ở tuổi 32, ông trở thành thống đốc trẻ tuổi nhất kể từ khi Harold Stassen của bang Minnesota đắc cử năm 1938 ở tuổi 31. Ở 31 bang, quy định tuổi tối thiểu cho thống đốc là 30 tuổi, tuy nhiên ở các bang khác là 25 (7 bang), 21 (1 bang) hoặc 18 tuổi (5 bang). Oklahoma là bang duy nhất với quy định tuổi cao hơn là 31 tuổi. Một số bang yêu cầu thống đốc phải là cử tri, suy ra tuổi tối thiểu là 18. Vermont quy định các ứng cử viên phải sinh sống ở bang ít nhất bốn năm tính đến ngày bầu cử, điều này không cho phép trẻ em nhỏ ứng cử, nhưng ngoài ra không hề có quy định khác về tuổi tác. Theo giới tính Tính tới tháng 1 năm 2023, có 38 thống đốc bang là nam và 12 nữ thống đốc: Kay Ivey của Alabama, Katie Hobbs của Arizona, Sarah Huckabee Sanders của Arkansas, Kim Reynolds của Iowa, Laura Kelly của Kansas, Janet Mills của Maine, Maura Healey của Massachusetts, Gretchen Whitmer của Michigan, Michelle Lujan Grisham của New Mexico, Kathy Hochul của New York, Tina Kotek của Oregon và Kristi Noem của Nam Dakota. Trong đó, Ivey, Huckabee Sanders, Noem và Reynolds thuộc Đảng Cộng hòa, trong khi Hobbs, Kelly, Mills, Healey, Whitmer, Grisham, Hochul và Kotek thuộc Đảng Dân chủ. Bốn thống đốc vùng lãnh thổ là nam; một thống đốc vùng lãnh thổ và thị trưởng Washington, D.C. là nữ. Trong lịch sử Hoa Kỳ, đến nay tổng cộng có 43 nữ thống đốc bang và vùng lãnh thổ, bao gồm 2 nữ thống đốc lâm thời. Thống đốc nữ đầu tiên ở Hoa Kỳ là Nellie Tayloe Ross của Wyoming (góa phụ của cố Thống đốc Wyoming William B. Ross), đắc cử ngày 4 tháng 11 năm 1924 và tuyên thệ nhậm chức ngày 5 tháng 1 năm 1925, kế nhiệm Frank Lucas. Cũng đắc cử vào ngày 4 tháng 11 năm 1924 là bà Miriam A. Ferguson của Texas (vợ của cựu Thống đốc Texas James E. Ferguson), kế nhiệm Pat Norris Neff ngày 21 tháng 1 năm 1925. Nữ thống đốc đầu tiên không phải là vợ hoặc góa phụ của một cựu thống đốc khác là Ella T. Grasso của Connecticut, đắc cử năm 1974 và tuyên thệ nhậm chức ngày 8 tháng 1 năm 1975. Connecticut, Arizona và New Mexico là ba bang duy nhất từng có nữ thống đốc từ cả hai đảng chính. New Hampshire cũng đã từng có nữ thống đốc từ cả hai đảng, nhưng Vesta M. Roy thuộc Đảng Cộng hòa chỉ làm thống đốc lâm thời trong một khoảng thời gian ngắn. Arizona là bang đầu tiên có hai thống đốc liên tiếp khác nhau là nữ (từ hai đảng khác nhau). Arizona cũng là bang có nhiều nữ thống đốc nhất và là bang đầu tiên có ba nữ thống đốc liên tiếp. Washington là bang đầu tiên có cả nữ thống đốc và hai nữ thượng nghị sĩ Hoa Kỳ ở cùng một thởi điểm (lần lượt là Christine Gregoire, Patty Murray và Maria Cantwell), từ năm 2005 đến năm 2013. New Hampshire là bang đầu tiên và duy nhất có thống đốc và toàn bộ nghị sĩ trong Quốc hội Hoa Kỳ là nữ, từ năm 2013 đến năm 2015. Kể từ ngày 10 tháng 1 năm 2023, có 12 nữ thống đốc bang, khi Sarah Huckabee Sanders nhậm chức làm thống đốc nữ đầu tiên của bang Arkansas. Sự kiện này đánh bại kỷ lục 11 nữ thống đốc đạt được chỉ vài ngày trước khi Maura Healey nhậm chức Thống đốc Massachusetts ngày 5 tháng 1 năm 2023. LGBT Hiện tại có ba thống đốc là thành viên của cộng đồng LGBT: Jared Polls của Colorado, là người đồng tính nam, và Tina Kotek của Oregon và Maura Healey của Massachusetts, là người đồng tính nữ. Theo sắc tộc Sắc tộc thiểu số theo định nghĩa của Thống kê Dân số Hoa Kỳ hiện chiếm 38,9% tổng dân số Hoa Kỳ tính đến năm 2018. Hiện tại có 46 thống đốc da trắng gốc Âu không thuộc gốc Tây Ban Nha. Hiện có bốn thống đốc thuộc sắc tộc thiểu số: Wes More của Maryland, là người da đen; Michelle Lujan Grisham của New Mexico, là người Mỹ gốc Latinh và Tây Ban Nha; Chris Sununu của New Hampshire, là người Mỹ gốc Liban, Palestin, Latinh, Ireland và Anh; và Kevin Stitt của Oklahoma, là người thuộc bộ tộc Cherokee. Sununu và Stitt thuộc Đảng Cộng hòa, trong khi Grisham và Moore thuộc Đảng Dân chủ. Trong năm thống đốc vùng lãnh thổ có một người Mỹ gốc Latinh và Tây Ban Nha (Pedro Pierluisi của Puerto Rico), một người Mỹ gốc Phi (Albert Bryan của Quần đảo Virgin thuộc Mỹ) và ba người Mỹ gốc Quần đảo Thái Bình Dương (Lou Leon Guerrero của Guam, Lemanu Peleti Mauga của Samoa thuộc Mỹ và Arnold Palacios của Quần đảo Bắc Mariana). Vào năm 1990, Douglas Wilder của Virginia trở thành thống đốc người Mỹ gốc Phi đầu tiên từ thời kỳ cải tổ sau Nội chiến Hoa Kỳ. Theo nơi sinh Hiện có 13 thống đốc được sinh ra ở ngoài tiểu bang nơi họ giữ chức: Mike Dunleavy của Alaska (sinh ra tại Pennsylvania), Ned Lamont của Connecticut (sinh ra tại Washington, D.C.), Josh Green của Hawaii (sinh ra tại New York), J. B. Pritzker của Illinois (sinh ra tại California), Laura Kelly của Kansas (sinh ra tại New York), Maura Healey của Massachusetts (sinh ra tại Maryland), Tim Walz của Minnesota (sinh ra tại Nebraska), Greg Gianforte của Montana (sinh ra tại California), Joe Lombardo của Nevada (sinh ra tại Nhật Bản), Phil Murphy của New Jersey (sinh ra tại Massachusetts), Kevin Stitt của Oklahoma (sinh ra tại Florida), Tina Kotek của Oregon (sinh ra tại Pennsylvania), Josh Shapiro của Pennsylvania (sinh ra tại Missouri) và Mark Gordon của Wyoming (sinh ra tại New York). Có một thống đốc, Joe Lombardo của Nevada, được sinh ra ở ngoài nước (sinh ra tại Sapporo, Nhật Bản). Hiến pháp mỗi bang có quy định khác nhau về thời gian giữ quốc tịch và thời gian sinh sống ở bang cho thống đốc nhưng khác với tổng thống, thống đốc không cần thiết phải là công dân được sinh ra tại Hoa Kỳ. Hiến pháp của một số bang không quy định rõ ràng rằng thống đốc có cần là công dân hay không hay chỉ cần sinh sống ở bang. Theo khuyết tật thể chất Đã từng có hai thống đốc khiếm thị giữ chức: Bob C. Riley, thống đốc Arkansas lầm thời trong vòng 11 ngày vào tháng 1 năm 1975 và David Paterson, thống đốc New York từ năm 2008 đến năm 2010. Thống đốc Texas đương nhiệm, Greg Abbott, bị liệt nửa người dưới từ khi ông bị tai nạn năm 1984; kể từ đó ông phải ngồi xe lăn. Thống đốc New York Franklin D. Roosevelt cũng bị liệt nửa người; sau này ông trở thành tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên ngồi xe lăn. Thống đốc Alabama George Wallace bị liệt nửa người sau khi bị bắn năm 1972, khiến cho ông mất khả năng đi lại. Mức lương Tiền lương trung bình của một thống đốc bang vào năm 2009 là $124.398. Hiện nay, mức thù lao cao nhất là của Thống đốc New York Kathy Hochul với số tiền $225.000. Mức lương thấp nhất là của Thống đốc Maine Janet Mills và Thống đốc Puerto Rico Pedro Pierluisi ở mức $70.000. Đã có vài trường hợp thống đốc bang từ chối nhận lương hoặc chỉ nhận $1,00 hằng năm. Thống đốc Alabama Robert J. Bentley từ chối nhận lương hằng năm là $119.950,00 cho đến khi không còn ai thất nghiệp ở Alabama. Thống đốc Michigan Rick Snyder chỉ nhận $1,00 hằng năm. Thống đốc Texas Greg Abbott trả lại tiền lương cho tiểu bang mỗi năm ông đương nhiệm. Trong suốt nhiệm kỳ của mình, Thống đốc California Arnold Schwarzenegger cũng không nhận lương là $117.000 một năm. Một số thống đốc khác tự giảm lương của mình thay vì không nhận lương. Thống đốc New York Andrew Cuomo giảm 5% mức lương của mình năm 2015 và Thống đốc Kentucky Steve Beshear giảm 10% mức lương của mình cũng trong năm đó. Chỉ có chín bang (Massachusetts, California, Illinois, New York, New Jersey, Michigan, Pennsylvania, Bắc Carolina và Virginia) quy định mức lương của thống đốc cao hơn là mức lương $174.000 của thành viên Quốc hội Hoa Kỳ. Ở nhiều bang, thống đốc không phải là chức vụ chính quyền được trả lương cao nhất; thường thì danh hiệu đó thuộc về huấn luyện viên trưởng của các đội bóng bầu dục hoặc đội bóng rổ nam của các trường đại học tiểu bang lớn. Lịch bầu cử thống đốc Mọi tiểu bang trừ Louisiana tổ chức bầu cử thống đốc vào ngày thứ Ba đầu tiên sau ngày thứ Hai đầu tiên của tháng 11. Vì vậy mà ngày sớm nhất trong tháng cho một cuộc bầu cử là ngày 2 tháng 11 (nếu hôm đó là thứ Ba) và trễ nhất là ngày 8 tháng 11 (nếu ngày 1 tháng 11 là thứ Ba). Louisiana tổ chức bầu cử sơ bộ vào ngày thứ Bảy thứ ba hoặc thứ tư của tháng 10 và tổng tuyển cử (thường được gọi là runoff) vào ngày thứ Bảy thứ ba của tháng 11, nhưng cuộc tổng tuyển cử sẽ không được tổ chức nếu một ứng cử viên thắng bầu cử sơ bộ (xem mục bầu cử sơ bộ bên dưới). 2 bang tổ chức bầu cử thống đốc vào mỗi năm số chẵn. Những năm gần đây là 2014, 2014, 2016, 2018, 2020 và 2022. New Hampshire và Vermont 48 bang còn lại tổ chức bầu cử thống đốc bốn năm một lần. 34 bang và 3 vùng lãnh thổ tổ chức bầu cử thống đốc vào năm bầu cử giữa nhiệm kỳ. Washington D.C. cũng tổ chức bầu cử thị trưởng vào năm bầu cử giữa nhiệm kỳ. Những năm gần đây là 2006, 2010, 2014, 2018 và 2022. Alabama, Alaska, Arizona, Arkansas, California, Colorado, Connecticut, Florida, Georgia, Hawaii, Idaho, Illinois, Iowa, Kansas, Maine, Maryland, Massachusetts, Michigan, Minnesota, Nebraska, Nevada, New Mexico, New York, Ohio, Oklahoma, Oregon, Pennsylvania, Rhode Island, Nam Carolina, Nam Dakota, Tennessee, Texas, Wisconsin, Wyoming, Guam, Quần đảo Bắc Mariana, Quần đảo Virgin thuộc Mỹ và Washington DC 9 bang và 2 vùng lãnh thổ tổ chức bầu cử thống đốc vào năm bầu cử tổng thống (Mặc dù Puerto Rico và Samoa thuộc Mỹ không tổ chức bầu cử tổng thống). Những năm gần đây là 2004, 2008, 2012, 2016 và 2020. Delaware, Indiana, Missouri, Montana, Bắc Carolina, Bắc Dakota, Utah, Washington, Tây Virginia, Samoa thuộc Mỹ và Puerto Rico 3 bang tổ chức bầu cử thống đốc vào năm trước năm bầu cử tổng thống. Những năm gần đây là 2007, 2011, 2015 và 2019. Kentucky, Louisiana và Mississippi 2 bang tổ chức bầu cử thống đốc vào năm sau năm bầu cử tổng thống. Những năm gần đây là 2005, 2009, 2013, 2017 và 2021. New Jersey và Virginia Bầu cử sơ bộ thống đốc Mọi tiểu bang trừ California, Louisiana và Washington tổ chức bầu cử sơ bộ, trong đó mỗi đảng tổ chức một cuộc bầu cử sơ bộ, và ứng cử viên đắc cử bầu cử sơ bộ sẽ tham gia vào một cuộc tổng tuyển cử. Ở California, Louisiana và Washington, ứng cử viên tranh cử trong một cuộc bầu cử sơ bộ tổng thể, trong đó, hai ứng cử viên đứng đầu sẽ tiếp tục tranh cử trong cuộc tổng tuyển cử, bất kể đảng phái. Ở Louisiana, tổng tuyển cử sẽ được tổ chức giữa hai ứng cử viên dẫn đầu nếu không một ứng cử viên nào nhận được hơn 50% số phiếu trong cuộc bầu cử sơ bộ, và tổng tuyển cử sẽ không được tổ chức nếu một ứng cử viên giành được hơn 50% số phiếu. Ở California và Washington, hai ứng cử viên nhận được nhiều phiếu nhất sẽ tiến đến vòng tổng tuyển cử, bất kể số phiếu ứng cử viên hàng đầu nhận được trong vòng bầu cử sơ bộ, và California không cho phép ứng cử viên không có tên trên phiếu bầu tranh cử trong cuộc tổng tuyển cử. Giới hạn nhiệm kỳ Tại đa số tiểu bang, thống đốc có thể giữ chức trong hai nhiệm kỳ bốn năm. Mối quan hệ với chức phó thống đốc Mỗi quan hệ giữa chức thống đốc và phó thống đốc khác nhau tùy thuộc vào mỗi bang. Ở một số bang, thống đốc và phó thống đốc hoàn toàn độc lập với nhau, trong khi ở các bang khác, thống đốc được lựa chọn (trước khi bầu cử) phó thống đốc của mình. 5 bang không có chức phó thống đốc. Ở những bang này, một công chức khác do hiến pháp quy định đảm nhiệm chức thống đốc khi không có người giữ chức. Những bang này là Arizona, Oregon và Wyoming, tại đây bang vụ khanh sẽ kế nhiệm thống đốc, và Maine và New Hampshire, tại đây chủ tịch thượng viện sẽ kế nhiệm thống đốc. Arizona sẽ bầu ra phó thống đốc đầu tiên của bang vào năm 2026 sau khi sửa đổi bổ sung hiến pháp vào năm 2022. 17 bang tổ chức bầu cử thống đốc và phó thống đốc riêng biệt. Điều này có thể dẫn đến trường hợp thống đốc và phó thống đốc thuộc hai đảng phái khác nhau. Những bang này là Alabama, Arkansas, California, Delaware, Georgia, Idaho, Louisiana, Mississippi, Missouri, Nevada, Bắc Carolina, Oklahoma, Rhode Island, Texas, Vermont, Virginia, và Washington. 2 bang có phó thống đốc do thượng viện bang bổ nhiệm. Điều này có thể dẫn đến trường hợp thống đốc và phó thống đốc thuộc hai đảng phái khác nhau. Những bang này là Tennessee và Tây Virginia. 8 bang có thống đốc và phó thống đốc tranh cử cùng nhau, nhưng thống đốc không được chọn phó thống đốc. Ở những bang này, bầu cử sơ bộ thống đốc và phó thống đốc được tổ chức riêng biệt, và các ứng cử viên đắc cử tranh cử cùng nhau trên một lá phiếu trong cuộc tổng tuyển cử. Vì vậy mà thống đốc và phó thống đốc cùng thuộc một đảng, nhưng không nhất thiết là đồng minh chính trị của nhau. Những bang này là Alaska, Connecticut, Hawaii, Massachusetts, New Mexico, New York, Pennsylvania và Wisconsin. 18 bang có thống đốc và phó thống đốc tranh cử cùng nhau như tổng thống và phó tổng thống Hoa Kỳ. Ứng cử viên thống đốc chọn một ứng cử viên thống đốc để tranh cử cùng nhau. Ở Illinois, Kansas, Kentucky, Maryland, Minnesota, Bắc Dakota, Ohio và Utah, ứng cử viên thống đốc chọn người tranh cử chung trước khi bầu cử sơ bộ, trong khi ở Colorado, Florida, Indiana, Iowa, Michigan, Montana, Nebraska, New Jersey, Nam Carolina và Nam Dakota, người tranh cử chung được chọn sau khi bầu cử sơ bộ. Hệ thống thứ hai cho phép ứng cử viên thống đốc chọn một đối thủ bị đánh bại trong vòng bầu cử sơ bộ để tranh cử chung. Điều kiện ứng cử thống đốc theo hiến pháp bang Ngoại trừ Kansas, mỗi tiểu bang quy định điều kiện ứng cử thống đốc trong hiến pháp bang. Xem thêm Thống đốc và phó thống đốc (ngoài Hoa Kỳ) Ghi chú Tham khảo Chức vụ chính phủ Chính quyền tiểu bang ở Hoa Kỳ Thống đốc tiểu bang Hoa Kỳ
19851282
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mysore%20%28bang%29
Mysore (bang)
Bang Mysore (, ), là một bang cũ của Ấn Độ từ năm 1947 đến năm 1956. Bang này được thành lập trên cơ sở Vương quốc Mysore, và Bangalore thay thế Mysore làm thủ phủ của bang. Khi Đảng Quốc đại Ấn Độ thông qua Đạo luật Tái tổ chức các bang vào năm 1956, bang Mysore được mở rộng đáng kể, và trở thành một bang đồng nhất nói tiếng Kannada. Lịch sử Vương quốc Mysore là một trong ba phiên vương quốc (princely state) lớn nhất tại Ấn Độ thuộc Anh. Sau khi Ấn Độ độc lập khỏi Anh vào năm 1947, Maharaja Jayachamarajendra Wadiyar đã ký văn kiện sáp nhập vương quốc của mình vào Liên bang Ấn Độ vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Phiên vương quốc cũ sau đó được tái lập thành một bang của Liên bang. Năm 1956, Chính phủ Ấn Độ tiến hành tái tổ chức toàn diện ranh giới cấp bang, dựa trên nguyên tắc có chung ngôn ngữ. Theo kết quả từ Đạo luật Tái tổ chức các bang vào ngày 1 tháng 11 năm 1956, các huyện nói tiếng Kannada là Belgaum (không bao gồm Chandgad), Bijapur , Dharwad và Bắc Canara được chuyển từ bang Bombay sang bang Mysore. Bellary được chuyển sang từ bang Andhra; Nam Canara được chuyển sang từ bang Madras; và các huyện Koppal, Raichur, Kalaburagi và Bidar được chuyển sang từ bang Hyderabad. Ngoài ra, bang nhỏ Coorg được sáp nhập thành một huyện của Mysore. Bang được đổi tên thành Karnataka vào ngày 1 tháng 11 năm 1973. Maharaja của Mysore RajPramukh của Mysore Thống đốc Mysore Thủ hiến bang Mysore Xem thêm Bang Bombay Hội nhập chính trị của Ấn Độ Ghi chú Tham khảo Khởi đầu năm 1947 ở Ấn Độ Chấm dứt năm 1973 Vùng lịch sử Ấn Độ Lịch sử Karnataka Mysore Bang và lãnh thổ liên bang của Ấn Độ
19851285
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0%20D%E1%BB%A5c%20Hi%E1%BB%83u
Lư Dục Hiểu
Lư Dục Hiểu (tiếng Trung: 卢昱晓; bính âm: Lú YùXiǎo; sinh ngày 27 tháng 9 năm 1999, tại Thượng Hải) là nữ diễn viên người Trung Quốc. Năm 2019, cô tham gia chương trình Phái diễn xuất do Youku sản xuất, chính thức gia nhập giới giải trí. Cô được biết đến nhiều hơn qua vai diễn Thượng Quan Thiển trong phim cổ trang Vân Chi Vũ. Tiểu sử Trước khi trở thành diễn viên, Lư Dục Hiểu từng có một khoảng thời gian du học tại Anh. Năm 2019, cô chính thức gia nhập giới giải trí sau khi tham gia chương trình Phái diễn xuất. Năm 2021, Lư Dục Hiểu góp mặt trong phim cổ trang Ngọc Chiêu Lệnh với vai diễn Kỳ Mục Y La - đây cũng là vai diễn đầu tiên trong sự nghiệp diễn xuất của cô. Năm 2022, cô có bước tiến mới trong sự nghiệp diễn xuất. Tháng 4 năm 2022, cô tham gia diễn xuất trong bộ phim Ngày mai cũng muốn gặp anh trong vai phát thanh viên Liêm Ca Dao. Cuối năm 2022, Lư Dục Hiểu hợp tác cùng Ngô Tuấn Đình, đảm nhận vai nữ chính Lâm Tích trong bộ phim học đường Thời gian và anh, vừa hay đúng lúc. Năm 2023, tổng cộng đã có sáu bộ phim có sự góp mặt của cô đã lên sóng. Trong đó nổi bật nhất là phim tình cảm hiện đại Cả thế giới đang chờ hai người chia tay do Lư Dục Hiểu đóng chính vai nhân viên văn phòng Tống Ngôn Thất và phim cổ trang Vân Chi Vũ với vai nữ phụ Thượng Quan Thiển. Ngoài ra nửa cuối năm 2023, cô cũng tham gia sôi nổi các chương trình tạp kĩ như: Xin chào thứ bảy, Keep running, Vương bài đối vương bài.... Năm 2024, Lư Dục Hiểu nhận giải thưởng Diễn viên được mong chờ của năm tại Đêm hội Weibo. Phim ảnh Chương trình tạp kĩ Âm nhạc Giải thưởng Liên kết ngoài Lư Dục Hiểu trên Weibo Lư Dục Hiểu trên Instagram Lư Dục Hiểu trên Douyin Sinh năm 1999 Nữ diễn viên từ Thượng Hải Nữ diễn viên truyền hình Trung Quốc Nhân vật còn sống
19851294
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sachsen-Saalfeld
Sachsen-Saalfeld
Công quốc Sachsen-Saalfeld (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Saalfeld) là một trong những Công quốc Sachsen do dòng Ernestine của Nhà Wettin nắm giữ. Được thành lập vào năm 1680 và trao cho Công tử Johann Ernst, con trai thứ 7 của Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha. Nó vẫn mang tên này cho đến năm 1699, khi Albert V, Công tước xứ Sachsen-Coburg qua đời mà không có con trai. Anh trai của ông, Johann Ernst xứ Sachsen-Saalfeld trở thành Công tước mới của Coburg và công quốc được đổi tên thành Sachsen-Coburg-Saalfeld vào năm 1735. Sachsen-Saalfeld chỉ tồn tại được 55 năm và trải qua 2 đời công tước: John Ernest IV (1675–1729) Christian Ernest II, Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld (1729–1745) Tham khảo Carl-Christian Dressel: Die Entwicklung von Verfassung und Verwaltung in Sachsen-Coburg 1800 - 1826 im Vergleich. Duncker & Humblot Berlin 2007, . Các công quốc Ernestine Công tước xứ Sachsen-Saalfeld Công quốc Thánh chế La Mã Cựu quốc gia quân chủ
19851349
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n%20%C4%91%E1%BB%99i%20ta%20%28Nh%E1%BA%A1c%20Li%C3%AAn%20X%C3%B4%29
Quân đội ta (Nhạc Liên Xô)
"Quân đội của tôi" (tiếng Nga: Армия моя) là một bài hát hành quân của Liên Xô viết bằng tiếng Nga, do Đoàn nhạc Alexandrov biểu diễn. Lời bài hát được viết bởi nhạc sĩ và nhà soạn nhạc Liên Xô Rafael Moritsovich Plaksin (tiếng Nga: Рафаэль Морицович Плаксин). Âm nhạc được sáng tác bởi nhà soạn nhạc nổi tiếng người Liên Xô Aleksandr Aleksandrovich Abramov (tiếng Nga: Александр Александрович Абрамов), vào năm 1970. Phiên bản tiếng Ba Tư của bài hát này cũng được Quân đội Giải phóng Quốc gia, cánh vũ trang của Mujahedin Nhân dân Iran áp dụng. Lời Xem thêm SovMusic entry for My Army, containing the song in Russian My Army (Армия моя) on You Tube Ghi chú
19851350
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20%C4%91%E1%BA%A3o%20Th%E1%BB%A5y%20%C4%90i%E1%BB%83n
Danh sách đảo Thụy Điển
Đây là danh sách các đảo của Thụy Điển. Theo báo cáo thống kê năm 2013, có tổng số 267.570 hòn đảo ở Thụy Điển, trong đó có ít hơn 1000 hòn đảo có người sinh sống. Tổng diện tích là 1,2 triệu ha (12.000 km²), tương ứng với 3% tổng diện tích đất liền của Thụy Điển. Thống kê dân số từ năm 2015. Các đảo theo kích thước Các hòn đảo nổi tiếng khác Adelsö Björkö (Birka) Frösön Gåsö Gotska Sandön Helgö Holmöarna Koster Islands Lidingö Märket Mjältön Stora Karlsö Ven Visingsö Furusund Xem thêm Danh sách đảo Vịnh Bothnian Danh sách đảo Stockholm Danh sách ngọn hải đăng và tàu đèn ở Thụy Điển Danh sách đảo ở biển Baltic Danh sách đảo Tham khảo Thụy Điển Đảo Thụy Điển
19851357
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trimma%20ukkriti
Trimma ukkriti
Trimma ukkriti là một loài cá biển thuộc chi Trimma trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2021. T. ukkriti trước đây là một loài ẩn sinh (cryptic species) dưới danh pháp của Trimma okinawae. Từ nguyên Từ định danh ukkriti được đặt theo tên của Ukkrit Satapoomin, Giám đốc Phòng Bảo tồn Tài nguyên Biển, người đã hỗ trợ Winterbottom khi ông nghiên cứu thực địa tại Trạm Sinh học Biển Phuket. Phân bố T. ukkriti hiện mới chỉ được ghi nhận ở ngoài khơi đảo Phuket của Thái Lan, được thu thập ở độ sâu đến ít nhất là 15 m. Mô tả Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở T. ukkriti là 2,7 cm. Má và vùng trước của đầu có các đốm màu cam đến đỏ nhỏ hơn đồng tử. Gáy và thân có họa tiết dạng lưới mắt cáo được hình thành bởi các tế bào sắc tố xếp dày trên toàn bộ các vảy. Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 8–9; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 9; Số tia vây ngực: 19–20. Tham khảo U Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Lan Động vật được mô tả năm 2021
19851358
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gaetano%20Troina
Gaetano Troina
Gaetano Troina (sinh ngày 14 tháng 2 năm 1987) là một chính khách người San Marino, giám đốc văn phòng báo chí của đảng chính trị Domani Motus Liberi, thành viên của Đại hội đồng lớn, Đại chấp chính San Marino cùng với Filippo Tamagnini kể từ ngày 1 tháng 10 năm 2023. Tiểu sử Troina được sinh ra ở Borgo Maggiore. Ông là một luật sư và công chứng viên, học luật tại Đại học Bologna. Troina trở thành một trong những thành viên sáng lập đảng Domani Motus Liberi vào ngày 28 tháng 4 năm 2018. Đảng mới thành lập ra mắt báo chí vào ngày 26 tháng 6 năm 2018. Ông đã tham gia cuộc bầu cử San Marino 2019 và được bầu làm thành viên của Đại hội đồng lớn. Vào tháng 9 năm 2023, ông được chỉ định làm Đại chấp chính San Marino (người đứng đầu nhà nước San Marino). Ấn phẩm Vào ngày 16 tháng 10 năm 2011, ông giới thiệu ấn phẩm có tựa đề "L'evoluzione della disciplina del matrimonio e della famiglia nella Repubblica di San Marino", do Maretti Editore xuất bản tới công chúng. Tham khảo Sinh năm 1987 Nhân vật còn sống Nam giới San Marino Chính khách San Marino Chấp chính San Marino
19851367
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shin%20Jae-hwi
Shin Jae-hwi
Shin Jae-hwi là nam diễn viên người Hàn Quốc. Anh được biết đến với các vai diễn trong các bộ phim truyền hình như Class of Lies , The Good Detective , XX , Everybody Knows , True Beauty và All of Us Are Dead. Anh cũng xuất hiện trong phim More Than Family với vai Jang Do-hoon. Đóng phim Phim điện ảnh Phim truyền hình Chuỗi web Xuất hiện trong video âm nhạc Nhà hát Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1994 Nhân vật còn sống Nam diễn viên Hàn Quốc thế kỷ 21 Nam diễn viên điện ảnh Hàn Quốc Nam diễn viên truyền hình Hàn Quốc
19851368
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20%C4%91%E1%BA%A3o%20Na%20Uy
Danh sách đảo Na Uy
Đây là danh sách các đảo của Na Uy được sắp xếp theo tên. Để biết danh sách được sắp xếp theo khu vực, truy cập Danh sách đảo Na Uy theo khu vực. A Alden Aldra Algrøy Alsta Altra Anda Andabeløya Andørja Andøya, Vesterålen Andøya, Agder Arnøy, Salten Arnøya Arøya Askerøya Askrova Askøy Aspoy Aspoya Atløy Austra Austvågøya Averoya Azero B Barmen Barmøya Barøya Đảo Gấu (Bjørnøya) Bergsøya, Gjemnes Bergsøya, Heroy Bispøyan Bjarkøya Bjoøy Bjørnøya Bjørøya Bleiksøya Blomøy Bokn Bolga Bolsoya Borgan Borøya, Tvedestrand Bouvetoya Bragdoya Brattora Bremangerlandet Brottoya Bru Bulandet Bømlo Borøya D Dimnøya Dolmøya Dryna Dvergsøyam Dyroya, Troms Dyroya, Øksnes Donna E Edøya Eika, Møre og Romsdal Ellingsøya Elvalandet Engeløya Ertvågsøya F Fanøya Fedje Feøy Finnøy Finnøya, Møre og Romsdal Fjellværsøya Fjøløy Fjørofta Flakstadøya Flatøy Fleina Flekkerøy Flemsøya Flostaøya Flåvær Fogn Fosnoy Frei Froan Frøya (Trøndelag) Frøya, Bremanger Fugløya, Gildeskål Fugløya, Troms G Gapoya Garten Gimsøya Giske Gisløy Gjerdøya Gjerdinga Gjesværstappan Godøya Gossa Grip Grisvågøya Grytoya Grotoy Gurskøya H Haja Håkoya Hadseløya Hafslundsøy Halsnøy Halsnøya Handnesøya Haramsoya hareidlandet Harøya Havøya Helgbustadøya Helgøya, Hedmark Helgøya, Troms Hessa Hemnsjela Heng Hestmona Hidra Hille, Agder Hille Hillesøya Hinnøya Hisarøy Hisøya Hitra Hjelmsoya Hoddøya Holsnøy Hornøya Hovden Huftaroy Hugla Huglo Hulløya Humla Husevågøy Husoya Haja Håkoya I Idsal Idse Igerøya Ingøya Inner-Vikna Innlandet J Jan Mayen Jeløya Jomfrruland Justøy Jøa K Karlsøy, Søndre og Nordre Karlsøya, Troms Karmøy Kirkelandet Kirkøy Kinn Kjotta Klosterøy Knaplundsøya Kråkvåg Kunna Kvaløya, Tromsø Kvaløya, Finnmark Kvamsoy Kvamsøya Kvæøya Kvitsøy Kagen L Landegode Langøya, Vesterålen Langøya, Øksnes Laukøya Lauvøya, Flatanger Lauvøya, Vikna Lauvøya, Åfjord Leka Leksa Leinoya Lepsøya Lille Ekkerøy Lille Kamøya, Hammerfest Lille Kamøya, Nordkapp Linesøya Litlmolla loppa Lovund Lundøya Lunnøy Luroya Lokta M Mageroya Melkøya Mellom-Vikna Meløya Merdo Mesoya Mia/Midøya Mindlandet Mjømna Mosken Moskenesøya Mosteroy Munkholmen Myken Måsøya N Nerlandsøya Nesøya, Akershus Nesøya, Nordland Nordlandet Nordkvaløya Nærøya Nørvøya Nøtterøy O Odderøya Oksenøya Oksøy Ombo Ona Onøy Orta, Møre og Romsdal Osterøy Otroya Otterøya P Prestmåsøya Pysen R Randøy Rangsundøya Rebbenesøy Reinøya, Troms Reinøya, Vardø Reksta Reksteren Remøya Rennesøy Ringvassoy Rolla Rolfsøya Rolvsøy Rottøya Runde Ruøya Ryke Yse Rødøya, Alstahaug Rødøya, Rødøy Røst Røvær S Sandhornøya Sandøya, Møre og Romsdal Sandsøya, Møre og Romsdal Sandsøya, Troms Sandøya, Agder Sanna Seiland Sekken Selvær Seløy Senja Sessøya Silda, Finnmark Silda, Kinn Sjernarøyane Skardsøya Skarsøya Skjervøya (Troms) Skjervøya (Trøndelag) Skjernøy Sklinna Skogerøya Skogsøy Skogsoya Skorpa, Møre og Romsdal Skorpa, Kinn Skorpa, Troms Skrova Skålvær Smola Sokn Solskjel Sør-Hidle Sotra Stabben (đảo) Stabblandet Stavøyna Stjernøya Stokkøya Stord Store Sommarøya Stormolla Store Kamøya, Hammerfest Store Kamøya, Nordkapp Store Tamsøy Storfosna Straumøya Sula, Solund Sula, Sunnmøre Sula, Trøndelag Sundøy (đảo) Quần đảo Svalbard Barentsøya Edgeøya Hopen Kong Karls Land Đảo Abel Đảo Helgoland Kongsoya Svenskøya Tirpitzøya Kvitøya Nordaustlandet Prins Karls Forland Spitsbergen Đảo Wilhelm Svanøya Svellingen Svinør Sørarnøya Sørøya Talgje Tarva Tautra Terøya Tindsøya Tjeldøya Tjona Tjome Tjotta Toftøy Tomma Torget Tromsøya Tromøya Træna Tussoya tusna Tverrdalsøya Tysnesøy Tyssoy Torla U Ulvøya Uløya Utoya Utsira V Vadsøya Vandve Vanna, Vannøya Valderøya Varaldsøy Vardøya Vega Veidholmen Vengsoya Vesteroya Vestvågøya Veøya vigra Villa Voksa Vorterøya Værlandet Værøy Vågsøy Y Ylvingen Ytterøya Ytter-Vikna Æ Ærøya Ø Øksninga Østre Bolæren Å Åmøy Åmøya Åsvær Xem thêm Danh sách đảo ở Đại Tây Dương Danh sách đảo Danh sách đảo Na Uy theo diện tích Tham khảo Đảo của Na Uy Na Uy
19851380
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amazonas%20%28t%C3%A0u%20chi%E1%BA%BFn%20Brazil%29
Amazonas (tàu chiến Brazil)
Ít nhất bốn tàu chiến của Hải quân Brazil từng được đặt cái tên Amazonas, theo tên sông Amazon: Amazonas (1908) là một hạ thủy năm 1908 và xuất biên chế năm 1931 Amazonas (1943) là một hạ thủy năm 1943 và xuất biên chế năm 1973 Amazonas (S-16) là một , nguyên là chiếc được sở hữu năm 1973 và ngừng hoạt động năm 1983 Amazonas (P-120) là một , nguyên hạ thủy năm 2009 như là chiếc Port of Spain dành cho lực lượng Tuần duyên Trinidad và Tobago, và được Brazil sở hữu năm 2012 Tên gọi tàu chiến Hải quân Brazil
19851387
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lino%20Sousa
Lino Sousa
Lino Gonçalo da Cruz Sousa, sinh ngày 19 tháng 1 năm 2005, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp đang thi đấu ở vị trí hậu vệ trái cho câu lạc bộ P,ymouth Argyle, nơi anh đang được cho mượn từ câu lạc bộ Aston Villa của Premier League. Xuất thân từ Bồ Đào Nha, Sousa cũng là một cầu thủ trẻ quốc tế, đại diện cho đội tuyển Anh. Tham khảo Liên kết goài Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh Cầu thủ bóng đá Plymouth Argyle F.C. Cầu thủ bóng đá Aston Villa F.C. Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C. Cầu thủ bóng đá nam Bồ Đào Nha Cầu thủ bóng đá nam Anh Nhân vật còn sống Sinh năm 2005
19851389
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sa%C3%AFd%20Benrahma
Saïd Benrahma
Mohamed Saïd Benrahma (Arabic: محمد سعيد بن رحمة; sinh ngày 10 tháng 8 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Algeria, thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh trái cho câu lạc bộ Lyon ở Ligue 1, hiện đang được cho mượn từ West Ham United, và đội tuyển quốc gia Algeria. Benrahma bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình tại Nice, sau đó cho mượn tại Angers, Gazélec Ajaccio và Châteauroux trong giai đoạn sớm của sự nghiệp. Anh trở nên nổi bật tại giải EFL Championship sau khi chuyển đến Brentford vào năm 2018, ghi 27 bàn trong 83 trận cho đội bóng tại phía Tây London trước khi chuyển đến Premier League với West Ham vào năm 2021 sau một thời gian cho mượn. Tham khảo Liên kết ngoài Saïd Benrahma tại West Ham United FC ( lưu trữ ) Cầu thủ bóng đá Olympique Lyonnais Cầu thủ bóng đá Premier League Cầu thủ bóng đá West Ham United F.C. Cầu thủ bóng đá English Football League Cầu thủ bóng đá Championnat National 2 Cầu thủ bóng đá Ligue 2 Cầu thủ bóng đá Ligue 1 Cầu thủ bóng đá Brentford F.C. Cầu thủ bóng đá Angers SCO Cầu thủ bóng đá OGC Nice Cầu thủ bóng đá nam Pháp Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Algérie Cầu thủ bóng đá nam Algérie Tiền đạo bóng đá nam Nhân vật còn sống Sinh năm 1995
19851392
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trang%20Ph%C3%A1p
Trang Pháp
Nguyễn Phạm Thùy Trang (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1989), thường được biết đến với nghệ danh Trang Pháp, là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất âm nhạc kiêm diễn viên người Việt Nam. Trang Pháp bắt đầu nổi tiếng sau khi xuất hiện trên phim truyền hình Nhật ký Vàng Anh. Sau bộ phim, cô chuyển hướng sang âm nhạc. Xuyên suốt sự nghiệp, cô đã phát hành một số bài hát cũng như tham gia sáng tác nhiều ca khúc, và từng được báo VTV vinh danh là "Nữ hoàng nhạc phim". Năm 2023, cô tham gia chương trình truyền hình Chị đẹp đạp gió rẽ sóng và giành giải quán quân. Tiểu sử Trang Pháp sinh ngày 25 tháng 1 năm 1989 tại Paris, Pháp với tên khai sinh là Nguyễn Phạm Thùy Trang, song quê gốc của cô nằm ở Hà Nội. Cô xuất thân trong một gia đình ngoại giao danh giá, với bố của cô là Nguyễn Quang – tiến sĩ kiêm giáo sư ngoại ngữ có 40 năm công tác tại Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, còn mẹ của cô là nhà ngoại giao có hơn 30 năm cống hiến cho ngành ngoại giao Việt Nam, từng là Chánh Văn phòng Lãnh sự quán Việt Nam tại Brussels, Bỉ, và là Bí thư thứ nhất phái đoàn UNESCO Việt Nam tại Paris, Pháp. Ông ngoại của Trang Pháp là nhà ngoại giao Nguyễn Khắc Huỳnh, từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại nhiều quốc gia trên thế giới, ông đã từng góp mặt trong Đoàn đàm phán nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tham gia cuộc đàm phán lịch sử tại Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thời niên thiếu, Trang Pháp tốt nghiệp tại Đại học Lyon II của Pháp với chuyên ngành Kinh tế – Quản lý. Ngoài tiếng Việt, cô có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha. Cô được gia đình cho học đàn năm 6 tuổi và bắt đầu tham gia viết nhạc từ năm 10 tuổi. Sự nghiệp Trang Pháp bắt đầu sự nghiệp với vai diễn Thảo Uyên trong bộ phim Nhật ký Vàng Anh. Tuy nhiên, sau đó cô lại không theo đuổi con đường nghệ thuật mà tập trung cho việc học tập ở Pháp. Năm 2013, Trang Pháp về nước và chuyển hướng sang ca hát. Cô phát hành album Runaway (Chạy trốn) với tên thật là Nguyễn Phạm Thùy Trang. Khoảng thời gian từ năm 2013 đến 2017, Trang Pháp tiếp tục thực hiện những sản phẩm với màu sắc âm nhạc trẻ trung như "Chocolate", "Chỉ là", "Sau khi chia tay thì phải làm gì", và tạo dựng được chỗ đứng nhất định. Năm 2015, Trang Pháp tiếp tục tạo được ấn tượng tốt khi tham gia chương trình Cuộc đua kỳ thú 2015 cùng Băng Di. Năm 2016, cô lần đầu thử sức ở mảng điện ảnh với một vai phụ trong bộ phim Găng Tay Đỏ. Cô còn tham gia sáng tác nhạc phim cho nhiều dự án, có thể kể đến một vài tác phẩm gồm Scandal: Bí mật thảm đỏ, Long ruồi, Tuổi thanh xuân 2, Gái già lắm chiêu 3, Gái già lắm chiêu V, Thương ngày nắng về. Bên cạnh đó, Trang Pháp cũng sáng tác nhiều ca khúc nổi tiếng cho các ca sĩ khác như "Đừng yêu" của Thu Minh, "Em hơi mệt với bạn thân anh" của Hương Giang, hay "Em sai rồi anh xin lỗi em đi" và "Hoa dưới mặt trời" của Chi Pu. Cô còn tham gia viết lời Việt cho các ca khúc như "Từ hôm nay (Feel Like Ooh)" và "Mình chia tay đi". Tháng 1 năm 2024, Trang Pháp chính thức ký hợp đồng với The First Management. Sau nhiều năm lui về hậu trường để sáng tác và sản xuất âm nhạc, tên tuổi của cô đã bùng nổ khi tái xuất trong mùa đầu tiên của chương trình Chị đẹp đạp gió rẽ sóng. Cô đã để lại dấu ấn như là một nghệ sĩ toàn năng khi có thể thực hiện nhiều vai trò khác nhau, và cô được vinh danh ở vị trí quán quân kiêm trưởng nhóm của nhóm nhạc "Đạp Gió" gồm 7 chị đẹp chiến thắng chung cuộc. Bên cạnh đó, cô còn gặt hái thêm hai giải phụ khác đáng chú ý là "Chị đẹp toàn năng" và "Trưởng nhóm của năm". Cô dự kiến sẽ phát hành album mới gồm 8 bài hát vào năm 2024, nhằm kỷ niệm chặng đường 10 năm ca hát. Danh sách đĩa nhạc Album phòng thu Đĩa mở rộng Album nhạc phim Đĩa đơn Sự nghiệp điện ảnh Phim điện ảnh Phim truyền hình Chương trình truyền hình Tham khảo Liên kết ngoài Trang Pháp trên Instagram Trang Pháp trên YouTube Trang Pháp trên TikTok Trang Pháp trên Spotify Trang Pháp trên Apple Music Tự hào về chị Trang ạ Sinh năm 1989 Nhân vật còn sống Nữ ca sĩ Việt Nam Ca sĩ nhạc trẻ Việt Nam Ca sĩ tiếng Việt Nữ diễn viên điện ảnh Việt Nam Nữ diễn viên truyền hình Việt Nam Nhật ký Vàng Anh Nữ ca sĩ thế kỷ 21 Nữ diễn viên Việt Nam thế kỷ 21 Người Hà Nội Người họ Nguyễn tại Việt Nam
19851393
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20%C4%91%E1%BA%A3o%20Djibouti
Danh sách đảo Djibouti
Đây là danh sách các đảo của Djibouti: Đảo ở Biển Đỏ Doumeira Đảo ở Bab-el-Mandeb Sawabi Siyyan Himar Rocher Siyyan Đảo ở Vịnh Tadjoura Maskali mocha Abou Maya Warramous Xem thêm Địa lý Djibouti Djibouti
19851411
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vitor%20Roque
Vitor Roque
Vitor Hugo Roque Ferreira (sinh ngày 28 tháng 2 năm 2005), được biết đến với cái tên Vitor Roque và còn có biệt danh Tigrinho (Little Tiger) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brazil chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ La Liga Barcelona và Đội tuyển bóng đá quốc gia Brazil. Tham khảo
19851418
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stanislav%20Lobotka
Stanislav Lobotka
Stanislav Lobotka (;sinh ngày 25 tháng 11 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Slovakia chơi ở vị trí tiền vệ trung tâm cho câu lạc bộ Serie A Napoli và Đội tuyển bóng đá quốc gia Slovakia . Tham khảo
19851422
https://vi.wikipedia.org/wiki/Willy%20Kambwala
Willy Kambwala
Willy Kambwala Ndengushi (sinh ngày 25 tháng 8 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Premier League Manchester United . Sinh ra ở CHDC Congo, anh từng đại diện cho Pháp ở cấp độ trẻ. Tham khảo
19851435
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fabio%20Miretti
Fabio Miretti
Fabio Miretti (sinh ngày 3 tháng 8 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Serie A Juventus và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý . Miretti gia nhập đội trẻ của Auxilium Saluzzo vào năm 2007 và chuyển sang đội Cuneo vào năm sau. Năm 2011, Miretti được Juventus mua lại và anh đã thi đấu ở các cấp độ trẻ . Vào tháng 2 năm 2021, anh có trận ra mắt chuyên nghiệp với đội U23 , ở tuổi 17. Mùa giải tiếp theo, anh trở thành cầu thủ thường xuyên của U23 Juventus, đồng thời có trận ra mắt Serie A và UEFA Champions League với đội một và giúp đội U19 đạt đến chức vô địch. Bán kết giải trẻ UEFA . Trong mùa giải 2022–23, anh được đôn lên đội một vĩnh viễn. Miretti cũng đã đại diện cho Ý ở các cấp độ trẻ kể từ năm 2018. Anh đã ghi 9 bàn sau 40 lần ra sân ở các cấp độ của Ý. Tham khảo
19851441
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gianluca%20Mancini
Gianluca Mancini
Gianluca Mancini (; sinh ngày 17 tháng 4 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá người Ý chơi ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Serie A Roma và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý . Tham khảo
19851446
https://vi.wikipedia.org/wiki/2024%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BB%A9c
2024 tại Đức
Dưới đây là sự kiện trong năm tại Đức 2024. Đương nhiệm Tổng thống – Frank-Walter Steinmeier Chủ tịch Quốc hội Liên bang Đức – Bärbel Bas Thủ tướng – Olaf Scholz Chủ tịch Hội đồng Liên bang Đức – Manuela Schwesig Chủ tịch Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức – Stephan Harbarth. Sự kiện Tháng 1 5 tháng 1 – Bốn người thiệt mạng và những người khác bị thương trong vụ hỏa hoạn tại bệnh viện ở Uelzen. 8 tháng 1 – Nông dân chặn đường vào đường cao tốc ở các vùng của Đức, phát động một tuần biểu tình phản đối kế hoạch của chính phủ nhằm loại bỏ các khoản giảm trừ thuế đối với dầu diesel sử dụng trong nông nghiệp. 10 tháng 1 – Các cuộc biểu tình được tổ chức trên khắp nước Đức để kêu gọi lệnh cấm đối với đảng cánh hữu Con đường khác cho nước Đức. Điều này là do Cuộc họp của những người cực đoan cánh hữu tại Potsdam năm 2023. 23 tháng 1: Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức quy định rằng đảng cực hữu nhỏ như là Die Heimat (The Homeland) trước đây là Đảng Dân chủ Quốc gia Đức (NPD) không được nhận tài trợ của nhà nước. Đức thông báo rằng họ sẽ tặng sáu máy bay trực thăng SH-3 Sea King cho Không quân Ukraina để giúp lực lượng này tuần tra Biển Đen. Tháng 2 Đã được lên lịch 10 tới 28 tháng 1 – Giải vô địch Bóng ném Nam châu Âu 2024 8 tới 11 tháng 2 – Giải vô địch Khúc côn cầu Trong nhà EuroHockey Nữ 2024 ở Berlin 9 tháng 6 – Cuộc bầu cử Nghị viện Châu Âu năm 2024 tại Đức 9 tháng 6 – Cuộc bầu cử quận Hamburg năm 2024 14 tháng 6 đến 14 tháng 7 – Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 14 tháng 7 – Trận chung kết Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 diễn ra tại Berlin 1 tháng 9 – Cuộc bầu cử bang Sachsen 2024 1 tháng 9 – Cuộc bầu cử bang Thuringian 2024 Ngày lễ : 1 tháng 1 - Tết Dương lịch 6 tháng 1 - Lễ Hiển Linh 8 tháng 3 - Ngày Quốc tế Phụ nữ 28 tháng 3 - Thứ Năm Tuần Thánh 29 tháng 3 - Thứ Sáu Tuần Thánh 31 tháng 3 - Chúa nhật Phục Sinh 1 tháng 4 - Thứ Hai Phục Sinh 1 tháng 5 - Ngày Quốc tế Lao động 9 tháng 5 - Lễ Thăng Thiên 19 tháng 5 - Whit Sunday 20 tháng 5 - Whit Monday 30 tháng 5 - Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô 15 tháng 8 - Lễ Đức Mẹ Lên Trời 20 tháng 9 - Ngày Thiếu nhi 3 tháng 10 - Ngày thống nhất nước Đức 31 tháng 10 - Ngày Cải cách Tin lành 1 tháng 11 - Lễ Các Thánh 20 tháng 11 - Ngày Sám Hối 25 tháng 12 - Giáng Sinh 26 tháng 12 – Ngày Thánh Stephen Mất Tháng 1 1 tháng 1 – Hartmut Ritzerfeld, 73, họa sĩ. 2 tháng 1 – Chris Karrer, 76, nghệ sĩ guitar và nhà soạn nhạc. 3 tháng 1 – Günther Fielmann, 84, nhà bán lẻ kính mắt, người sáng lập Fielmann. 4 tháng 1 – Christian Oliver, 51, diễn viên nổi tiếng với loạt phim truyền hình Cobra 11. 5 tháng 1: Herbert Linge, 95, tay đua. Nicholas Rescher, 95, Triết gia người Mỹ gốc Đức, người sáng lập American Philosophical Quarterly, History of Philosophy Quarterly và Public Affairs Quarterly. Robert Rosenthal, 90, nhà tâm lý học người Mỹ gốc Đức. 6 tháng 1 – Erwin Schild, 103, Giáo sĩ và tác giả người Canada gốc Đức, theo Đảng Bảo thủ. 7 tháng 1 – Franz Beckenbauer, 78, cầu thủ bóng đá (Bayern Munich, đội tuyển quốc giá). 11 tháng 1 – Sigi Schwab, 83, nghệ sĩ guitar. 16 tháng 1 – Kay Bernstein, 43, doanh nhân, chủ tịch của Hertha BSC (2022–2024). 17 tháng 1 – Ulrich Voß, 85, diễn viên và nhà văn 19 tháng 1 – Klaus Wunder, 73, cầu thủ bóng đá (MSV Duisburg, Bayern Munich, Thế vận hội 1972). 22 tháng 1 – Elke Erb, 85, tác giả. 23 tháng 1 – Frank Farian, 82, ca sĩ và nhà sản xuất, thu âm (Boney M, Milli Vanilli). 26 tháng 1 – Hartmut Bagger, 85, đại tướng. 30 tháng 1: Achim Benning, 89, diễn viên và đạo diễn sân khấu. Helmut Peuser, 83, chính trị gia Đức. Xem thêm 2024 tại Liên minh châu Âu 2024 tại châu Âu Ghi chú Liên kết ngoài Lịch trực tuyến Tham khảo Đức năm 2024 Năm 2024 theo quốc gia Châu Âu năm 2024 Đức thập niên 2020 Năm của thế kỷ 21 ở Đức
19851450
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fusigobius%20longispinus
Fusigobius longispinus
Fusigobius longispinus là một loài cá biển thuộc chi Fusigobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1978. Từ nguyên Từ định danh longispinus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: longus (“dài”) và spinus (“gai, ngạnh”), hàm ý đề cập đến gai vây lưng thứ nhất của loài cá này rất dài. Phân bố và môi trường sống Từ Biển Đỏ và Đông Phi, F. longispinus có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall, ngược lên phía bắc tới quần đảo Ryukyu, xa về phía nam đến rạn san hô Great Barrier và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, F. longispinus được ghi nhận tại quần đảo Trường Sa. F. longispinus sống trên nền cát và đá vụn của rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 25 m. Mô tả Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở F. longispinus là 8 cm. Đầu và thân màu trắng, phủ đầy các đốm cam. Tất cả các vây đều có màu trắng với các đốm màu cam ở vây lưng và vây đuôi. Gai vây lưng thứ nhất vươn dài theo tuổi, đặc biệt ở cá đực. Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 8. Sinh thái Thức ăn của F. longispinus là các loài thủy sinh không xương sống. Loài này có thể phát huỳnh quang đỏ ở độ sâu mà ban ngày hầu như ánh sáng đỏ từ Mặt Trời không rọi xuống được. Tham khảo L Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá biển Đỏ Cá Israel Cá Ai Cập Cá Somalia Cá Mozambique Cá Seychelles Cá Madagascar Cá Mauritius Cá Nhật Bản Cá Đài Loan Cá Việt Nam Động vật được mô tả năm 1978
19851452
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ky%C5%8Dtamba%2C%20Ky%C5%8Dto
Kyōtamba, Kyōto
là thị trấn thuộc huyện Funai, Kyōto, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 12.907 người và mật độ dân số là 43 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 303,09 km2. Tham khảo Thị trấn của Kyōto
19851458
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99%20Ngo%E1%BA%A1i%20giao%20v%C3%A0%20H%E1%BB%A3p%20t%C3%A1c%20Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF%20%28Campuchia%29
Bộ Ngoại giao và Hợp tác Quốc tế (Campuchia)
Bộ Ngoại giao và Hợp tác Quốc tế () là cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm đại diện cho Campuchia trước cộng đồng quốc tế. Bộ giám sát quan hệ đối ngoại của Campuchia, duy trì các phái bộ ngoại giao ở những nước khác và cung cấp dịch vụ thị thực. Tính đến năm 2023, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là Sok Chenda Sophea. Văn phòng Bộ tọa lạc ở thủ đô Phnôm Pênh. Hệ thống thị thực điện tử Hiện tại, Bộ Ngoại giao và Hợp tác Quốc tế đã triển khai hệ thống thị thực điện tử, cho phép du khách nộp đơn xin thị thực du lịch Campuchia trực tuyến. Thay vì nộp đơn thông qua Đại sứ quán Campuchia, tất cả những gì cần làm là điền vào mẫu đơn trực tuyến và thanh toán bằng thẻ tín dụng. Sau khi nhận được thị thực qua email, cần in ra và mang theo khi đi du lịch Campuchia. Du khách có thể nộp đơn xin thị thực trực tuyến vào Campuchia tại trang web chính thức. Bộ trưởng Đây là danh sách Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Hợp tác Quốc tế Campuchia: Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Trang chủ Bộ Ngoại giao và Hợp tác Quốc tế Bộ Ngoại giao và Hợp tác Quốc tế - thư mục Phái bộ ngoại giao Campuchia Phnôm Pênh Bộ Ngoại giao Bộ chính phủ Campuchia Quan hệ ngoại giao của Campuchia Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Campuchia
19851459
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99%20Kinh%20t%E1%BA%BF%20v%C3%A0%20T%C3%A0i%20ch%C3%ADnh%20%28Campuchia%29
Bộ Kinh tế và Tài chính (Campuchia)
Bộ Kinh tế và Tài chính (, ALA-LC: ) là cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm quản lý chính sách kinh tế và tài chính tại Vương quốc Campuchia. Theo trang web chính thức, Bộ này được Chính phủ Hoàng gia Campuchia ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn và điều hành các vấn đề kinh tế và tài chính. Bộ trưởng hiện tại chủ quản Bộ Kinh tế và Tài chính là Aun Pornmoniroth, tính đến năm 2013. Trụ sở chính của Bộ này đặt tại Phnôm Pênh, trong khi các cơ quan ban ngành cấp tỉnh nằm ở khắp tỉnh lỵ của mỗi tỉnh. Cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức của Bộ này bao gồm: Cục Chính sách Kinh tế và Tài chính công Cục Hành chính và Tài chính Tổng cục Thuế Tổng cục Hải quan và Thuế tiêu thụ đặc biệt Cục Hợp tác và Đầu tư Kho bạc Nhà nước Cục Doanh thu ngoài thuế Cục Công nghiệp Tài chính Cục Ngân sách Cục Tài chính Sự vụ Cục Tài chính địa phương Cục Kiểm toán Nội bộ Cục Tài sản Nhà nước Cục Mua sắm Công Cục Nhân sự Cục Pháp chế Cục Hội nhập Kinh tế và ASEAN Cục Công nghệ thông tin Cục Tái định cư Viện Kinh tế Tài chính Bộ trưởng Bộ Tài chính (1945–1970) Ung Hy, 1945 Penn Nouth, 1945 Nhiek Tioulong, 1945-1946 Son Sann, 1946-1947 Au Chhuen, 1949-1950 Nhiek Tioulong, 1951 Yem Sambaur, 1954 Pho Proeung, 1955 Sam Sary, 1955-1956 Huot Sam Ath, 1956 San Yun, 1957 Truong Cang, 1957-1958 Son Sann, 1958-? Touch Kim, 1958 Trương Cương, 1959 Son Sann, 1961-1962 Hou Youn, 1962 Chai Thoul, ?-1963-? Hing Kunthel, ?-1966-1967 Touch Kim, 1967-1968 Yem Sarong, 1968-1969 Op Kim Ang, 1969-1970 Bộ trưởng Bộ Tài chính Cộng hòa Khmer (1970–1975) Tim Nguon, 1970 Sok Chhong, 1970-1972 Ith Thuy, 1972-1973 Khy Taing Lim, 1973 Keo Mongkry, 1973-1974 Khy Taing Lim, 1974-1975 Bộ trưởng Bộ Kinh tế Campuchia Dân chủ (1975–1979) Koy Thuon, 1975-1976 Vorn Vet, 1976-1979 Bộ trưởng Bộ Tài chính Cộng hòa Nhân dân Campuchia và Quốc gia Campuchia (1979–1993) Thiounn Thioum, 1979-1981 Chan Phin, 1981-1986 Chhay Than, 1986-1993 Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Tài chính từ năm 1993 Tham khảo Liên kết ngoài Trang chủ Bộ Kinh tế và Tài chính Bộ Kinh tế và Tài chính - Cục Công nghiệp Tài chính Bộ Kinh tế Bộ Tài chính Phnôm Pênh Kinh tế Campuchia Tài chính Campuchia Bộ chính phủ Campuchia Khởi đầu năm 1993 ở Campuchia
19851464
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20%C4%91%E1%BA%A3o%20c%E1%BB%A7a%20Eritrea
Danh sách đảo của Eritrea
Đây là danh sách các đảo của Eritrea. Quần đảo Dahlak Dahlak Kebir (trước đây là Dehalak Deset) Dhuladhiya Dissei (trước đây là Đảo Valentia) Dohul Erwa Harat Harmil Howakil Isra-Tu Nahaleg Nora Shumma Các đảo khác ở Biển Đỏ Đảo Fatma Halib Hando Quần đảo Hanish Quần đảo Howakil Đảo Massawa Xem thêm Địa lý Eritrea Eritrea
19851482
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B2a%20%C3%A1n%20ph%C3%BAc%20th%E1%BA%A9m%20Hoa%20K%E1%BB%B3
Tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ
Tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ (tiếng Anh: United States court of appeals) là các tòa án thượng tố của hệ thống tư pháp liên bang Hoa Kỳ. Mỗi tòa án phúc thẩm đảm nhiệm một trong số mười ba "Khu vực tư pháp". Mười một khu vực được đánh số từ "Một" đến "Mười một" được phân chia theo những khu vực địa lý của Hoa Kỳ và tòa xử phúc thẩm các bản án từ các tòa án quận trong ranh giới của mình. Khu vực Đặc khu Columbia chỉ bao gồm Washington DC. Khu vực Liên bang xử phúc thẩm từ các tòa án liên bang khắp Hoa Kỳ đối với những vụ án thuộc những lĩnh vực pháp lý đặc biệt. Tòa án phúc thẩm cũng xử kháng án quyết định và quy định của một số cơ quan hành chính, đa số các vụ án này do Khu vực Đặc khu Columbia xét xử. Kháng án quyết định của các tòa án phúc thẩm có thể được xét xử giám đốc thẩm bởi Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Các tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ được xem là các tòa án có quyền lực và sức ảnh hưởng lớn nhất ở Hoa Kỳ, chỉ sau Tòa án Tối cao. Vì các tòa án phúc thẩm có quyền đưa ra các án lệ trong những khu vực với hàng triệu người sinh sống, các tòa án phúc thẩm mang sức ảnh hưởng lớn về mặt chính sách đối với luật pháp Hoa Kỳ. Hơn thế nữa, vì Tòa án Tối cao chỉ xét xử ít hơn 3% trong số 7.000 đến 8.000 bản án được trình lên mỗi năm, các tòa án phúc thẩm thường là tòa án cấp cao nhất trong đa số vụ án liên bang. Hiện tại có 179 thẩm phán tòa án phức thẩm Hoa Kỳ do Quốc hội quy định tại luật 28 U.S.C. § 43 căn cứ vào Điều III Hiến pháp Hoa Kỳ. Như các thẩm phán liên bang khác, họ được đề cử bởi tổng thống Hoa Kỳ và được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn. Họ được giữ chức suốt đời, với mức lương hằng năm (năm 2023) là $246.600. Số thẩm phán trên thức tế có thể khác, vì những vị trí trống hoặc vì có những thẩm phán đã về hưu nhưng vẫn tiếp tục xét xử. Quyết định của tòa án phúc thẩm được xuất bản bởi công ti West Publishing trong bộ Federal Reporter từ khi các tòa án được thành lập. Chỉ những quyết định tòa án cho phép xuất bản mới được xuất bản. Những quyết định "không được xuất bản" (của tất cả tòa án trừ Khu vực Năm và Mười một) được xuất bản riêng trong bộ Federal Appendix và trên những cơ sở dữ liệu trực tuyến như LexisNexis hay Westlaw. Gần đây, các quyết định của tòa án cũng được đăng trên trang web chính thức của tòa. Tuy nhiên, cũng có một số bản án liên bang được bảo mật vì lý do an ninh quốc gia. Tòa án phúc thẩm Khu vực Một có ít thẩm phán nhất và Khu vực Chín ở phía Tây Hoa Kỳ có nhiều thẩm phán nhất, diện tích địa lý lớn nhất, và đông dân nhất. Số thẩm phán của mỗi khu vực được Quốc hội Hoa Kỳ quy định tại luật 28 U.S.C. § 44 và trụ sở xét xử được quy định tại 28 U.S.C. § 48. Mặc dù các tòa án phúc thẩm thường được gọi là "tòa án khu vực", đừng nên nhầm lẫn chúng với các tòa án khu vực Hoa Kỳ cũ, hoạt động từ năm 1789 đến hết năm 1911. Các tòa án này là các tòa án sơ thẩm liên bang lưu động, di chuyển khắp nơi trong "khu vực" được giao để phục vụ các thị trấn và thành phố thưa dân thời đó khi giao thông chưa phát triển. Hệ thống "tòa án phúc thẩm" hiện nay được thành lập bởi Đạo luật Tư pháp năm 1891. Trình tự, thủ tục Vì tòa án phúc thẩm chỉ có quyền xét xử phúc thẩm, chúng không có quyền mở phiên tòa xét xử sơ thẩm. Chỉ có các tòa án với quyền xét xử sơ thẩm mới có quyền mở phiên tòa xét xử và đưa ra hình phạt (trong vụ án hình sự) và hướng giải quyết (trong vụ án dân sự). Thay vào đó, tòa án phúc thẩm xem xét lại bản án của tòa án sơ thẩm để sửa lỗi pháp lý. Vì vậy, tòa án phúc thẩm chỉ xem xét hồ sơ (giấy tờ của các bên, bản ghi chép và các bằng chứng) từ tòa án sơ thẩm và các lý lẽ pháp lý từ các bên. Các luận điểm này, thường là dưới dạng văn bản và có thể kéo dài từ vài chục đến vài trăm trang, được gọi trong tiếng Anh là brief. Đôi lúc luật sư cũng được bổ sung các luận điểm văn bản bằng việc tranh luận trực tiếp trước (oral arguments) các thẩm phán. Ở những phiên tòa này, chỉ có luật sư đại diện của các bên phát biểu trước tòa. Bộ Quy tắc Xét xử Phúc thẩm Liên bang quy định thủ tục của các tòa án phúc thẩm. Trong một tòa án phúc thẩm, một bản kháng án thường được xét xử bởi ba thẩm phán được chọn ngẫu nhiên từ các thẩm phán của khu vực (bao gồm các thẩm phán về hưu và thẩm phán tạm thời). Một số vụ án được xét xử bởi tất cả thẩm phán (en banc). Trừ Khu vực Chín, khi tòa xét xử en banc, mọi thẩm phán đang đương nhiệm trong khu vực tham gia xử án, không bao gồm các thẩm phán đã về hưu (trừ trường hợp thẩm phán về hưu đã tham gia xét xử vụ án này trước đó). Vì có số lượng thẩm phán lớn (29 thẩm phán), ở Khu vực Chín, chỉ mười thẩm phán được lựa chọn ngẫu nhiên xét xử các vụ án en banc. Nhiều thập kỷ trước, một số loại vụ án liên bang được quyền kháng án tự động lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, nghĩa là, một bên trong vụ án có thể kháng án quyết định của một tòa án phúc thẩm lên Tòa án Tối cao, và Tòa án Tối cao bắt buộc phải xét xử vụ án đó. Quyền kháng án tự động đối với đa số quyết định của tòa án phúc thẩm bị bãi bỏ bới Đạo luật Tư pháp năm 1925. Đạo luật này cũng cải tổ nhiều thứ khác trong hệ thống tòa án liên bang. Đạo luật này được ủng hộ bởi Chánh án William Howard Taft. Thủ tục hiện tại quy định rằng một bên của vụ án có quyền nộp đơn đề nghị Tòa án Tối cao xem xét lại bản án của một tòa án phúc thẩm, tiếng Anh gọi là writ of certiorari. Tòa án Tối cao có quyền quyết định có chấp nhận đơn hay không. Trong những trường hợp đặc biệt, Tòa án Tối cao có thể chấp nhận đơn kháng án trước khi tòa án phúc thẩm đưa ra quyết định, nghĩa là xem xét trực tiếp bản án của tòa án sơ thẩm. Điều này đã xảy ra trong vụ án Hoa Kỳ kiện Nixon liên quan đến vụ bê bối Watergate, và trong vụ án năm 2005 liên quan đến Bộ Quy tắc Áp dụng Hình phạt Liên bang, Hoa Kỳ kiện Booker. Tòa án phúc thẩm có thể đặt câu hỏi pháp lý cho Tòa án Tối cao trong khi đang xem xét một vụ án. Trước đây việc này diễn ra khá thường xuyên, nhưng bây giờ thì khá hiếm. Ví dụ, trong khi giữa năm 1927 và 1946, 20 câu hỏi pháp lý được chấp nhận, thì kể từ năm 1947, Tòa án Tối cao chỉ trả lời 4 câu hỏi. Trong vụ án United States kiện Penaranda, 375 F.3d 238 (2d Cir. 2004), Tòa án Phúc thẩm Khu vực Hai, khi xét xử en banc, đã cố gắng sử dụng thủ tục này theo bản án của Tòa án Tối cao trong vụ Blakely kiện Washington, tuy nhiên câu hỏi bị Tòa án Tối cao bác bỏ. Lần cuối cùng Tòa án Tối cao chấp nhận và trả lời câu hỏi pháp lý là trong vụ án Thành phố Mesquite kiện Tập đoàn Aladdin's Castle năm 1982. Tòa án phúc thẩm có quyền thành lập một Hội đồng Xét xử phúc thẩm Phá sản (Bankruptcy Appellate Panel) để xét xử phúc thẩm các vụ phá sản từ tòa án phá sản trong khu vực. Tính tới năm 2008, chỉ có Khu vực Một, Sáu, Tám, Chín và Mười có Hội đồng Xét xử phúc thẩm Phá sản. Ở những khu vực kông có Hội đồng Xét xử phúc thẩm Phá sản, những đơn kháng án trong các vụ phá sản được xét xử bởi các tòa án quận. Các quyết định của tòa án phúc thẩm được coi là án lệ, khác với quyết định của các tòa án liên bang cấp thấp. Mọi tòa án khác trong khu vực phải tuân theo án lệ của tòa án phúc thẩm trong những vụ án tương tự, ngay cá khi thẩm phán sơ thẩm không đồng ý với bản án. Luật pháp liên bang và tiểu bang thay đổi qua thời gian, theo quyết định của Quốc hội và nghị viện bang. Vì vậy mà luật pháp tồn tại lúc kháng án có thể khác với luật pháp tồn tại lúc sự việc xảy ra. Tòa án phúc thẩm áp dụng luật pháp hiện hành lúc kháng án; nếu không thì bản án được ban hành sẽ ngay lập tức bị lỗi thời, và điều này sẽ làm lãng phí thời gian, tiền bạc và công sức, vì những bản án như vậy sẽ không thể được coi là án lệ. "Tòa án phải áp dụng luật hiện hành lúc đưa ra quyết định, trừ trường hợp điều này sẽ gây ra sự bất công hoặc trường hợp có quy định hay lịch sử lập pháp khác." Tuy nhiên, quy định trên không được áp dụng trong các vụ án hình sự nếu việc áp dụng luật mới trừng phạt một hành động mà tại thời điểm gây ra không phải là một tội danh, gây thiệt hại cho bị cáo. Quyết định do tòa án phúc thẩm ban hành chỉ áp dụng đối với các bang nằm trong khu vực của tòa, mặc dù các tòa án khác có thể đưa ra quyết định dựa trên bản án đó. Mặc dù một vụ án chỉ có thể được xét xử bởi một tòa án, một quy tắc pháp lý nào đó có thể được xét xử trong nhiều vụ án khác nhau tại các tòa án phúc thẩm khác nhau. Điều này có thể gây ra các bản án không đồng bộ giữa các vùng khác nhau ở Hoa Kỳ. Thường thì trong trường hợp này, một vụ án liên quan sẽ được kháng án lên Tòa án Tối cao, và Tòa sẽ chấp nhận xét xử vụ án để giải quyết mâu thuẫn giữa các khu vực. Luật sư Để tham gia vào một vụ án bị kháng án lên tòa án phúc thẩm, luật sư phải tham gia vào luật sư đoàn của tòa án khu vực đó. Luật sư được phép gia nhập luật sư đoàn tòa án phúc thẩm khi được cấp phép hành nghề tại bất kỳ tiểu bang nào ở Hoa Kỳ. Luật sư phải nộp đơn, trả phí và tuyên thệ trước tòa. Từng địa phương quy định khác nhau về hình thức tuyên thệ, bằng văn bản hay trực tiếp trước một thẩm phán của tòa. Đa số tòa phúc thẩm cho phép luật sư chọn hình thức tuyên thệ. Tên gọi Khi các tòa án phúc thẩm được thành lập vào năm 1891, mỗi tòa án đảm nhiệm một trong chín khu vực tồn tại lúc đó, và mỗi tòa được đặt tên là "Tòa án Khu vực Phúc thẩm Hoa Kỳ tại Khu vực _". Khi một tòa án phúc thẩm được thành lập cho Đặc khu Columbia vào năm 1893, nó được đặt tên là "Tòa án Phúc thẩm Đặc khu Columbia", và được đổi tên thành "Tòa án Phúc thẩm Hoa Kỳ Đặc khu Columbia" vào năm 1934. Vào năm 1948, Quốc hội đổi tên các tòa án phúc thẩm thành tên hiện tại: tòa án ở mỗi khu vực được đánh số có tên là "Tòa án Phúc thẩm Hoa Kỳ Khu vực _", và "Tòa án Phúc thẩm Hoa Kỳ Đặc khu Columbia" được đổi thành "Tòa án Phúc thẩm Hoa Kỳ Khu vực Đặc khu Columbia". Khu vực Mười được tách ra từ Khu vực Tám vào năm 1929, và Khu vực Mười một được tách ra từ Khu vực Năm vào năm 1981. Khu vực Liên bang được thành lập năm 1982 qua việc sáp nhập Tòa án Hải quan và Phúc thẩm Bằng sáng chế Hoa Kỳ và viện phúc thẩm của Tòa án Tranh chấp Hoa Kỳ. Hội đồng tư pháp Hội đồng tư pháp là một cơ quan ở mỗi khu vực với nhiệm vụ ban hành "các lệnh cần thiết và phù hợp phục vụ cho việc thi hành công lý hiệu quả và nhanh chóng" Các nghĩa vụ của hội đồng bao gồm kỷ luật tư pháp, soạn thảo chính sách khu vực, thực hiện chính sách do Hội nghị Tư pháp Hoa Kỳ ban hành, và báo cáo thường niên cho Văn phòng Quản lý Tòa án Hoa Kỳ về số lượng và nội dung của các lệnh được ban hành trong năm liên quan đến các hành vi vi phạm tư pháp. Hội đồng tư pháp gồm chánh án khu vực và thẩm phán sơ thẩm và phúc thẩm khu vực với số lượng bằng nhau. Thành phần khu vực Danh sách các tòa án phúc thẩm và các tòa án và cơ quan cấp dưới thuộc quyền phúc thẩm của tòa án như sau: Dân số khu vực Theo số liệu cuộc điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2020, dân số của mỗi khu vực tư pháp là như sau. Lịch sử Đạo luật Tư pháp năm 1789 thành lập ba khu vực tư pháp, là tập hợp các quận tư pháp nằm trong phạm vi của các tòa án khu vực Hoa Kỳ. Mỗi khu vực tư pháp ban đầu được đặc tên riêng thay vì được đánh số: Đông, Trung và Nam. Mỗi tòa án khu vực có hai thẩm phán Tòa án Tối cao và một thẩm phán tòa án quận địa phương. Một số quận không có tòa án khu vực (thường là những quận xa xôi khó đi lại); ở các quận này tòa án quận xét xử sơ thẩm với tư cách là tòa án khu vực. Khi các bang mới gia nhập Hợp chúng quốc, Quốc hội thường không thành lập tòa án khu vực cho những bang này trong nhiều năm. Số lượng khu vực vẫn không thay đổi cho đến một năm sau khi Rhode Island phê chuẩn hiến pháp, khi Đạo luật Thẩm phán Nửa đêm tổ chức lại các quận thành sáu khu vực được đánh số, và thành lập chức thẩm phán khu vực để các thẩm phán Tòa án Tối cao không còn phải đi lại khắp khu vực trong các phiên tòa lưu động. Tuy nhiên, Đạo luật này bị Quốc hội bãi bỏ vào tháng 3 năm 1802 và Quốc hội quyết định rằng ba khu vực cũ sẽ được tái thiết lập vào ngày 1 tháng 7 trong năm đó. Nhưng sau đó Quốc hội lại ban hành Đạo luật Tư pháp năm 1802 vào tháng 4, nên ba khu vực cũ không được tái thiết lập. Đạo luật năm 1802 tái thiết lập các phiên tòa lưu động, nhưng mỗi khu vực chỉ có một thẩm phán Tòa án Tối cao; vì vậy mà có sáu khu vực mới, nhưng với một số khác biệt so với Đạo luật năm 1801. Sáu vùng này sau đó được mở rộng. Cho đến năm 1886, mỗi khi một khu vực mới được thành lập (trừ Khu vực California), một thẩm phán mới được thêm vào Tòa án Tối cao. Ghi chú Tham khảo Khởi đầu năm 1891 ở Hoa Kỳ Tư pháp Hoa Kỳ Chính phủ Hoa Kỳ
19851488
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ernst%2C%20Tuy%E1%BB%83n%20h%E1%BA%A7u%20x%E1%BB%A9%20Sachsen
Ernst, Tuyển hầu xứ Sachsen
Ernst, Tuyển đế hầu xứ Sachsen (24 tháng 3 năm 1441 – 26 tháng 8 năm 1486) là Tuyển hầu tước xứ Sachsen từ năm 1464 và kiêm thêm Bá tước xứ Thuringia từ năm 1482 cho đến khi qua đời vào năm 1486. Ông là con trai trưởng của Frederick II, Tuyển hầu xứ Sachsen, vì thế ông trở thành người sáng lập và tổ tiên của dòng Ernestine, dòng trưởng của Nhà Wettin, em trai của ông là Albrecht III, Công tước xứ Sachsen, người sáng lập và tổ tiên của dòng Albertine. Ernst là cha của 2 tuyển đế hầu Friedrich III và Johann Kiên định, chính là những người bảo vệ Martin Luther và cuộc Cải cách Tin Lành dẫn đến việc hình thành các Nhà nước Tin Lành trên khắp Đế chế La Mã Thần thánh và châu Âu. Cháu nội của ông là Tuyển đế hầu Johann, người lãnh đạo Liên minh Schmalkaldic chống lại Hoàng đế La Mã Thần thánh Karl V của phe Công giáo và đã thất bại, ông và các hậu duệ dòng Ernestine đã đánh mất Tuyển hầu xứ Sachsen vào tay dòng Albertine, tuy nhiên các hậu duệ của ông đã lập ra một nhóm Các công quốc Ernestine, trước khi Đế quốc Đức thất bại trong Thế chiến thứ nhất, chế độ quân chủ bị bãi bỏ thì vẫn 5 nhà nước nằm dưới quyền trị vì của dòng Ernestine. Ngoài ra, hậu duệ dòng này thông qua hôn phối và tuyển cử đã trở thành vua của Vương quốc Anh, Vương quốc Bồ Đào Nha, Vương quốc Bulgaria và Vương quốc Bỉ. Trong khi đó, dòng Albertine đã mất ngai vàng từ năm 1918 và cũng không có ảnh hưởng quốc tế nhiều như dòng Ernestine. Tiểu sử Ernst sinh ra ở Meissen, là người con thứ 4 và là con trai lớn nhất còn sống đến tuổi trưởng thành trong tám người con của Frederick II, Tuyển hầu xứ Sachsen và Margaret của Áo, em gái của Friedrich III của Thánh chế La Mã. Cái chết của anh trai Frederick (1451) khiến ông trở thành người thừa kế mới rõ ràng cho vị trí Tuyển hầu xứ Sachsen. Năm 1455, Công tử Ernst bị bắt cóc một thời gian ngắn, cùng với em trai là Công tử Albert, bởi hiệp sĩ Kunz von Kaufungen, một tình tiết nổi tiếng trong lịch sử Đức với tên gọi Prinzenraub (tức là Vụ đánh cắp các công tử). Năm 1464, ông kế vị cha mình làm Tuyển đế hầu xứ Sachsen và sáp nhập Thuringia vào năm 1482, và 3 năm sau (Hiệp ước Leipzig, 1485) chia sẻ lãnh thổ của mình với em trai Albert, cho đến khi ông sắp xếp việc phân chia tài sản chung. Theo Hiệp ước Leipzig, ông nhận được một khu vực xung quanh Wittenberg, phần phía Nam Thuringia, Vogtland và một phần của Pleissnerland. Ông đã chọn Wittenberg làm kinh đô. Ông cung cấp phúc lợi cho đất nước và đưa ra hiến pháp. Một năm sau khi chia cắt, Ernest qua đời ở Colditz vì bị ngã ngựa, thọ 46 tuổi. Hậu duệ Tại Leipzig vào ngày 19 tháng 11 năm 1460 Ernst kết hôn Elisabeth xứ Bayern. Họ có bảy người con: Christina (25 tháng 12 năm 1461, Torgau8 tháng 12 năm 1521, Odense), kết hôn vào ngày 6 tháng 9 năm 1478 với Vua Johannes I của Đan Mạch Friedrich III, Tuyển hầu xứ Sachsen (17 tháng 1 năm 1463, Torgau5 tháng 5 năm 1525, Lockau) Ernst (26 tháng 6 năm 1464, Meissen3 tháng 8 năm 1513, Halle), Tổng giám mục vương quyền xứ Magdeburg (1476–1480), Giám mục vương quyền xứ Halberstadt (1480–1513) Adalbert (8 tháng 5 năm 1467, Meissen; 1 tháng 5 năm 1484, Aschaffenburg), Quản trị viên của Mainz Johann, Elector of Saxony (30 June 1468, Meissen16 August 1532, Schweinitz) Margarete (4 tháng 8 năm 1469, Meissen; 7 tháng 12 năm 1528, Weimar), kết hôn vào ngày 27 tháng 2 năm 1487 với Henry I, Công tước xứ Brunswick Wolfgang (c. 1473, Meissenc. 1478, Torgau). Tổ tiên Tham khảo Nguồn Tuyển hầu xứ Sachsen Tuyển hầu thân vương tử Sachsen Vương tộc Wettin Sinh năm 1441 Mất năm 1486
19851489
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chae%20Won-bin
Chae Won-bin
Chae Won-bin là nữ diễn viên người Hàn Quốc. Cô được biết với các vai diễn trong các phim điện ảnh lẫn truyền hình như Twenty-Twenty ; When My Love Blooms và The Secret of Secret. Ngoài ra, cô cũng xuất hiện trong phim The Mermaid Prince: The Beginning trong vai Jo A-ra. Sự nghiệp điện ảnh Phim điện ảnh Phim truyền hình Giải thưởng Tham khảo Sinh năm 2001 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên Hàn Quốc Nữ diễn viên Hàn Quốc thế kỷ 21 Diễn viên điện ảnh Hàn Quốc Nữ diễn viên điện ảnh Hàn Quốc Nữ diễn viên truyền hình Hàn Quốc Nữ diễn viên thế kỷ 21
19851499
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phi%C3%AAn%20b%E1%BA%A3n%20%C4%91%E1%BA%B7c%20bi%E1%BB%87t
Phiên bản đặc biệt
Phiên bản đặc biệt (Special edition) hay còn gọi là Phiên bản giới hạn (Limited edition) được sử dụng làm thủ thuật tiếp thị khuyến khích cho nhiều loại sản phẩm, các sản phẩm được xuất bản ban đầu liên quan đến nghệ thuật, chẳng hạn như sách, ấn bản (bản in), sản phẩm nhạc và phim thu âm cũng như trò chơi điện tử, nhưng hiện tại, thuật ngữ này còn đề cập đến bao gồm cả quần áo, ô tô, rượu ngon và rượu whisky, cùng các sản phẩm xa xỉ khác khác. Phiên bản giới hạn bị hạn chế về số lượng bản sao được sản xuất, mặc dù trên thực tế số lượng có thể rất thấp hoặc rất nhiều. Suzuki (2008) định nghĩa các sản phẩm phiên bản giới hạn là những dòng sản phẩm “được bán trong tình trạng khó mua được vì các nhà sản xuất giới hạn số lượng có sẵn của chúng trong một khoảng thời gian, số lượng, khu vực hoặc một kênh phân phối nhất định”. Đại cương Một phiên bản đặc biệt ngụ ý rằng sẽ có thêm một số loại tài liệu, phụ kiện đi kèm. Thuật ngữ này thường được sử dụng trên các bản phát hành phim DVD, thường khi cái gọi là phiên bản "đặc biệt" thực sự là phiên bản duy nhất được phát hành. Với sự thành công của DVD, bản thân các phiên bản đặc biệt của phim Titanic (thay vì chỉ là phiên bản đặc biệt của DVD phim) cũng trở nên khá phổ biến. Chúng thường có thêm tài liệu trong phim. Tài liệu có thể là cảnh quay ban đầu bị xóa khỏi bản cắt cuối cùng hoặc nội dung nội suy mới được tạo bằng kỹ thuật số. Không giống như những đoạn cắt xén của đạo diễn, các đạo diễn có thể không tham gia vào những dự án như vậy, chẳng hạn như trong Superman II: The Richard Donner Cut, trong đó Richard Donner không giúp tạo ra phiên bản mới mà chỉ cung cấp chất liệu cho đoạn phim. Trong lĩnh vực ấn bản thì đây là thuật ngữ chỉ về một tựa sách hay cuốn sách được phát hành với số lượng ấn bản (bản in) có hạn, thường ít hơn 1000 bản (nhỏ hơn nhiều so với tiêu chuẩn ngành xuất bản). Thuật ngữ này hàm ý sự khan hiếm hoặc độc quyền. Số lượng in càng nhiều thì khả năng cuốn sách trở nên khan hiếm và do đó càng tăng giá trị càng ít. Phiên bản giới hạn được các nhà xuất bản giới thiệu vào cuối thế kỷ XIX. Ở Việt Nam, khoảng dịp cận Tết năm 2024, thì mạng xã hội Việt Nam xôn xao khi doanh nhân Shark Hưng và doanh nhân nhà thiết kế Quách Thái Công cùng khoe bán chiếc đùi heo muối Tây Ban Nha (Jamón Ibérico) phiên bản giới hạn giá lên tới 112 triệu đồng/chiếc. Theo quảng cáo của họ thì đây là loại đùi heo muối (Jamón) đắt nhất thế giới, giá của mỗi chiếc đùi heo là 4.500 USD, tương đương 112 triệu đồng, bình thường chỉ treo 24 đến 30 tháng nhưng đùi heo này đã ủ muối đến 60 tháng, loại này chỉ lấy chiếc đùi phía trước của con heo và thực tế thì đùi heo muối hay Jamón Ibérico là một trong những loại thịt heo muối đắt nhất thế giới vì chúng được làm bằng đùi heo đen Iberico Tây Ban Nha. Cả thế giới chỉ có 499 chiếc đùi heo muối phiên bản giới hạn này. Tại thị trường Việt Nam thì đùi heo muối được bán la liệt với giá khá rẻ, dao động từ 1,2-6,5 triệu đồng/chiếc, tuỳ loại và tuỳ trọng lượng. Chú thích Tiếp thị Xuất bản
19851510
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ADt%20khu%20Long%20Nguy%C3%AAn
Mật khu Long Nguyên
Mật khu Long Nguyên là một khu vực địa lý của Việt Nam Cộng hòa, nơi có rừng rậm nằm giữa Quốc lộ 13 và đồn điền cao su Michelin, cách Sài Gòn khoảng về phía tây bắc, thuộc tỉnh Bình Dương, từng là nơi trú ẩn của mấy sư đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN). Đây là nơi diễn ra nhiều hoạt động quân sự trong Chiến tranh Việt Nam, bao gồm Chiến dịch Bushmaster II và Chiến dịch Shenandoah II. Tham khảo Chiến khu Việt Nam Chiến tranh Việt Nam Chiến trường Việt Nam Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam Địa danh trong Chiến tranh Việt Nam Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam Căn cứ địa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
19851511
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ADt%20khu%20M%C3%A2y%20T%C3%A0o
Mật khu Mây Tào
Mật khu Mây Tào nằm ở dãy núi Mây Tào của Việt Nam Cộng hòa, một khu vực có rừng rậm nằm ở ngã tư các tỉnh Long Khánh, Phước Tuy và Bình Tuy, từng là nơi trú ẩn của mấy sư đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN). Khu vực này còn là nơi đặt tổng hành dinh của Sư đoàn 5 và Trung đoàn 275 QGPMNVN. Đây là địa điểm diễn ra nhiều chiến dịch quân sự của Mỹ, Úc và New Zealand trong Chiến tranh Việt Nam. Tham khảo Chiến khu Việt Nam Chiến tranh Việt Nam Chiến trường Việt Nam Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam Địa danh trong Chiến tranh Việt Nam Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam Căn cứ địa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
19851514
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lo%E1%BA%A1i%20b%E1%BB%8F%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20ti%E1%BB%87n%20giao%20th%C3%B4ng%20d%C3%B9ng%20nhi%C3%AAn%20li%E1%BB%87u%20h%C3%B3a%20th%E1%BA%A1ch
Loại bỏ phương tiện giao thông dùng nhiên liệu hóa thạch
Các phương tiện giao thông chạy bằng nhiên liệu hóa thạch, chẳng hạn như xăng, dầu diesel, dầu hỏa và dầu mazut, đã được nhiều quốc gia lên kế hoạch loại bỏ dần. Loại bỏ phương tiện giao thông dùng nhiên liệu hóa thạch là một trong ba chương trình quan trọng nhất của quá trình loại bỏ nhiên liệu hóa thạch nói chung, hai chương trình còn lại là loại bỏ nhà máy điện dùng nhiên liệu hóa thạch để sản xuất điện và khử cacbon trong công nghiệp. Nhiều quốc gia và thành phố trên thế giới tuyên bố họ sẽ cấm bán các phương tiện chở khách (chủ yếu là ô tô và xe buýt) chạy bằng nhiên liệu hóa thạch theo một lộ trình đã được lập kế hoạch. Dẫn đầu là Na Uy với 82,38% xe bán mới là xe điện vào năm 2023 và trên lộ trình 100% xe bán mới không phát thải vào 2025. Các kế hoạch này còn được nhắc đến bằng các từ ngữ như "cấm xe xăng", "cấm xe xăng dầu", hoặc "cấm diesel". Một phương pháp loại bỏ dần phương tiện gây phát thải khác là sử dụng các vùng không phát thải ở các thành phố. Bên cạnh phương tiện chở khách, một số nơi cũng đã ấn định ngày cấm tàu biển và xe tải chạy bằng nhiên liệu hóa thạch. Bối cảnh Có nhiều lý do để tiến đến cấm bán và lưu hành các phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch: giảm rủi ro sức khỏe từ các hạt ô nhiễm, đặc biệt là PM10 của động cơ diesel và các khí thải khác, đặc biệt là nitơ oxide; đáp ứng các mục tiêu về khí nhà kính quốc gia, chẳng hạn như CO2, theo các thỏa thuận quốc tế như Nghị định thư Kyoto và Thỏa thuận chung Paris; hoặc đảm bảo an ninh năng lượng cho quốc gia. Một nghiên cứu vào năm 2021 của Đại học Harvard ước tính khoảng 8 triệu người chết sớm mỗi năm do ô nhiễm gây ra bởi nhiên liệu hóa thạch, nhiều hơn tổng số người chết do các cuộc chiến tranh đương đại, do tội phạm có vũ trang, và do thuốc lá cộng lại. Chỉ cần 37% xe ở Trung Quốc là xe điện cũng có thể cứu được 15.000 người chết sớm vì ô nhiễm không khí mỗi năm. Thực thi việc cấm các phương tiện chạy bằng nhiên liệu hóa thạch đơn giản hơn so với thuế carbon hoặc loại bỏ nhiên liệu hóa thạch một cách tổng thể. Ngành công nghiệp ô tô đang nỗ lực giới thiệu các loại xe điện để thích ứng với các lệnh cấm. Một nghiên cứu năm 2020 của Đại học Công nghệ Eindhoven cho thấy lượng khí thải trong quá trình sản xuất pin của ô tô điện mới nhỏ hơn nhiều so với giả định trong nghiên cứu IVL năm 2017 (khoảng 75 kg CO2/kWh) và tuổi thọ của pin li-ion cũng dài hơn nhiều so với suy nghĩ trước đây (ít nhất 12 năm với quãng đường 15.000 km hàng năm). Tính cả vòng đời sử dụng, từ khâu khai thác nguyên liệu, sản xuất, đến lúc dùng hết khấu hao, ô tô điện phát thải ít hơn ô tô chạy bằng dầu diesel hoặc xăng cùng phân khúc. Có một số ý kiến cho rằng chỉ chuyển từ ô tô chạy bằng nhiên liệu hóa thạch sang ô tô điện vẫn đòi hỏi một tỷ lệ lớn đất đô thị dành cho ô tô. Việc sử dụng các loại phương tiện (điện) chiếm ít không gian, chẳng hạn như xe đạp, xe máy điện, hoặc thậm chí đi bộ trên những khoảng cách ngắn, đặc biệt là ở khu vực thành thị, sẽ giúp loại bỏ đường và bãi đậu xe cho ô tô, đồng thời cải thiện cơ sở hạ tầng và lối đi dành cho xe đạp (bao gồm cả vỉa hè). Mặc dù vẫn còn rất ít thành phố hoàn toàn không có ô tô (chẳng hạn như Venice), một số thành phố đang cấm tất cả ô tô ở một số khu vực. Kế hoạch Quốc tế Tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc năm 2021 được tổ chức tại Glasgow, nhiều chính phủ và công ty đã ký một tuyên bố không ràng buộc về mặt pháp lý nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang ô tô và xe tải van không phát thải, gọi là Tuyên bố Glasgow. Tuyên bố này nêu lên mục tiêu tất cả ô tô và xe tải van mới không thải ra bất kỳ loại khí nhà kính nào ở ống xả vào năm 2035 tại các thị trường hàng đầu và đến năm 2040 trên toàn cầu. Mỹ và Trung Quốc (thị trường ô tô lớn nhất) và Đức (thị trường ô tô lớn nhất EU) không ký vào Tuyên bố này. Cũng vắng mặt trong danh sách ký kết còn có các nhà sản xuất ô tô lớn là Volkswagen, Toyota, Renault-Nissan và Hyundai-Kia. Liên minh Châu Âu Năm 2018, Đan Mạch đề xuất lệnh cấm trên toàn EU đối với ô tô chạy xăng và dầu diesel, nhưng đề xuất này bị cho là trái với quy định của EU. Vào tháng 10 năm 2019, Đan Mạch cập nhật đề xuất, với lộ trình loại bỏ dần phương tiện sử dụng nhiên liệu hóa thạch ở các quốc gia thành viên vào năm 2030 và được 10 quốc gia thành viên EU khác ủng hộ. Vào tháng 7 năm 2021, Pháp phản đối lệnh cấm ô tô chạy bằng động cơ đốt và đặc biệt là xe hybrid. Tuy nhiên, cùng thời gian này, Ủy ban Châu Âu đã đề xuất giảm 100% lượng khí thải đối với ô tô và xe tải van bán mới kể từ năm 2035. Vào ngày 8 tháng 6 năm 2022, Nghị viện Châu Âu đã bỏ phiếu ủng hộ đề xuất của Ủy ban Châu Âu, nhưng cần phải có thỏa thuận với các quốc gia thành viên Liên minh Châu Âu trước khi luật cuối cùng có thể được thông qua. Vào ngày 22 tháng 6 năm 2022, Bộ trưởng Tài chính Đức Christian Lindner tuyên bố rằng chính phủ của ông sẽ không đồng ý với lệnh cấm. Nhưng vào ngày 29 tháng 6 năm 2022, sau 16 giờ đàm phán, tất cả các bộ trưởng khí hậu của 27 quốc gia thành viên EU đã đồng ý với đề xuất của ủy ban (một phần của gói 'Fit for 55') để cấm bán xe đốt trong mới vào năm 2035 (thông qua '[triển khai] mục tiêu giảm 100% lượng khí thải CO2 vào năm 2035 đối với ô tô và xe tải van mới'). Luật "không phát thải CO2 cho ô tô và xe tải van mới vào năm 2035" đã được Nghị viện Châu Âu thông qua vào ngày 14 tháng 2 năm 2023. Các quốc gia Các thành phố và vùng lãnh thổ Các nhà sản xuất Đường sắt Hoạt động điện hóa đường sắt đã diễn ra vì nhiều lý do không hẳn liên quan đến phát thải khí nhà kính, tuy vậy đầu thế kỷ 21 chứng kiến sự tăng tốc trong việc thay thế các đầu máy diesel bằng BEMU, hoặc đầu máy dùng nhiên liệu hydro, như Alstom Coradia iLint, hoặc đầu máy chạy điện dùng đường cấp điện trên không. Đến nay, Thụy Sĩ đã có toàn bộ đường sắt điện hóa, do khó khăn trong nhập khẩu than cho đầu máy hơi nước trong các cuộc chiến tranh, trong khi đất nước này có nhiều nhà máy thủy điện. Đường sắt Israel đang có kế hoạch điện hóa phần lớn hoặc toàn bộ mạng lưới. Ở California, chương trình Điện hóa Caltrain đã được phê duyệt năm 2016 và sẽ hoàn thành vào 2024. Đường biển Tại vùng biển di sản thế giới Geirangerfjord và Nærøyfjord ở Na Uy, các tàu bè đi qua không được phép phát thải từ 2026. Các loại tàu thuyền không phát thải đã được nghiên cứu triển khai gồm loại dùng động cơ điện chạy pin và loại sử dụng động cơ tàu biển hạt nhân. Động cơ hạt nhân đã được sử dụng bởi hải quân nhiều nước, trong các tàu ngầm hạt nhân và tàu sân bay hạt nhân. Một số tàu phá băng hạt nhân cho mục đích dân dụng cũng đã được vận hành, như tàu Otto Hahn (Đức) NS Savannah (Hoa Kỳ), RV Mirai (Nhật Bản), tuy nhiên hiện nay chỉ còn tàu Sevmorput của Nga, chế tạo bởi Liên Xô vào những năm 1980, đang hoạt động cho mục đích phi quốc phòng. Liên Xô, và nay là Nga, cũng có một hạm đội tàu phá băng hạt nhân cho mục đích quốc phòng, hoạt động để duy trì thông thuyền cho Tuyến Biển Bắc. Thuyền buồm và thuyền mái chèo sử dụng nguồn năng lượng gió hoặc năng lượng sức người đã bị loại bỏ qua dòng phát triển của lịch sử, do tốc độ chậm và tốn nhân lực. Tuy nhiên, cũng có một số thử nghiệm phát triển các loại tàu thuyền năng lượng gió mới. Các du thuyền hoạt động bằng năng lượng mặt trời và nhiên liệu hydro cũng đã được thử nghiệm. Đường không Na Uy, và có thể các quốc gia Scandinavia khác, đang lên mục tiêu các chuyến bay nội địa không phát thải từ 2040. Một trở ngại cho việc giảm phát thải ngành hàng không nằm ở mật độ năng lượng của công nghệ pin. Do đó, bên cạnh việc phát triển máy bay điện, cũng có đầu tư vào nhiên liệu hàng không bền vững, hoặc nhiên liệu điện tử (e-fuel) được sản xuất bằng quá trình điện hóa để tổng hợp nước và carbon dioxide thành hydrocarbon, thay thế nhiêu liệu hóa thạch. Năm 2021, nhà máy e-fuel cho hàng không đã được vận hành ở Đức. Công suất sẽ đạt 8 thùng mỗi ngày vào 2022. Lufthansa sẽ là khách hàng chính của nhà máy này. Chiến lược phát thải ròng bằng không cho ngành hàng không Đức phụ thuộc nhiều vào e-fuel. Sản lượng e-fuel hiện nay còn nhỏ, và cần được nhanh chóng mở rộng; giá thành e-fuel còn cao, và hiện chưa có chính sách giá carbon hiệu quả cho ngành hàng không. Quy định hiện tại của CORSIA chỉ yêu cầu nhiên liệu hàng không bền vững phát thải không quá 90% so với nhiên liệu hóa thạch, khiến cho mục tiêu trung hòa carbon còn xa vời. Đã có thử nghiệm máy bay hạt nhân trong Chiến tranh Lạnh, nhưng chưa có kết quả. Hiện nay, các chuyến bay ngắn có thể vận hành bằng máy bay điện, và nhiều nhà sản xuất đang nhắm đến thị trường taxi bay. Heart Aerospace đang lên kế hoạch cung cấp máy bay điện cho United Airlines vào năm 2026. Xử lý phương tiện cũ Đã xuất hiện thị trường buôn xe xăng dầu cũ từ Tây Âu sang Đông Âu, các nước Kavkaz, Trung Á và Châu Phi. Theo UNECE, tổng số phương tiện giao thông đường bộ sẽ tăng từ 1,2 tỷ năm 2020 lên 2,5 tỷ năm 2050, trong đó đa phần xe mua mới ở các nước phát triển. Số phương tiện ở các nước đang phát triển sẽ tăng khoảng 4 đến 5 lần từ 2020 đến 2050, đa phần sẽ là xe cũ được mua lại. Hiện chưa có thỏa thuận quốc tế hoặc khu vực nào điều tiết dòng xe cũ này. Riêng xe điện 2 bánh có thể được tiêu thụ mới ở các nước đang phát triển, nhờ giá rẻ. Các xe động cơ đốt trong cũ không còn thỏa mãn quy định phát thải của các nước phát triển sẽ được xuất sang các nước đang phát triển, những nơi yêu cầu phát thải nới lỏng hơn. Tại một số nước đang phát triển, như Uganda, tuổi đời của xe nhập khẩu đã đang là 16,5 năm, và chúng sẽ còn được sử dụng tiếp khoảng 20 năm nữa. Hiệu suất nhiên liệu của những xe đó sẽ ngày càng kém khi chúng ngày càng trở nên cũ. Một số giải pháp đã được đề xuất để giảm phát thải của lượng xe cũ: Cấm xuất khẩu: Có đề xuất rằng Liên minh Châu Âu có thể quy định không cho xe phát thải cao rời EU. EU có thể sẽ xem xét lại các quy định quản lý việc vận chuyển và xuất khẩu rác thải, bao gồm xe cũ. Cấm nhập khẩu: Có đề xuất ở nhiều quốc gia, bao gồm quốc gia đang phát triển, về việc cấm nhập khẩu xe cũ quá một ngưỡng tuổi thọ, tăng thuế hoặc phí đăng kiểm, tăng điều kiện đăng kiểm với xe cũ nhập khẩu. Chuyển đổi xe cũ sang xe điện: Nhiều nhà sưu tập xe cổ đang có xu hướng chuyển đổi chúng sang sử dụng động cơ điện. Quy định tái chế: Ủy ban Châu Âu đang xem xét kế hoạch bắt buộc tái chế ít nhất là một số thành phần của xe cũ, như vật liệu, pin. EU đã công bố Kế hoạch Hành động Kinh tế Tuần hoàn vào tháng 3 năm 2020, có nhắc đến việc xem xét lại Chỉ thị về Xe hết hạn để kích thích phát triển kinh tế tuần hoàn. Chương trình tiêu hủy: các chính phủ có thể cung cấp các khoản trợ cấp, hoặc tín dụng, cho các chủ xe tự nguyện tiêu hủy xe động cơ đốt trong cũ và chuyển đổi sang xe mới sạch hơn. Ví dụ, thành phố Gent tặng 1000 € cho mỗi xe dầu tiêu hủy và 750 € cho mỗi xe xăng tiêu hủy; và đến tháng 12 năm 2019, đã có quỹ 1,2 tỷ € cho việc này. Xem thêm Loại bỏ nhiên liệu hóa thạch Xe chạy điện Xe hybrid Xe hydro Di chuyển thông minh Cấm bay chặng ngắn Chú thích Tham khảo Loại bỏ nhiên liệu hóa thạch Phương tiện giao thông dùng điện Thay đổi công nghệ Giao thông thập niên 2020 Nhiên liệu hóa thạch Danh sách liên quan đến sức khỏe Biến đổi năng lượng Công nghệ năng lượng tái tạo Dự trữ năng lượng Năng lượng trong giao thông Kinh tế năng lượng Khủng hoảng năng lượng Danh sách kinh tế Danh sách liên quan đến công nghệ Phát triển bền vững Tác động của biến đổi khí hậu Carbon Kinh tế học bền vững Phát triển năng lượng Chạy đua công nghệ Công nghệ lỗi thời Giảm thiểu biến đổi khí hậu en:Phase-out of fossil fuel vehicles
19851518
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hacienda%20%28khu%20ngh%E1%BB%89%20d%C6%B0%E1%BB%A1ng%29
Hacienda (khu nghỉ dưỡng)
Hacienda từng là một khách sạn kiêm sòng bạc hoạt động từ năm 1956 đến 1996 trên Dải Las Vegas. Nơi đây thuộc sở hữu của Warren Bayley, chủ chuỗi Hacienda tại California. Tháng 6 năm 1956, Hacienda chào đón du khách với 266 phòng nghỉ sang trọng và hồ bơi - lớn nhất Las Vegas thời bấy giờ. Tuy nhiên, sòng bạc dự kiến đi kèm phải trì hoãn ra mắt do tranh cãi về vấn đề quản lý. Cuối cùng, vào ngày 17 tháng 10 năm 1956, sòng bạc chính thức hoạt động, góp phần đưa Hacienda trở thành điểm đến sôi động thu hút du khách. Hacienda tọa lạc tại vị trí đắc địa, nằm ở đầu phía nam của Dải Las Vegas. Nhờ lợi thế này, Hacienda trở thành khu nghỉ dưỡng đầu tiên mà du khách từ California nhìn thấy khi lái xe đến thành phố. Vào thời điểm đó, Hacienda còn khá biệt lập so với các khu nghỉ dưỡng khác, tọa lạc cách xa khu vực sầm uất. Chính vì vị trí độc đáo này mà phần lớn du khách đều chọn lưu trú tại đây thay vì các khu nghỉ dưỡng khác. Hacienda cũng là khu nghỉ dưỡng đầu tiên ở Las Vegas hướng đến khách hàng gia đình. Nơi đây còn tiên phong khai thác dịch vụ đưa đón khách từ ngoài tiểu bang bằng máy bay vào năm 1962. Năm 1964, sau khi ông Bayley qua đời, bà Judy Bayley - vợ ông - đã tiếp quản Hacienda. Bà trở thành người phụ nữ đầu tiên và duy nhất điều hành một sòng bạc tại Las Vegas vào thời điểm đó. Sau khi bà Judy qua đời vào năm 1971, khu nghỉ dưỡng được bán cho một nhóm nhà đầu tư. Họ đã xây dựng thêm một bãi đậu xe dành cho xe RV để đáp ứng nhu cầu của du khách. Năm 1977, Paul Lowden - một trong những chủ sở hữu trước đây - đã mua lại toàn bộ Hacienda. Bắt đầu từ thập niên 70, Hacienda tổ chức nhiều chương trình trượt băng và sau đó là màn trình diễn ảo thuật kéo dài 5 năm của Lance Burton. Năm 1979, nhà thờ nhỏ phía Tây được di dời đến khu đất của Hacienda. Hai tòa tháp khách sạn 11 tầng được xây dựng vào năm 1980 và 1991, nâng tổng số phòng lên 1.137. Năm 1995, tập đoàn Circus Circus Enterprises mua lại Hacienda với dự định xây dựng một khu nghỉ dưỡng mới tại vị trí này. Hacienda chính thức đóng cửa vào ngày 1 tháng 12 năm 1996. Cuối tháng đó, khách sạn bị phá hủy bằng cách cho nổ tung trong một chương trình truyền hình đặc biệt chào đón năm mới. Các phần còn lại của khách sạn được dỡ bỏ hoàn toàn vào tháng 1 năm 1997. Tập đoàn Circus Circus Enterprises khai trương khu nghỉ dưỡng Mandalay Bay trên khu đất này vào năm 1999. Tên Hacienda được sử dụng cho một cơ sở kinh doanh khác, Khách sạn và Sòng bạc Hacienda, tọa lạc gần Thành phố Boulder, Nevada. Biển hiệu ngựa neon của Hacienda được bảo tồn và trưng bày tại trung tâm thành phố Las Vegas. Lịch sử Xây dựng và khai trương Ban đầu Hacienda mang tên Lady Luck, là dự án khách sạn-sòng bạc do Carlton Adair đề xuất năm 1954. Adair hợp tác với Stanley Burke (chủ đất) và Warren "Doc" Bayley (chủ chuỗi nhà nghỉ Hacienda). Theo thỏa thuận, Adair quản lý sòng bạc, Burke sở hữu đất đai và tòa nhà, còn Bayley phụ trách khách sạn . Các chủ sở hữu dự kiến hoàn thành dự án trước khi khu nghỉ dưỡng Tropicana khai trương. Dự án Lady Luck được Ủy ban Kế hoạch Quận Clark thông qua vào tháng 1 năm 1955 và bắt đầu xây dựng vào cuối năm đó . Tuy nhiên, do thiếu nguồn vốn đầu tư, dự án gặp khó khăn khi mới thi công được một nửa. Bayley đã tiếp quản dự án, đổi tên thành Hacienda và loại bỏ Adair khỏi danh sách đối tác. Sau đó, chỉ còn lại Bayley và Burke hợp tác với nhau. Bayley đồng ý thuê khu đất với giá 55.000 USD mỗi tháng trong 15 năm. Kiến trúc sư Homer A. Rissman là người thiết kế Hacienda theo phong cách phổ biến tại Las Vegas thời bấy giờ, bao gồm tòa nhà trung tâm cho sòng bài, nhà hàng và các dãy nhà trọ. Rissman thiết kế các dãy nhà trọ nối liền với sòng bài bằng hành lang kính. Ban đầu, Hacienda có nhà hát ăn uống 300 chỗ ngồi. Tuy nhiên, do chi phí cho nghệ sĩ biểu diễn cao, chủ sở hữu quyết định chuyển đổi không gian thành nơi tổ chức hội nghị thay vì giải trí trực tiếp, và cung cấp dịch vụ giải trí trong phòng khách sạn. Hacienda mở cửa khu khách sạn vào tháng 6 năm 1956. Do thiếu kinh nghiệm quản lý sòng bài, Bayley và Burke hợp tác với nhà đầu tư Jake Kozloff. Tuy nhiên, dự án gặp rào cản khi bị từ chối cấp phép vì Kozloff. Sau khi Kozloff rút lui, Hacienda được cấp phép và sòng bài bắt đầu hoạt động vào ngày 17 tháng 10 năm 1956. Với vốn đầu tư 6 triệu USD, Hacienda sở hữu 266 phòng và hồ bơi lớn nhất dải Las Vegas. Giống như các khách sạn Hacienda khác, khách sạn tại Las Vegas có biển hiệu đèn neon mô tả hình ảnh cao bồi cưỡi ngựa palomino, do YESCO thiết kế và trở thành một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của công ty. Nằm ở đầu phía nam Dải Las Vegas, Hacienda là khu nghỉ dưỡng đầu tiên du khách từ California nhìn thấy. Vị trí biệt lập, bao quanh bởi sa mạc khiến nhiều người dự đoán Hacienda sẽ thất bại. Tuy nhiên, khu nghỉ dưỡng lại phát triển mạnh mẽ trong nhiều năm nhờ vị trí xa xôi, thu hút du khách lưu trú thay vì di chuyển đến các nơi khác. Hacienda cũng nổi tiếng nhờ vị trí gần Sân bay Quốc tế McCarran. Tuy nhiên, nơi đây chưa bao giờ đạt được thành công như các khu nghỉ dưỡng khác trên Dải như Dunes và Sands. Năm 1957, chỉ vài tháng sau khi Hacienda chính thức đi vào hoạt động, Kozloff đã đệ đơn kiện lên tòa án, yêu cầu Hacienda thanh toán khoản nợ 71.000 USD từ khoản vay mua tài sản trước đây. Ba tháng sau đó, Burke tiếp tục đưa ra nhiều cáo buộc chống lại Bayley, đồng thời yêu cầu tòa án chuyển Hacienda vào quyền quản lý của mình. Bayley phản bác lại tất cả những cáo buộc này, trong đó có việc ông ta đã sử dụng sai mục đích nguồn vốn của Hacienda. Cuối năm 1957, bất chấp những tranh chấp đang diễn ra, kế hoạch xây dựng thêm phòng khách sạn tại Hacienda vẫn được triển khai. Chiêu thị Bayley liên tục sáng tạo để thu hút du khách. Ông thành lập Hacienda Airlines, cung cấp gói dịch vụ trọn gói từ Los Angeles đến Hacienda, bao gồm vé máy bay, phòng nghỉ và chip đánh bạc. Dịch vụ này thành công vang dội nhờ giá rẻ, quảng cáo rầm rộ và hướng đến khách bình dân. Sau đó, dịch vụ được mở rộng toan quốc. Hãng sử dụng 30 chiếc máy bay DC-3, DC-4 và Lockheed Constellations. Một điểm độc đáo là một chiếc máy bay có quầy bar piano với màn trình diễn âm nhạc của nam diễn viên Dick Winslow trong suốt chuyến bay . Hành khách còn được phục vụ rượu sâm panh và chiêm ngưỡng màn trình diễn nội y của các nữ tiếp viên hàng không trẻ đẹp, thu hút đông đảo du khách nam giới. Đến cuối năm 1960, Hacienda đã đón 150.000 du khách và trở thành nhà tiêu thụ rượu sâm panh California lớn nhất. Năm 1962, Ủy ban Hàng không Dân dụng (CAB) ra lệnh đóng cửa các chuyến bay đến Hacienda. CAB cáo buộc khu nghỉ dưỡng này hoạt động như một hãng hàng không chở khách mà không có giấy phép. Hacienda phủ nhận điều này, khẳng định khách được miễn phí vé máy bay và chỉ thanh toán cho phòng ốc và thức ăn. Tuy nhiên, CAB cho rằng việc khách trả tiền trước khi lên máy bay về bản chất là mua vé máy bay. Khu nghỉ dưỡng còn triển khai chương trình khuyến mãi "Hacienda Holiday" dành cho du khách, tặng kèm thẻ đánh bạc trị giá 10 USD trong gói dịch vụ trọn gói 16 USD. Năm 1958, hội đồng cấp phép của Quận Clark yêu cầu Hacienda tạm dừng chương trình này vì các thẻ chip có thể đổi lấy tiền mặt tại sòng bạc. Hội đồng cho phép sử dụng thẻ chip cho các dịch vụ khác, nhưng phản đối việc sử dụng trong sòng bạc vì lo ngại sẽ thúc đẩy hoạt động cờ bạc. Chương trình khuyến mãi này được duy trì trong ít nhất 20 năm sau đó và đổi tên thành Lễ hội Champagne Hacienda. Hacienda tài trợ cho một kỷ lục bay ấn tượng vào cuối năm 1958. Hai phi công thay phiên nhau lái chiếc Cessna 172 bay qua vùng Tây Nam Hoa Kỳ trong 64 ngày liên tục. Tuy nhiên, chiến dịch quảng bá không đạt hiệu quả như mong muốn. Phải đến 30 ngày sau khi máy bay cất cánh, báo chí mới đưa tin về sự kiện này và họ cố tình không đề cập đến Hacienda. Dick Taylor, tổng giám đốc của Hacienda, cho biết: "Khi phát hiện ra sự gian lận, các tờ báo đã làm theo đúng nghĩa vụ của họ. Họ xóa tên Hacienda khỏi mọi bài báo, thậm chí xóa cả dòng chữ tên Hacienda được sơn rất lớn trên thân máy bay." Thay đổi quyền sở hữu Năm 1964, ông Bayley qua đời vì chứng bệnh nhồi máu cơ tim, để lại khu nghỉ dưỡng Hacienda cho người vợ góa Judith Bayley. Bà trở thành người phụ nữ duy nhất điều hành sòng bạc tại Las Vegas thời bấy giờ, được mệnh danh là "Đệ nhất phu nhân cờ bạc". Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm kinh doanh, bà gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý sòng bài và liên tục thua lỗ hàng trăm đô la trong những tháng đầu tiên. Dưới sự lãnh đạo của bà, Hacienda tập trung vào các dịch vụ giải trí dành cho gia đình như trò chơi shuffleboard và dịch vụ giữ trẻ. Phòng chờ Jewel Box được cải tạo và mở cửa trở lại vào năm 1965, tiếp theo là phòng chơi keno. Thị trưởng Las Vegas Oran Gragson đã tham dự cả hai sự kiện khai trương . Tuy nhiên, một ủy viên quận đã phản đối việc bổ sung trò chơi keno vì lo ngại nó sẽ tạo ra bầu không khí ồn ào náo nhiệt giống như khu vực Phố Fremont. Năm 1966, Ủy ban Quận Clark đe dọa đóng cửa Hacienda nếu bà Bayley không cải thiện khu nghỉ dưỡng mà công ty của bà đang xây dựng tại Mount Charleston. Năm 1970, bà Bayley quyết định bán hết các khách sạn ở California, trừ một khách sạn ở El Segundo, để tập trung phát triển Las Vegas Hacienda. Tháng 12 năm 1971, bà Judy Bayley qua đời vì ung thư, hưởng thọ 56 tuổi. Tài sản của bà được chia cho trợ lý Joan Rashbrook và luật sư Calvin Magleby. Vài tuần sau, Magleby thông báo American Mining and Smelting Inc. sẽ mua lại Hacienda và dự kiến sẽ mở rộng, cải tạo khu nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, thương vụ này không thành. Cuối năm 1972, Hacienda được bán với giá 5 triệu USD cho một nhóm đầu tư gồm Allen R. Glick, Paul Lowden và Eugene Fresch. Lowden góp 250.000 USD để sở hữu 15% cổ phần của khu nghỉ dưỡng và đồng thời đảm nhiệm vị trí giám đốc giải trí. Hacienda bắt đầu xây dựng Travel World vào năm 1973. Travel World là một khu công viên dành cho du khách sử dụng xe nhà lưu trú (RV) ngay cạnh khu nghỉ dưỡng. Năm 1974, Hacienda trở thành một phần của Argent Corporation, công ty do Allen R. Glick sở hữu và điều hành. Fresch và Lowden vẫn giữ lại một phần quyền lợi trong khu nghỉ dưỡng. Khu công viên RV Travel World chính thức mở cửa vào năm 1975 với 452 chỗ đỗ xe. Đây là một phần trong dự án cải tạo trị giá 7 triệu USD của Hacienda. Năm 1976, Argent tuyên bố bán Hacienda với giá 21 triệu USD cho doanh nhân Joseph Gennitti đến từ Hawaii. Gennitti cũng sẽ chịu trách nhiệm thanh toán khoản nợ hơn 11 triệu USD của khu nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, thỏa thuận này đã bị hủy bỏ do Gennitti không cung cấp cho Glick thông tin chi tiết về nguồn tài chính cho việc mua bán. Sau đó, hai nhóm đầu tư khác nhau đã bắt đầu đàm phán để mua lại Hacienda. Cuối năm 1976, các nhà điều tra tiểu bang phát hiện ra rằng tiền đã được chuyển từ các máy đánh bạc tại các sòng bạc của Glick, bao gồm cả Hacienda. Tháng 1 năm 1977, Ông Paul Lowden, chủ tịch khách sạn Hacienda, đã mua lại toàn bộ phần lợi ích còn lại của khu nghỉ dưỡng từ Argent và Fresch với giá 21 triệu USD. Để huy động vốn cho thương vụ này, ông Lowden đã hợp tác với một số cá nhân khác. Tuy nhiên, Ban kiểm soát trò chơi Nevada nghi ngờ ông Lowden gian dối và cáo buộc rằng những người có hồ sơ không minh bạch sẽ âm thầm nắm quyền kiểm soát Hacienda thông qua ông. Ông Lowden phủ nhận cáo buộc này và khẳng định mình là người mua duy nhất. Ban kiểm soát đề nghị phản đối thương vụ mua bán, nhưng Ủy ban trò chơi Nevada đã bác bỏ đề xuất này. Chủ tịch ủy ban Harry Reid cho biết không có bằng chứng nào chứng minh cho cáo buộc của Ban kiểm soát, đồng thời chỉ trích các cơ quan kiểm toán "không làm tốt công việc điều tra". Thương vụ mua bán được hoàn tất vào tháng 7 năm 1977. Từ năm 1978, khách sạn Hacienda bắt đầu cung cấp dịch vụ chia sẻ thời gian cho các phòng và dãy phòng cao cấp. Chương trình này thu hút 3.000 thành viên chỉ sau hai năm triển khai. Hacienda cũng hợp tác với Resort Condominiums International, một mạng lưới trao đổi giúp chủ sở hữu chia sẻ thời gian đổi chác căn hộ của họ với nhau. Năm 1979, nhà thờ nhỏ Western Chapel được di dời từ vị trí xa hơn về phía bắc dải Las Vegas đến khu đất của Hacienda để nhường chỗ cho Trung tâm Triển lãm Thời trang mới. Đến năm 1980, Hacienda sở hữu quán bít tết nổi tiếng The Charcoal Room. Cùng năm, Hacienda khởi công dự án mở rộng trị giá 30 triệu USD dự kiến hoàn thành vào cuối năm. Dự án bao gồm tòa tháp 11 tầng với 300 phòng, nâng tổng số phòng của khách sạn lên 538 phòng. Ngoài ra, trung tâm hội nghị Matador Arena rộng 22.000 mét vuông cũng được xây dựng. Matador Arena không chỉ phục vụ các hội nghị mà còn tổ chức các trận đấu quyền anh chuyên nghiệp được truyền hình hàng tháng. Cuối năm 1982, ca sĩ Wayne Newton đã thảo luận về việc trở thành đồng sở hữu của hai khu nghỉ dưỡng Hacienda và Sahara trên dải Las Vegas cùng với Paul Lowden, chủ sở hữu của chúng. Tuy nhiên, sau hai tháng đàm phán, Newton đã từ bỏ ý định này vì đang cân nhắc mua lại các khu nghỉ dưỡng khác. Vào giữa thập niên 1980, khu công viên dành cho xe cắm trại mang tên Hacienda Adventure Camperland đã đi vào hoạt động . Khu công viên rộng 6,5 ha này bao gồm 451 khu cắm trại, một hồ bơi và sân chơi. Năm 1989, Lowden công bố kế hoạch trị giá 30 triệu USD để xây dựng thêm một tòa tháp 400 phòng và mở rộng sòng bạc. Tòa tháp được hoàn thành vào năm 1991, nâng tổng số phòng lên 1.137 phòng. Việc mở rộng cũng giúp tăng gấp đôi diện tích sòng bạc lên 1.800 mét vuông. Những năm cuối Vào những năm cuối cùng của hoạt động, Sòng bài & Khách sạn Hacienda thuộc sở hữu của tập đoàn Sahara Gaming Corporation do ông Lowden điều hành. Khu nghỉ dưỡng này gặp nhiều khó khăn khi các sòng bài & khách sạn mới mẻ và hiện đại hơn mọc lên gần đó, điển hình là Excalibur (1990) và Luxor (1993) do tập đoàn Circus Circus Enterprises sở hữu. Tháng 9 năm 1994, Sahara Gaming tuyên bố nhận được nhiều lời đề nghị mua lại Hacienda với mức giá hấp dẫn. Tháng 1 năm 1995, ông Bill Bennett, cựu giám đốc và chủ tịch tập đoàn Circus Circus Enterprises, chính thức thông báo mua lại Hacienda cùng khu đất liền kề. Ông Bennett dự định đổi tên và khoác lên Hacienda chủ đề Nam Mỹ. Kế hoạch của ông bao gồm việc cải tạo toàn diện và mở rộng thêm 2.000 phòng khách sạn. Tuy nhiên, thương vụ mua bán gặp nhiều phức tạp do điều khoản ràng buộc trong hợp đồng, cho phép Circus Circus Enterprises quyền ưu tiên mua lại khu nghỉ dưỡng thay vì ông Bennett. Ngay sau khi ông Bennett công bố kế hoạch mua lại Hacienda, tập đoàn Circus Circus đã nhanh chóng đệ đơn kiện nhằm ngăn chặn thương vụ này. Họ cáo buộc ông Bennett đã biết về dự định mua lại tài sản của tập đoàn Circus Circus nhưng vẫn cố tình tiếp tục thực hiện kế hoạch của mình. Hacienda sở hữu diện tích 47 mẫu đất, và Circus Circus mong muốn mua thêm 74 mẫu đất liền kề để xây dựng một khu nghỉ dưỡng mới thống nhất cả hai khu đất, kết nối với Luxor và Excalibur. Tháng 3 năm 1995, Bennett và Circus Circus đạt được thỏa thuận. Theo đó, Circus Circus sẽ mua lại Hacienda với giá 80 triệu USD và 74 mẫu đất liền kề với giá 73 triệu USD. Ông Lowden chia sẻ rằng việc không thể đạt được thỏa thuận với Liên minh Công nhân Ẩm thực là nguyên nhân chính dẫn đến quyết định bán Hacienda. Sau 40 năm hoạt động, Hacienda chính thức đóng cửa vào lúc 4 giờ chiều ngày 1 tháng 12 năm 1996. Vào ngày 2 tháng 3 năm 1999, tập đoàn Circus Circus Enterprises chính thức khai trương khu nghỉ dưỡng Mandalay Bay, thay thế cho Hacienda trước đây. Tên gọi Hacienda vẫn được sử dụng cho Khách sạn và Sòng bài Hacienda tọa lạc tại Thành phố Boulder, Nevada. Ngoài ra, Đại lộ Hacienda, con đường chạy dọc khu đất Mandalay Bay, cũng giữ nguyên tên gọi để ghi dấu ấn lịch sử của khu nghỉ dưỡng Hacienda. Tuy nhiên, một phần nhỏ của đại lộ này đã được đổi tên thành Đường Mandalay Bay. Chú thích Las Vegas Strip Khách sạn sòng bạc
19851519
https://vi.wikipedia.org/wiki/Atomic%20Puppet%20%28phim%29
Atomic Puppet (phim)
Atomic Puppet (tạm dịch: Rối nguyên tử) là một bộ phim hoạt hình do Jerry Leibowitz và Mark Drop sáng tạo và được sản xuất bởi hãng phim hoạt hình Mercury Filmworks của Canada, VFX của Pháp, công ty Technicolor và Gaumont Animation của Gaumont, trước đây được biết đến với tên Alphanim và sau này được gọi là Gaumont-Alphanim. Bộ phim được phát sóng trên Teletoon ở Canada, trên France 4 ở Pháp, trên Disney XD. Phim được công chiếu vào ngày 18 tháng 7 năm 2016 và kết thúc vào ngày 21 tháng 2 năm 2017. Tổng cộng có 26 tập đã được sản xuất. Ở Việt Nam, phim cũng được chiếu trên kênh SAM - BTV11. Bộ phim xoay quanh cuộc phiêu lưu của học sinh lớp bảy Joey Felt và cộng sự AP (Atomic Puppet) của cậu, một siêu anh hùng nổi tiếng thế giới, người đã bị biến thành một con rối tất xanh bất lực, cho đến khi được đặt vào tay Joey. Cùng nhau, cả hai hóa thân thành bộ đôi siêu anh hùng mới nhất của Mega City, đó là Atomic Puppet và Nuclear Boy. Nhân vật Joseph "Joey" Felt/Nuclear Boy (lồng tiếng bởi Eric Bauza) Captain Atomic/Atomic Puppet/AP (lồng tiếng bởi Eric Bauza) Pauline Bell (lồng tiếng bởi Lisa Norton) Philip "Phil" Felt (lồng tiếng bởi Carlos Díaz) Vivian Felt (lồng tiếng bởi Kristina Nicoll) Abigail Felt (lồng tiếng bởi Katie Griffin) Bubbles Rex Bordeaux (lồng tiếng bởi David Huband) Sergeant Subatomic (Mookie) (lồng tiếng bởi Peter Oldring) Giáo sư Tite-Gripp (lồng tiếng bởi Rick Miller) Naughty Kitty (lồng tiếng bởi Heather Bambrick) Zorp (lồng tiếng bởi Robert Tinkler) Mudman (lồng tiếng bởi Robert Tinkler) Ms. Erlenmeyer/Nữ hoàng Mindbender (lồng tiếng bởi Kristina Nicoll) Were-Chicken Commander Atomic và Puppet Boy Commander Cavalier (lồng tiếng bởi Robert Tinkler) Robo-Ron (lồng tiếng bởi Martin Roach) Crimson Beacon Princess War Tickle (lồng tiếng bởi Kristina Nicoll) Rudolph Mintenberg (lồng tiếng bởi Scott McCord) Warren Beasley (lồng tiếng bởi Mark Edwards) Thị trưởng (lồng tiếng bởi Kevin Hanchard) Liên kết ngoài Atomic Puppet trên IMDb Phim hoạt hình Siêu nhân nhí Chương trình truyền hình siêu nhân Chương trình truyền hình tiếng Anh Phim truyền hình Canada Sơ khai Sơ khai phim hoạt hình
19851522
https://vi.wikipedia.org/wiki/Doanh%20thu%20qu%E1%BA%A3ng%20c%C3%A1o
Doanh thu quảng cáo
Doanh thu quảng cáo (Advertising revenue) là thu nhập bằng tiền mà các cá nhân và doanh nghiệp kiếm được từ việc hiển thị quảng cáo trả phí trên các trang Web, kênh phương tiện truyền thông xã hội hoặc các nền tảng mạng khác xung quanh nội dung đăng xuất bản trên mạng Internet. Theo thống kê vào tháng 9 năm 2018, thị trường quảng cáo trên Internet ở Mỹ được ước tính trị giá vào khoảng 111 tỷ USD, với thị phần chủ yếu được các công ty lớn là Google, Facebook, Amazon và Microsoft chia nhau nắm giữ. Các công ty này kiếm được doanh thu thông qua hình thức quảng cáo trực tuyến nhưng họ cũng đã khởi xướng các lộ trình để người dùng cá nhân và người có ảnh hưởng trên mạng xã hội kiếm thêm thu nhập cá nhân, các cá nhân và doanh nghiệp có thể kiếm doanh thu quảng cáo thông qua các mạng quảng cáo như Google AdSense, YouTube hoặc Outbrain. Đại cương Có nhiều phương pháp và nhà cung cấp dịch vụ khác nhau mà các cá nhân và tổ chức trực tuyến có thể sử dụng để kiếm thu nhập bằng tiền dưới dạng quảng cáo đi kèm với trang web hoặc nội dung truyền thông kỹ thuật số của chính họ sáng tạo và đăng lên/xuất bản. Những gã khổng lồ công nghệ kỹ thuật số hiện nay như Google, Facebook, YouTube, Amazon và Microsoft cho phép chủ sở hữu trang web và người tạo nội dung tham gia vào quan hệ đối tác và quảng cáo hiển thị từ phương tiện truyền thông trực tuyến của họ, những chủ sở hữu và người sáng tạo này sau đó có thể nhận được một phần doanh thu quảng cáo. Các cá nhân và tổ chức khi tham gia vào những nền tảng này có thể kiếm được thu nhập đáng kể thông qua doanh thu quảng cáo. Vào năm 2018, có thông tin cho rằng những người sáng tạo nội dung lớn trên YouTube như Jake Paul và PewDiePie mỗi người đã kiếm được hơn 15 triệu đô la thông qua việc kiếm tiền từ nội dung video trực tuyến của họ. Doanh thu mà các cá nhân và tổ chức kiếm được từ các nguồn quảng cáo trực tuyến được coi là thu nhập chịu thuế ở nhiều quốc gia. Vào năm 2015, Cơ quan quản lý thuế Úc (Australian Taxation Office) đã xác nhận các vấn đề liên quan đến trạng thái thuế của doanh thu quảng cáo trực tuyến, nêu rõ rằng doanh thu này phải chịu thuế và người sáng tạo nội dung phải được coi là "nghệ sĩ biểu diễn". Ngoài ra, tại Hoa Kỳ, Cơ quan quản lý doanh thu nội địa (Internal Revenue Service) coi doanh thu quảng cáo trực tuyến phải chịu thuế. Đối với những người kiếm thu nhập từ các nền tảng công nghệ do Alphabet Inc. kiểm soát, bao gồm cả nền tảng Google và YouTube, thì Mẫu 1099 (mẫu khai thuế) sẽ được công ty cấp nếu một cá nhân hoặc nhóm kiếm được hơn 600 USD mỗi năm. Ngành quảng cáo không phải là không có tranh cãi. Công nghệ chặn quảng cáo gây rắc rối cho các công ty và cá nhân muốn kiếm tiền bằng cách hiển thị quảng cáo cùng với nội dung của họ. Theo báo cáo, phần mềm chặn quảng cáo được 17% số người trong độ tuổi 18–34 sử dụng và cho phép người dùng chặn quảng cáo khi truy cập một trang web nhất định, do đó loại bỏ khả năng người dùng nhấp vào một quảng cáo nhất định. Các nền tảng Google là một trong những nền tảng quảng cáo trực tuyến lớn nhất thế giới. Tính đến tháng 3 năm 2019, Google được ước tính sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hơn 90% tìm kiếm trên toàn cầu. Số liệu doanh thu quảng cáo kỹ thuật số của công ty Alphabet Inc. (chủ sở hữu của Google) xấp xỉ khoảng 39,92 tỷ USD vào năm 2018. Google và Facebook được cho là chỉ kiểm soát dưới 60% không gian tiếp thị trực tuyến của Hoa Kỳ. Một gã khổng lồ quảng cáo trực tuyến khác thuộc sở hữu của Alphabet Inc. là trang web chia sẻ video YouTube. Năm 2006, Google mua YouTube với giá 1,65 tỷ USD. Năm 2015, Bloomberg ước tính YouTube trị giá khoảng 70 tỷ USD, với hơn 30 triệu lượt truy cập trung bình hàng ngày. Những người tạo nội dung YouTube xuất bản và chia sẻ video của riêng họ có thể kiếm tiền từ chúng. Theo báo cáo, tỷ lệ doanh thu quảng cáo gần đúng được trả cho người tạo video kiếm tiền là 55%; vào năm 2013, thu nhập trung bình của người sáng tạo ước tính là 7,60 USD trên một nghìn lượt xem. Tính đến tháng 3 năm 2018, Facebook và Google ước tính nắm giữ thị phần tổng hợp chỉ dưới 60% không gian tiếp thị trực tuyến ở Hoa Kỳ. Trong quý cuối cùng của năm 2018, Facebook đã báo cáo doanh thu quảng cáo trực tuyến của họ là 16,9 tỷ USD. Facebook cho phép các doanh nghiệp quảng cáo trên toàn bộ trang web của mình, sử dụng kiến thức chuyên sâu về nhân khẩu học và sở thích của người dùng để đảm bảo rằng bất kỳ quảng cáo nào cũng có cơ hội tiếp cận đối tượng mục tiêu cụ thể. Facebook tính phí cho mỗi lần nhấp chuột vào quảng cáo, được gọi là trả chi phí cho mỗi lần nhấp chuột. Facebook cũng cho phép các doanh nghiệp tăng khả năng hiển thị quảng cáo của họ ngoài những người dùng theo dõi hoặc thích chúng, Facebook tính phí dựa trên số lượng người mà một quảng cáo nhất định tiếp cận được. Năm 2012, Facebook mua ứng dụng chia sẻ hình ảnh Instagram với giá 1 tỷ USD. Vào thời điểm mua, Instagram đã có hơn 30 triệu lượt tải xuống. Tính đến năm 2019, Instagram có hơn 1 tỷ người dùng hoạt động hàng tháng và ước tính trị giá hơn 100 tỷ USD. Những người có ảnh hưởng trên Instagram được trả vài đô la cho mỗi nghìn lượt xem quảng cáo. Người ta dự đoán rằng Instagram sẽ kiếm được hơn 10 tỷ USD từ dịch vụ này hàng năm khi nó chuyển sang cuối năm 2019. Tính đến năm 2018, Amazon được báo cáo là nền tảng quảng cáo trực tuyến lớn thứ ba và có doanh thu quảng cáo dự đoán ở mức trên 4 tỷ USD. Với con số báo cáo là 197 triệu lượt khách truy cập trực tuyến mỗi tháng, Amazon có phạm vi tiếp cận khách hàng rộng rãi tương tự như Google và Facebook. Amazon được cho là đã liên hệ với các gã khổng lồ truyền thông trực tuyến Buzzfeed và The New York Times với lời đề nghị rằng họ sẽ được trả tiền để giới thiệu hoặc quảng cáo sản phẩm trên trang Web của họ. Những quảng cáo như vậy sẽ bao gồm một liên kết đến trang Amazon nơi khách hàng tiềm năng có thể mua sản phẩm và đổi lại, các cơ quan truyền thông sẽ nhận được phần trăm tiền hoa hồng cho việc khách hàng mua các sản phẩm hàng hóa từ sàn Amazon. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2014, Amazon mua lại Twitch Interactive với giá 970 triệu USD. Năm 2018, Microsoft đại diện cho khoảng 4% trong số 111 tỷ USD ước tính của thị trường quảng cáo trực tuyến ở Hoa Kỳ. Microsoft sở hữu công cụ tìm kiếm Bing, chiếm hơn 6% lượng tìm kiếm trên Internet, và trang mạng xã hội LinkedIn. Microsoft kiếm được doanh thu quảng cáo thông qua các chương trình như Quảng cáo Bing. LinkedIn có hơn 500 triệu người dùng, vào năm 2018, có thông báo rằng LinkedIn dự kiến ​​sẽ kiếm được khoảng 2 tỷ đô la hàng năm từ quảng cáo trên nền tảng này. Chú thích Quảng cáo trực tuyến Quảng cáo Doanh thu
19851535
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oleksandra%20Goretska
Oleksandra Goretska
Oleksandra Goretska (, sinh năm 2008) là vận động viên bơi nghệ thuật người Ukraina. Tham khảo Sinh năm 2008
19851541
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mandalay%20Bay
Mandalay Bay
Mandalay Bay là một khu nghỉ dưỡng kết hợp sòng bạc với 43 tầng cao nằm ở đầu phía Nam của Dải Las Vegas, thuộc thành phố Paradise, Nevada. Khu nghỉ dưỡng được Vici Properties sở hữu và MGM Resorts International điều hành. Khu nghỉ dưỡng này do Circus Circus Enterprises phát triển với tổng vốn đầu tư lên đến 950 triệu USD và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 2 tháng 3 năm 1999, tọa lạc trên vị trí trước đây của Hacienda. Lịch sử Khu nghỉ dưỡng Mandalay Bay hiện nay tọa lạc tại vị trí trước đây là khách sạn và sòng bài Hacienda, nằm ở khu vực cuối phía Nam của Dải Las Vegas. Vào năm 1995, tập đoàn Circus Circus Enterprises đã mua lại Hacienda với giá 80 triệu USD, đồng thời mua thêm một khu đất liền kề rộng 74 mẫu Anh (30 ha) ngay phía Nam với giá 73 triệu USD. Kế hoạch cho dự án khu nghỉ dưỡng mới mang tên Mandalay Bay được công bố vào tháng 6 cùng năm, với mục tiêu thay thế cho Hacienda. Hacienda chính thức ngừng hoạt động vào ngày 1 tháng 12 năm 1996 . Kế hoạch thay thế được công bố ngay sau đó, khu nghỉ dưỡng mới có kinh phí đầu tư từ 800 triệu đến 1 tỷ USD. Dự án Paradise khởi công năm 1997 gặp sự cố lún đất vào năm 1998. Lõi tòa nhà sụt 43 cm, một phần khác lún 5 cm. Tin đồn về sự cố khiến giá cổ phiếu Circus Circus giảm. Vấn đề được giải quyết bằng cách lắp đặt 536 cọc siêu nhỏ với chi phí 8-10 triệu USD. Thiệt hại chỉ là những vết nứt nhỏ tại khu vực bãi đậu xe. Tháng 2 năm 1998, dự án chính thức được đổi tên thành Mandalay Bay. Mandalay Bay tiêu tốn 950 triệu USD để xây dựng, trở thành dự án tốn kém nhất của Circus Circus cho đến nay. Công ty dự kiến chi hơn 10 triệu USD cho chiến dịch quảng cáo trên báo in và truyền hình trước khi khu nghỉ dưỡng khai trương. Mandalay Bay chính thức mở cửa lúc 22:00 ngày 2 tháng 3 năm 1999, sau buổi lễ VIP với nhiều người nổi tiếng. Lễ khai mạc có bộ ba Anh em nhà Blues dẫn đầu đoàn rước 200 xe máy và cùng Bob Dylan biểu diễn tại House of Blues. Khu nghỉ dưỡng tạo ra 5.000 việc làm, 30% nhân viên đến từ các cơ sở Circus Circus khác. Sau sự kiện khai trương thành công, tập đoàn đổi tên thành Mandalay Resort Group vào năm 1999 để khẳng định vị thế của Mandalay Bay như tài sản hàng đầu. Năm 2002, Mandalay Bay đã xin phép chính phủ Mỹ và Trung Quốc để nhập khẩu hai chú gấu panda để trưng bày tại khu nghỉ dưỡng . Mục đích là thu hút khách du lịch và đóng góp 50 triệu USD mỗi năm cho nỗ lực bảo tồn gấu trúc của Trung Quốc. Tuy nhiên, dự án bị chỉ trích là bóc lột động vật và cuối cùng không được chấp thuận. Năm 2003, Mandalay Bay mở rộng thêm trung tâm hội nghị và tòa tháp khách sạn thứ hai. Hai năm sau, khu nghỉ dưỡng được MGM Mirage mua lại. Năm 2006, Mandalay Bay bị điều tra vì vi phạm Đạo luật Người khuyết tật Hoa Kỳ và phải chi 20 triệu USD để sửa chữa. Cuối năm 2012, khu nghỉ dưỡng bắt đầu cải tạo lớn đầu tiên. Tháng 1 năm 2020, Mandalay Bay trở thành địa điểm trước và sau trận đấu của Las Vegas Raiders. Cùng tháng, MGM Resorts thông báo bán Mandalay Bay cho liên doanh MGM Growth Properties và The Blackstone Group. MGM sở hữu 50,1% liên doanh, Blackstone sở hữu phần còn lại. MGM Resorts sẽ tiếp tục vận hành khu nghỉ dưỡng . Thỏa thuận hoàn tất vào tháng 2 năm 2020. Vici Properties mua MGM Growth vào tháng 4 năm 2022, sau đó mua lại cổ phần của Blackstone tại Mandalay Bay vào tháng 1 năm 2023. Vụ xả súng năm 2017 Ngày 1 tháng 10 năm 2017, Stephen Paddock nổ súng từ phòng khách sạn tầng 32 xuống đám đông xem nhạc hội đối diện. Hắn ta giết 60 người, làm bị thương 867 người và tự sát trước khi cảnh sát đến. Đây là vụ xả súng hàng loạt nguy hiểm nhất do một tay súng đơn độc thực hiện trong lịch sử Hoa Kỳ. Mandalay Bay vẫn mở cửa sau vụ xả súng , nhưng doanh thu giảm do lượng khách đến thăm ít hơn. Hàng trăm nhân viên bị sa thải. Lợi nhuận dần được cải thiện và khu nghỉ dưỡng phục hồi gần như hoàn toàn vào năm 2019. Sau vụ xả súng, an ninh tại khu nghỉ dưỡng được tăng cường. MGM thông báo sẽ không cho thuê căn phòng của Paddock cho khách trong tương lai. Các tầng 31-34 được đánh số lại thành 56-59. Nhiều nạn nhân kiện MGM vì an ninh lỏng lẻo, và hai bên cuối cùng đã giải quyết với số tiền 800 triệu USD. Đặc điểm Khu nghỉ dưỡng Mandalay Bay rộng 120 mẫu Anh, bao gồm sòng bài rộng 147.992 ft vuông. Sòng bài ban đầu có 122 trò chơi trên bàn và 2.400 máy đánh bạc. Nơi đây từng có sòng bài thể thao lớn nhất Las Vegas với 31 màn hình tivi. Sàn sòng bài được cải tạo vào năm 2013, và khu vực cá cược thể thao được nâng cấp vào năm 2018. Mandalay Bay mang chủ đề Biển Nam nhiệt đới với các đài phun nước và bể cá khắp khu nghỉ dưỡng. Sảnh khách sạn có bể cá hai tầng chứa 48.000 lít nước. Nổi bật nhất là Shark Reef, một bể cá 4.9 triệu lít với chủ đề cá mập, mở cửa vào năm 2000 và là thủy cung lớn nhất trên Strip. Trung tâm Sự kiện Mandalay Bay (nay là Michelob Ultra Arena) có 12.000 chỗ ngồi, được khánh thành vào năm 1999. Nơi đây tổ chức nhiều sự kiện giải trí và thể thao. Trung tâm Hội nghị Mandalay Bay, một trong những trung tâm lớn nhất Hoa Kỳ, được xây dựng sau vụ 11 tháng 9 và khai trương vào năm 2003. Hoạt động hội nghị đóng góp đáng kể vào doanh thu của khu nghỉ dưỡng. Bảo tàng Kho báu Mandalay Bay từng là điểm nhấn của khu nghỉ dưỡng với bộ sưu tập tiền tệ quý hiếm trị giá hơn 40 triệu USD. Hai tờ 100.000 USD độc đáo là một trong những điểm thu hút du khách. Khách sạn Ngoài khách sạn chính, Mandalay Bay còn có hai khách sạn khác: Delano Las Vegas và Four Seasons (Khách sạn Bốn Mùa). Khách sạn Bốn Mùa chung tòa tháp với Mandalay Bay, còn Delano nằm ở tòa tháp riêng. Mandalay Bay có 3.209 phòng trong tòa tháp hình chữ Y, cao 43 tầng. Tòa tháp được trang trí bằng đèn neon vàng và gương màu vàng. Các tầng trên cùng được đánh số từ 60 đến 63, với Khách sạn Bốn Mùa chiếm tầng 35 đến 39 và Mandalay Bay quản lý tầng 40 đến 42. Một câu lạc bộ được gọi là Phòng Foundation hoạt động ở tầng trên cùng. Ban đầu, khách sạn được biết đến với tên THEhotel tại Mandalay Bay khi chính thức ra mắt vào năm 2003. Sau đó, vào năm 2014, khách sạn được đổi tên thành Delano Las Vegas. Delano Las Vegas sở hữu 43 tầng cao cùng 1.117 phòng nghỉ, tất cả đều được thiết kế theo dạng dãy phòng sang trọng. Ngay sau khi MGM mua lại khu nghỉ dưỡng Mandalay Bay vào năm 2006, một đợt nâng cấp phòng khách sạn đã được thực hiện. Một đợt cải tạo lớn hơn kéo dài từ năm 2015 đến năm 2016 với kinh phí 100 triệu USD đã được triển khai nhằm nâng cao chất lượng phòng ốc. Khách sạn Bốn Mùa Tháng 6 năm 1996, Circus Circus Enterprises đã bắt tay hợp tác với Khách sạn Bốn Mùa nhằm đưa vào vận hành một khách sạn cao cấp liền kề Mandalay Bay. Sau quá trình xây dựng, Khách sạn Bốn Mùa chính thức ra mắt cùng khu nghỉ dưỡng vào ngày 2 tháng 3 năm 1999, đánh dấu cột mốc quan trọng khi thương hiệu khách sạn sang trọng này lần đầu tiên đặt chân đến Las Vegas. Việc xây dựng Four Seasons mang mục tiêu cạnh tranh trực tiếp với các khu nghỉ dưỡng cao cấp khác trên Dải như Bellagio, góp phần nâng tầm trải nghiệm du lịch và khẳng định vị thế đẳng cấp của Mandalay Bay. Khách sạn Bốn Mùa sở hữu 424 phòng nghỉ cùng một loạt tiện nghi cao cấp như nhà hàng, sảnh khách, spa, câu lạc bộ sức khỏe trong khuôn viên hai tầng riêng biệt nằm ở phía Nam khách sạn Mandalay Bay. Hầu hết các tiện nghi tại đây chỉ dành riêng cho khách lưu trú tại Khách sạn Bốn Mùa, tạo nên sự riêng tư và đẳng cấp. Khách sạn không có sòng bài, nhưng du khách Khách sạn Bốn Mùa có thể thoải mái tận hưởng sòng bài cùng các tiện nghi khác của Mandalay Bay. Khách sạn Bốn Mùa nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ du khách kể từ khi khai trương vào năm 1999. Nơi đây liên tục được vinh danh với Giải thưởng Năm viên kim cương AAA, khẳng định chất lượng dịch vụ và tiện nghi đẳng cấp. Khách sạn Bốn Mùa là khách sạn đầu tiên tại Thung lũng Las Vegas đạt được giải thưởng danh giá này. Năm 2000, Khách sạn Bốn Mùa tiếp tục tạo dấu ấn khi trở thành khách sạn đầu tiên trong khu vực sở hữu bếp kosher chuyên biệt, đáp ứng nhu cầu ẩm thực đa dạng của du khách. Cuối năm 2012, khách sạn hoàn thành quá trình cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất và dịch vụ, mang đến trải nghiệm lưu trú hoàn hảo hơn cho du khách. Nhà hàng Mandalay Bay sở hữu 15 nhà hàng, trong đó 11 nhà hàng cho thuê. Hầu hết các nhà hàng mở cửa cùng khu nghỉ dưỡng vào năm 1999, ba nhà hàng còn lại sau đó mới mở cửa. Nhà hàng Aureole do đầu bếp Charlie Palmer thiết kế từng là điểm nhấn ấn tượng tại Mandalay Bay. Lấy cảm hứng từ nhà hàng cùng tên ở Manhattan, Aureole Las Vegas sở hữu tháp rượu vang 4 tầng bằng kính và thép độc đáo, có thể chứa tới 10.000 chai rượu vang. Tuy nhiên, Aureole đã đóng cửa vào tháng 4 năm 2023, nhường chỗ cho Retro, một nhà hàng mới mang phong cách hoài cổ của hai đầu bếp anh em Bryan và Michael Voltaggio. Trong văn hóa đại chúng Năm 1999, Phim "Play It to the Bone" chọn Mandalay Bay làm bối cảnh cho một số cảnh quay. Năm 2003, Mandalay Bay tiếp tục xuất hiện trong phim "Las Vegas" (phần 1) với vai trò là khu nghỉ dưỡng hư cấu Montecito. Phim sử dụng sòng bạc, tiền sảnh và bể tạo sóng của Mandalay Bay trong quá trình quay. Năm 2014, Tập phim "Las Vegas" thuộc series "Modern Family" cũng được quay tại Mandalay Bay. Chú thích Liên kết ngoài Las Vegas Strip
19851547
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20%C4%91o%C3%A0n%20S%C6%A1n%20H%E1%BA%A3i
Tập đoàn Sơn Hải
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tập đoàn Sơn Hải, thường được gọi là Tập đoàn Sơn Hải, là một doanh nghiệp xây dựng. Cho đến năm 2023, đây là nhà thầu công trình hạ tầng duy nhất tại Việt Nam có cam kết bảo hành chất lượng 5 đến 10 năm tại các công trình thi công. Lịch sử Tập đoàn Sơn Hải do ông Nguyễn Viết Hải thành lập vào ngày 13 tháng 4 năm 1998 tại Thành phố Đồng Hới, Tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Ngành nghề kinh doanh chính là xây dựng nhà các loại, xây dựng công trình đường sắt, đường bộ, san lấp mặt bằng, trồng trọt, kinh doanh bất động sản. Tiểu sử ông Nguyễn Viết Hải Nguyễn Viết Hải sinh ngày 12 tháng 10 năm 1966 tại xã Hòa Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Từ tháng 1 năm 1984 đến tháng 2 năm 1993, ông là cán bộ Công an tỉnh Quảng Bình. Từ ngày 1 tháng 6 năm 1994, ông nghỉ việc theo chế độ 176. Từ tháng 6 năm 1994 đến tháng 4 năm 1998, ông tham gia kinh doanh hộ cá thể tại phường Bắc Lý, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Từ tháng 4 năm 1998 đến tháng 2 năm 2010, ông trở thành Giám đốc Công ty Xây dựng tổng hợp Sơn Hải. Từ tháng 2 năm 2010 đến nay, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tập đoàn Sơn Hải. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng: Huân chương Lao động hạng Ba năm 2019; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2003; Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải năm 2015; Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tài chính năm 2015; Bằng khen của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam (năm 2015, 2016, 2017); Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình (năm 2016, 2017, 2018); Bằng khen của Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Bình (năm 2018, 2019, 2020) Năm 2021, ông tham gia ứng cử và được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình nhiệm kỳ 2021-2026. Thành viên chủ chốt Năm 2023, Ông Nguyễn Viết Hải hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Sơn Hải, vị trí Giám đốc do ông Lê Thanh Hướng đảm nhiệm. Trong danh sách người đại diện theo pháp luật của Tập đoàn Sơn Hải còn 4 thành viên khác gồm ông Nguyễn Viết Vương, Nguyễn Thanh Hải, Ngô Minh Ngọc và Hoàng Minh Trường. Quá trình hoạt động Những gói thầu thuộc Dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông được Tập đoàn Sơn Hải thực hiện hoặc thực hiện một phần: Gói thầu 10-XL thuộc dự án Mai Sơn - quốc lộ 45 (Ninh Bình - Thanh Hóa) Gói thầu XL-01 thuộc cao tốc Nghi Sơn - Diễn Châu bao gồm các hạng mục chính: Thi công xây dựng đoạn Km380+000 - Km389+900 (bao gồm khảo sát, thiết kế bản vẽ thi công), dự án thành phần cao tốc Bắc - Nam đoạn Nghi Sơn - Diễn Châu. dự án cao tốc Nha Trang - Cam Lâm , có chiều dài 49,1 km. Nhà đầu tư là Tập đoàn Sơn Hải, doanh nghiệp dự án là Công ty TNHH Đầu tư đường cao tốc Nha Trang - Cam Lâm. Dự án này khánh thành vào ngày 18 tháng 6 năm 2023, vượt tiến độ 3 tháng. gói thầu XL-01 thuộc cao tốc Vũng Áng – Bùng có chiều dài 32,5 km, trong đó, đoạn qua Hà Tĩnh là 12,9 km Gói thầu XL02: Thi công xây dựng đoạn Km337+500 ÷ Km368+350 (bao gồm khảo sát, TKBVTC) cao tốc Bắc Nam đoạn Vân Phong - Nha Trang Gói thầu số 12-XL: Thi công xây dựng đoạn Km23+500 - Km70+091 (bao gồm khảo sát, thiết kế bản vẽ thi công) cao tốc Bắc Nam đoạn Hoài Nhơn - Quy Nhơn Bị chơi xấu để hạ uy tín Tập đoàn Sơn Hải tham gia dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1 và Quốc lộ 14 qua Tây Nguyên. Năm 2015, có nghi vấn bị đổ hóa chất phá hoại mặt đường QL1 đoạn qua Quảng Bình. Công an Quảng Bình lấy mẫu gửi Cục Kỹ thuật hình sự (Bộ Công an) giám định, nhưng không thấy công bố chính thức kết quả điều tra, xác minh nghi can. Tháng 10 năm 2023, Tập đoàn Sơn Hải phát hiện từ km382 - km384 thuộc địa phận xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) xuất hiện nhiều đoạn bong lớp nhựa bề mặt đường kéo dài chục hét. Đoạn đường này do Tập đoàn thi công, thông xe được một tháng thì phát hiện nhiều đoạn bị hư hỏng bề mặt vì hóa chất. Tập đoàn đã trình báo khẩn cấp các cơ quan chức năng của tỉnh Thanh Hóa. Xích mích với chủ đầu tư Tháng 6 năm 2023, Tập đoàn Sơn Hải là một thành viên trong liên danh nhà thầu thi công dự án cao tốc đoạn Nghi Sơn - Diễn Châu, cụ thể là gói thầu XL01 cao tốc Bắc - Nam. Tập đoàn gửi đơn đến Bộ GTVT, trong đơn viết rằng Tập đoàn bị chủ đầu tư gây khó dễ trong việc dự toán, nghiệm thu, thanh toán công trình. Cả Bộ Giao thông Vận tải và PMU6 đều lên tiếng khẳng định, đối với các dự án cao tốc Bắc - Nam, không có chuyện các PMU và cơ quan quản lý Nhà nước gây khó dễ, cản trở nhà thầu trong việc thi công, thanh toán dự án. Tham khảo
19851550
https://vi.wikipedia.org/wiki/Spaghetti%20all%27assassina
Spaghetti all'assassina
Spaghetti all'assassina (tiếng Ý nghĩa là 'spaghetti của kẻ ám sát (giống cái)', ), hay còn được gọi là spaghetti bruciati (tiếng Ý nghĩa là 'spaghetti cháy', ) là một món mì spaghetti từ thành phố Bari, Ý. Cách chế biến của món mì này khác hoàn toàn so với các món mì spaghetti khác; thay vì được luộc trong nước muối và phục vụ trong nước sốt, mì được nấu trực tiếp trong chảo (theo truyền thống là chảo gang). Một nước sốt cà chua làm từ sốt cà được pha lỏng trong nước được thêm từ từ vào chảo cho mì hấp thụ dần, giống như cách nấu risotto. Khi hấp thụ nước sốt, mì được nấu chín ngay trong chảo, dần có màu vàng nâu, khi ăn có cảm giác giòn đặc trưng không món mì pasta nào khác có. Lịch sử Spaghetti all'assassina bắt đầu xuất hiện trên các thực đơn nhà hàng từ cuối thập kỷ 1960 đến đầu thập kỷ 1970. Nhiều người cho rằng nguồn gốc của món ăn này là nhà hàng Marc'Aurelio ở trung tâm thành phố Bari (giờ đã đóng cửa); một số người khác tin rằng nhà hàng Al Sorso Preferito mới là nguồn gốc của nó, tại đây món ăn này vẫn được phục vụ. Theo Felice Giovine, một sử gia ẩm thực vùng Puglia, spaghetti all'assassina bắt nguồn từ nhà hàng Al Sorso Preferito ở trung tâm thành phố Bari, nơi mà món ăn này được phát minh vào năm 1967 bời đầu bếp Enzo Francavilla từ Foggia theo sự yêu cầu từ hai khách hàng đến từ phía bắc nước Ý. Vì độ cay của món ăn mà họ nói đùa rằng Francavilla là một assassino ("kẻ sát nhân"), từ này sau đó được lấy để đặt tên cho món. Đây là phiên bản lịch sử nguồn gốc được chấp nhận bởi Accademia dell'Asassina, một nhóm các chuyên gia ẩm thực và tín đồ được thành lập năm 2013 ở Bari để bảo tồn công thức nấu ăn này. Spaghetti all'assassina ngay lập tức được ưa chuộng và lan truyền khắp thành phố, nhưng tới thập kỷ 1980 thì nó bắt đầu biến mất dần. Vào năm 2013, nhờ Accademia dell'Assassina mà nó bắt đầu thịnh hành trở lại và nhận được sự chú ý vì được nhắc đến trong văn hóa đại chúng, phần lớn là từ tập Spaghetti all'assassina của series truyền hình Le indagini di Lolita Lobosco (2021) do đài RAI sản xuất. Món ăn này bắt đầu lại được quan tâm gần đây vì được nhắc đến trong cốt truyện của hai cuốn tiểu thuyết Địa Trung Hải, Sette ricette d'autore và Spaghetti all'assassina. Chế biến Cách chế biến Spaghetti all'assassina cũng giống như cách chế biến món pasta risottata (), mì pasta nấu theo kiểu risotto, nghĩa là nấu trực tiếp trong nước sốt. Nước sốt dùng để nấu spaghetti all'assassina thường có nước và nước sốt cà chua pha theo tì lệ 1:1 hoặc 2:1; nếu dùng cà chua tươi xay nhuyễn thì phải dùng ít nước hơn. Khác với món pasta risottata, mì spaghetti được tiếp xúc trực tiếp với bề mặt chảo trước khi nước sốt được cho thêm vào. Việc này khiến cho mì được áp chảo và cháy khét, tạo nên cảm giác giòn khi ăn. Không khuyến khích sử dụng mì pasta được cắt với khuôn bằng đồng cho món spaghetti all'assassina, vì loại mì này sẽ cho ra quá nhiều tinh bột trong quá trình nấu, ngăn cản màu vàng nâu hình thành. Thường thì spaghetti all'assassina có vị cay, thường thì ớt khô xay, ớt bột hoặc ớt tươi được dùng để nêm nếm hoặc để trang trí. Nhà bình luận ẩm thực Rachel Roddy viết: "Như The Puglia Guys đã từng đăng trên trang blog của họ, all'assassina phải khét, giòn và cay." Đánh giá Trong một tập thuộc series thứ hai của chương trình du lịch Stanley Tucci: Searching for Italy của đài CNN, diễn viên, nhà văn và nhà làm phim người Mỹ Stanley Tucci gây sự chú ý tới món ăn này, và nhận xét cách chế biến của nó là sửng sốt: "Nói thật là tôi chưa bao giờ thấy bất cứ thứ gì như vậy… và tôi yêu nó." Xem thêm Pasta Spaghetti Risotto Tham khảo Liên kết ngoài Spaghetti all'assassina Món từ spaghetti Ẩm thực Ý
19851558
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81n%20l%E1%BB%87%2070/2023/AL
Án lệ 70/2023/AL
Án lệ 70/2023/AL về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách là án lệ thứ 70 thuộc lĩnh vực lao động của hệ thống pháp luật Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua, Chánh án Nguyễn Hòa Bình ra quyết định công bố ngày 1 tháng 10 năm 2023, và có hiệu lực cho tòa án các cấp trong cả nước nghiên cứu, áp dụng trong xét xử từ ngày 1 tháng 11 năm 2023. Án lệ này dựa trên nguồn án là Quyết định giám đốc thẩm số 06/2022/LĐ-GĐT ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, nội dung xoay quanh hợp đồng lao động, việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với chủ thể là cán bộ công đoàn Việt Nam. Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học là đơn vị đề xuất để lựa chọn bản án này làm án lệ và là án lệ thứ 2 về lĩnh vực lao động của Việt Nam. Vương Quốc Anh và Công ty KD ký kết hợp đồng lao động có thời hạn. Trước khi hết hạn hợp đồng thì người lao động được bầu làm Chủ tịch Công đoàn công ty, do đó 2 bên thỏa thuận gia hạn hợp đồng. Sau đó, người lao động tiếp tục được bầu làm Chủ tịch Công đoàn, trong khi đó công ty không đồng ý với việc gia hạn một lần nữa, do vậy đã chấm dứt hợp đồng với Chủ tịch Công đoàn đương nhiệm. Với quan điểm luật bảo vệ quyền lợi của cán bộ công đoàn, không thể chấm dứt hợp đồng khi còn đương nhiệm, Vương Quốc Anh đệ đơn khởi kiện Công ty KD, buộc bồi thường. Vụ án lao động này lần lượt qua sơ thẩm, phúc thẩm rồi giám đốc thẩm, để rồi đi đến kết luận cuối cùng trở về bản án sơ thẩm, tuyên công ty thắng kiện, đồng thời được lựa chọn làm án lệ thứ 2 của Án lệ Việt Nam. Nội dung vụ án Bối cảnh Tại Khu công nghiệp Amata, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, vào tháng 3 năm 2015, Vương Quốc Anh được Công ty trách nhiệm hữu hạn KD Việt Nam nhận vào làm việc, thử việc 1 tháng, sau đó giao kết hợp đồng lao động thời hạn 12 tháng từ tháng 4, 2015—tháng 4, 2016, phân công làm công việc nhân viên kỹ thuật gia công với mức lương gần 7 triệu đồng/tháng. Ngày 21 tháng 11 năm 2015, Công đoàn Khu công nghiệp Biên Hòa thành lập Công đoàn cơ sở lâm thời của Công ty KD và Vương Anh được bầu làm Chủ tịch Công đoàn công ty, nhiệm kỳ từ 21 tháng 11, 2015—21 tháng 11, 2016. Trước khi hợp đồng lao động hết hạn ngày 24 tháng 3 năm 2016, Công ty KD ban hành văn bản quyết định không tái ký hợp đồng lao động với Vương Anh, sau đó quyết định gia hạn hợp đồng lao động từ ngày 26 tháng 4, 2016—25 tháng 11, 2016, tức là lúc hết nhiệm kỳ Ban Chấp hành Công đoàn Công ty. Ngày 24 tháng 10 năm 2016, Ban Chấp hành Công đoàn Công ty KD tiến hành Đại hội lần thứ I, nhiệm kỳ 2016–2021, và Vương Anh tiếp tục được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Công đoàn. Ngày 25 tháng 11 cùng năm, khi hết thời hạn gia hạn, Công ty KD quyết định chấm dứt hợp đồng lao động Vương Anh khi ông đang giữ vị trí Chủ tịch Công đoàn công ty. Trong quá trình làm việc, Vương Anh hoàn thành nhiệm vụ, không bị xử lý kỷ luật. Tranh tụng Vương Quốc Anh đệ đơn gửi Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, khiếu kiện Công ty KD về việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, yêu cầu thanh toán tiền lương và bồi thường các khoản tổng cộng hơn với nội dung rằng: Về phía Công ty KD trình bày rằng công ty đã ban hành quyết định không tái ký hợp đồng lao động với Vương Anh, gửi cho Vương Anh và Công đoàn Khu công nghiệp. Sau đó, Công ty KD biết được Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở tiến hành Đại hội và bầu Vương Anh làm Chủ tịch Công đoàn. Công ty gửi văn bản đến Công đoàn Khu công nghiệp Biên Hòa về việc chấm dứt hợp đồng lao động với Vương ANh nhưng không được chấp nhận. Công ty tiếp tục gửi văn bản đến Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai được hướng dẫn theo quy định của pháp luật. Công ty KD cho rằng việc chấm dứt hợp đồng lao động với Vương Anh đúng quy định nên không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của Vương Anh. Tiền giám đốc thẩm Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa mở phiên lao động sơ thẩm tại trụ sở ở đường Nguyễn Du, phường Bửu Long. Tòa sơ thẩm tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Vương Anh. Ngày 5 tháng 12 năm 2019, nguyên đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Ngày 30 tháng 7 năm 2020, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai mở phiên lao động phúc thẩm tại trụ sở ở 310 Cách Mạng Tháng 8, khu phố 1, thành phố Biên Hòa. Tòa phúc thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng buộc bị đơn Công ty KD phải trả tiền lương trong thời gian nguyên đơn không được làm việc từ ngày 25 tháng 11, 2016—21 tháng 11, 2019 – ngày Tòa án xét xử sơ thẩm, bồi thường 2 tháng tiền lương do công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, tổng cộng 216,09 triệu đồng. Ngoài ra, bị đơn phải truy đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho nguyên đơn đầy đủ từ lúc không được làm việc đến phiên sơ thẩm, căn cứ trên lương cơ sở. Ngày 11 tháng 9 năm 2020, Công ty KD yêu cầu xem xét lại bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 22 tháng 4 năm 2022, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định kháng nghị bản án lao động phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm theo hướng giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa. Giám đốc thẩm Ngày 26 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên giám đốc thẩm tại trụ sở ở 124 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, với chủ tọa là thẩm phán Võ Văn Cường, thành viên gồm thẩm phán Huỳnh Thanh Duyên, thẩm phán Tô Chánh Trung, kiểm sát viên Nguyễn Thị Ngát. Nhận định của tòa án Nguyên đơn Vương Quốc Anh và bị đơn Công ty KD ký hợp đồng lao động ngày 25 tháng 4 năm 2015, thời hạn 12 tháng, hết hạn ngày 25 tháng 4 năm 2016. Trong thời gian hợp đồng lao động có hiệu lực, công đoàn cơ sở Công ty KD được thành lập và nguyên đơn được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành lâm thời từ ngày 25 tháng 11 năm 2015, thời hạn 12 tháng để tiến hành đại hội bầu Ban Chấp hành công đoàn cơ sở trước ngày 25 tháng 11 năm 2016. Vì vậy, Công ty KD và nguyên đơn ký văn bản thỏa thuận về việc gia hạn hợp đồng lao động đến ngày 25 tháng 11 năm 2016, trong đó ghi rõ việc gia hạn thời gian tới khi kết thúc nhiệm kỳ Ban Chấp hành công đoàn vào ngày 25 tháng 11 năm 2016. Thỏa thuận gia hạn hợp đồng lao động nêu trên là phù hợp với quy định tại khoản 6 Điều 192 Bộ luật Lao động 2012 và Điều 25 Luật Công đoàn 2012. Song song với việc gia hạn hợp đồng lao động với nguyên đơn cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ Ban Chấp hành công đoàn như đã nêu trên, Công ty KD cũng có nhiều văn bản thông báo cho nguyên đơn và Công đoàn Khu công nghiệp Biên Hòa biết sẽ không tái ký hợp đồng lao động sau khi hết thời hạn gia hạn. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn thừa nhận có nhận được các quyết định, thông báo của Công ty KD về việc không tái ký hợp đồng lao động với ông. Theo Hội đồng xét xử, tại thời điểm ngày 24 tháng 10 năm 2016, khi Ban Chấp hành công đoàn lâm thời của Công ty KD tiến hành Đại hội thì hợp đồng lao động của nguyên đơn chỉ còn thời hạn 1 tháng, nhưng nguyên đơn và Công đoàn Khu công nghiệp vẫn đưa ông vào danh sách bầu cử Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở để bầu là không phù hợp với văn bản hướng dẫn của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, do đó, việc nguyên đơn trúng cử Chủ tịch Công đoàn cơ sở là không hợp lệ về tiêu chuẩn người ứng cử, người trúng cử. Sau khi hết thời hạn gia hạn hợp đồng lao động, Công ty KD ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn là đúng quy định tại khoản 1 Điều 36 của Bộ luật Lao động 2012. Do đó, việc nguyên đơn khởi kiện cho rằng việc Công ty KD ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với ông trái pháp luật là không có cơ sở chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không đúng quy định của pháp luật. Quyết định Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, tuyên hủy bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa. Hình thành án lệ Sau khi quyết định giám đốc thẩm được ban hành vào cuối năm 2022, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học đã đề xuất lựa chọn làm án lệ nhằm xác định việc người sử dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách đang trong nhiệm kỳ, vượt qua bước đầu trở thành 1 trong 14 đề xuất của đầu năm 2023. Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với Liên minh châu Âu và Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức lấy ý kiến từ ngày 19 tháng 4 năm 2023. Sau đó, Hội đồng tư vấn án lệ được tổ chức họp nhằm thảo luận, cho ý kiến đối với nội dung của 14 dự thảo án lệ được đề xuất phát triển thành án lệ vào ngày 2 tháng 6. Trên cơ sở ý kiến góp ý của các thành viên Hội đồng tư vấn án lệ, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý các dự thảo án lệ, xin rút 5 dự thảo án lệ, đồng thời phiên họp kết luận đề xuất xem xét lựa chọn, thông qua 8 dự thảo án lệ và cân nhắc 1 dự thảo án lệ. Ngày 16 tháng 8, Hội đồng Thẩm phán họp và quyết định thông qua 7 trong 8 dự thảo, trong đó có quyết định giám đốc thẩm của vụ việc này, chính thức là Án lệ số 70/2023/AL. Ghi chú Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài Website Án lệ Việt Nam của Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam. Án lệ 70/2023/AL tại Website Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam. Quyết định số 06/2022/LĐ-GĐT tại Website Công bố bản án. Án lệ lao động Việt Nam Án lệ Việt Nam năm 2023
19851563
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20s%C3%A2n%20bay%20Burbank%20%28%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20s%E1%BA%AFt%20cao%20t%E1%BB%91c%20California%29
Ga sân bay Burbank (Đường sắt cao tốc California)
Ga sân bay Burbank là một ga nằm trong hệ thống Đường sắt cao tốc California được đề xuất xây dựng ở Burbank, California, đặt tại Sân bay Hollywood Burbank, sẽ được xây dựng ở góc phần tư phía đông bắc của sân bay. Địa điểm xây dựng nhà ga được bao quanh bởi Phố Cohasset ở phía bắc, Đại lộ Winona ở phía nam và Đường Hollywood dọc theo đầu phía đông của khu sân bay. Nhà ga kết nối Palmdale với Burbank và Burbank với Los Angeles cùng với các phần trong dự án tuyến đường sắt cao tốc California. Nhà ga chủ yếu nằm dưới lòng đất, nhưng có một tòa nhà trên cao và sẽ kết nối nhà ga với khu phức hợp nhà ga sân bay đã được di dời. Các kế hoạch yêu cầu các đường hầm tiếp cận và hộp nhà ga hầu hết được xây dựng bằng phương pháp cắt và che — ngoại trừ những phần nằm dưới đường lăn D và đường băng 8-26, sẽ được xây dựng bằng Phương pháp khai thác tuần tự (SEM) để tránh sụt lún mặt đất. Ga HSR được đề xuất tách biệt với ga Metrolink gần đó trên Tuyến Thung lũng Antelope, được gọi là Sân bay Burbank–Ga phía Bắc. Cơ quan quản lý sân bay điều hành dịch vụ đưa đón "theo yêu cầu" giữa nhà ga hiện tại và ga Metrolink này, nằm ngay phía đông bắc sân bay. Có một ga Metrolink/Amtrak chung nhau ngay phía nam sân bay — được biết đến thông qua Tuyến Ventura County của Metrolink với tên gọi Sân bay Burbank–Nam và đi qua Sân bay Hollywood Burbank thông qua các chuyến tàu của Amtrak trên tuyến Pacific Surfliner. Khoảng cách của nhà ga đó có thể đi bộ đến nhà ga hiện tại của sân bay, nhưng sẽ xa hơn đáng kể khi nhà ga mới được mở cửa. Liên kết ngoài Burbank Airport Station - California High-Speed Rail City of Burbank - High-Speed Rail Hollywood Burbank Airport terminal relocation project website Tham khảo Nhà ga ở Quận Los Angeles, California Tòa nhà và công trình ở Burbank, California Nhà ga đường sắt dự kiến mở cửa vào năm 2030 Nhà ga Đường sắt Cao tốc California được đề xuất
19851566
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%A2m%20Thi%C3%AAn%20Gi%C3%A1m%20%28Hu%E1%BA%BF%29
Khâm Thiên Giám (Huế)
Khâm Thiên Giám (chữ Hán: 欽天監) được thành lập dưới thời Gia Long, là cơ quan chuyên quan sát, chiêm nghiệm thiên văn, dự báo thời tiết, làm lịch, báo giờ để định mùa vụ cho dân. Di tích Khâm Thiên Giám hiện nay tọa lạc tại số 82 đường Hàn Thuyên, phường Thuận Thành, Huế và đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Lịch sử Thời Gia Long, vua đổi tên cơ quan Tư thiên giám thành Khâm thiên giám tại Kinh sư và đặt các cơ quan Khâm thiên giám tại tỉnh với tên gọi là Chiêm hậu ty (占候司). Khâm thiên giám ban đầu có hơn 50 người, "đặt câu kê 1 viên, cai hợp 1 viên, chiêm hậu 3 viên, suất chiêu hậu sinh 50 viên". Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), đặt Khâm thiên giám Giám chính trật Chánh ngũ phẩm, 2 Khâm thiên giám Giám phó trật Tòng ngũ phẩm, Ngũ quan chính trật Chánh lục phẩm, và 2 Linh đài lang trực Chánh thất phẩm, "định ngạch vị nhập lưu thư ở lại Khâm thiên giám là 30 viên, không cứ phải theo ngạch cũ nhiều đến 50 người". Đến thời Thiệu Trị, con số này giảm xuống, sách "Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ" chép: "Thiệu Trị năm thứ 3, chuẩn y lời tâu: Lại dịch ty Khác cẩn, tuân theo lời đình nghị, giảm bớt 5 phần 10, liệu để 20 tên, thường xuyên làm việc công". Tại triều đình, Khâm thiên giám do một quan, là một vị đại thần đã đứng đầu một cơ quan khác, kiêm nhiệm với tên chức là Kiêm quản Khâm Thiên Giám sự vụ đại thần (兼管欽天監事大臣, vị đại thần kiêm quản việc Khâm thiên giám). Trong công việc hàng ngày, Khâm thiên giám được điều hành bởi 2 quan Giám chính, Giám phó cùng các thuộc viên là Ngũ quan chính, Linh đài lang, cùng các Bát cửu phẩm Thư lại và Vị nhập lưu Thư lại. Theo Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, "Quản lý đại thần do vua đặc cách chọn bổ, không nhất định viên nào. Giám chính đốc suất nhân viên thuộc hạ làm việc, giao phó cùng coi sóc việc trong giám làm người tá nhị. Ngũ quan chính Linh đài lang đều xem xét đốc suất nhân viên thuộc hạ, theo người cai quản, chia nhau giữ việc xem xét chiêm nghiệm, chánh bát phẩm chánh cửu phẩm thư lại xướng xuất những người vị nhập lưu theo thủ lĩnh làm các việc công". Tại Chiêm hậu ty, đứng đầu ty là 1 viên Linh đài lang cùng với các Bát cửu phẩm Thư lại và Vị nhập lưu Thư lại điều hành. Thời Nguyễn, Khâm thiên giám được biết nhiều đến trong dân chúng là cơ quan làm lịch mỗi năm khi Tết đến. Khâm Thiên Giám còn xem ngày lành tháng tốt để triều đình tổ chức những việc đại sự. Dưới thời Minh Mạng, vua cho dựng Quan Tượng Đài trên góc Tây Nam Kinh thành Huế để làm nơi Khâm thiên giám quan sát thiên tượng. Đầu thế kỷ 20, do người Pháp đã lập đài khí tượng cho toàn cõi Đông Dương tại Phù Liễn, nên việc sử dụng Quan Tượng Đài không còn cần thiết nữa và vai trò của Khâm thiên giám chỉ còn gói gọn trong những việc làm lịch, xem ngày giờ tốt xấu, đất đai và chọn huyệt mã. Theo Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ, vào năm 1918 vua Khải Định cho dời Khâm Thiên Giám từ góc nam của Kinh thành Huế về khu Bộ Học trên đường Hàn Thuyên và không còn hoạt động kể từ ngày chấm dứt chế độ quân chủ. Hiện trạng Khâm Thiên Giám đã từng có 7 hạng mục công trình chính: Khâm Thiên Giám nha (nhà chính), cổng chính (nha môn), giếng nước, tường bao quanh, hai nhà tả hữu, bình phong, sân lát gạch vồ. Nhưng đến thời điểm hiện tại, toàn bộ các công trình trong khuôn viên Khâm Thiên Giám đều bị xuống cấp nghiêm trọng, biến dạng và sử dụng sai mục đích. Năm 2013, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế lập dự án bảo tồn, trùng tu, tôn tạo di tích trình Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch và bộ ra văn bản đồng ý. Nhưng đến nay, dự án này vẫn chưa được thực hiện. Tham khảo Di tích Cố đô Huế Kinh thành Huế
19851577
https://vi.wikipedia.org/wiki/Miron%20Zuckerman
Miron Zuckerman
Miron Zuckerman (sinh ngày 6 tháng 6 năm 1945) là một nhà tâm lý học người Mỹ và giáo sư tâm lý học tại Đại học Rochester. Ông được biết đến với việc nghiên cứu về nhận thức xã hội, giao tiếp phi ngôn ngữ và tâm lý học tôn giáo. Ông đã chỉ đạo một phân tích tổng hợp vào năm 2013 cho thấy mối liên hệ tiêu cực giữa tôn giáo và trí thông minh. Ông cũng từng nghiên cứu sự thiên vị vị kỷ, và phát hiện ra rằng mọi người đánh giá quá cao tầm quan trọng của bản thân họ trong các cuộc thảo luận nhóm. Tham khảo Liên kết ngoài Trang giảng viên Sinh năm 1945 Nhân vật còn sống Giảng viên Đại học Rochester Cựu sinh viên Đại học Harvard Nhà tâm lý học Mỹ thế kỷ 20 Nhà tâm lý học xã hội Mỹ Nhà tâm lý học Mỹ thế kỷ 21
19851581
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20Monaco
Quân chủ Monaco
Thân vương có chủ quyền Monaco (tiếng Pháp: Prince de Monaco) là quân chủ và nguyên thủ quốc gia của Thân vương quốc Monaco. Tất cả các Thân vương trị vì đều là thành viên của Nhà Grimaldi, mặc dù kể từ năm 1731 đã thuộc về các gia tộc khác (Goyon de Matignon hoặc Polignac) trong dòng dõi nam giới. Khi Thân vương Rainier III qua đời năm 2005, ông là vị quân chủ trị vì lâu nhất ở châu Âu. Gia tộc Grimaldi, đã cai trị Monaco trong 8 thế kỷ, là gia đình hoàng gia trị vì lâu nhất châu Âu. Thân vương trị vì hiện nay là Albert II, lên ngôi vào tháng 4 năm 2005. Tham khảo Thân vương Monaco Chính trị Monaco
19851591
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C6%B0%C6%A1ng%20M%E1%BB%85
Khương Mễ
Khương Mễ (1916 – 2004) là nhà quay phim, đạo diễn điện ảnh Việt Nam, ông chủ yếu hoạt động ở dòng phim tài liệu. Khương Mễ là người chế tạo thành công máy in phim và máy tráng phim thủ công phù hợp với điều kiện thiếu thốn lúc bấy giờ. Ông cũng được xem là người đầu tiên làm phim khoa học tại Việt Nam. Khương Mễ cùng với Mai Lộc, Lê Bích, Nguyễn Văn Khoái, Vũ Phi Lân là 5 người cùng đặt nền tảng cho điện ảnh Nam Bộ. Tiểu sử Khương Mễ sinh ngày 15 tháng 7 năm 1916 xã Tân Thuận, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, Liên bang Đông Dương, nay là xã Long Thuận, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Ông lớn lên tại Bà Rịa – Vũng Tàu và tham gia kháng chiến từ năm 1947 tại Đồng Tháp Mười. Sự nghiệp Vào năm 1939, Khương Mễ tham gia nhóm “Việt Nam phim” của Antoine Giàu với nhiều vai trò, trong đó ông là diễn viên đóng vai Phú Đức trong phim Một chiều trên sông Cửu Long. Khi Nam Bộ kháng chiến, cuối năm 1945, Khương Mễ vào bưng biền, tạm thời dừng các công việc làm phim. Xây dựng Điện ảnh bưng biền Năm 1947, Chính ủy Khu 8 là ông Nguyễn Văn Vịnh có ý muốn thành lập bộ phận làm phim phục vụ kháng chiến, đạo diễn Mai Lộc đã tiến cử Khương Mễ. Lúc này Khương Mễ đang công tác tại Ban Tuyên truyền Thủ Dầu Một ở Khu 7 đã được điều về Bộ Tư lệnh khu 8 Nam Bộ, thành lập và phụ trách Tổ nhiếp - điện ảnh. Là người duy nhất trong 38 thành viên đầu tiên có chút ít kinh nghiệm về phim ảnh, sau khi thuyết trình kế hoạch xây dựng Điện ảnh bưng biền, Khương Mễ được cấp 300 ngàn tiền Đông Dương để thâm nhập vào Sài Gòn tìm mua trang thiết bị. Tại Sài Gòn, Khương Mễ tìm đến bạn cũ là Nguyễn Văn Dĩ nhờ đặt mua máy móc từ Pháp. Hai tháng sau, các thiết bị máy móc được chở đến Sài Gòn, Khương Mễ cải trang làm một nhà tư sản để vào thành phố, sau khi tháo các bộ phận, ông lại cải trang thành công nhân đưa máy móc ra ngoại thành. Mặc dù đưa được máy móc đi an toàn nhưng ông Dĩ và một người hỗ trợ đã bị bắt và hy sinh. Khi lắp ráp lại, Khương Mễ phát hiện ra máy tráng phim được đặt mua là loại đời mới, hoàn toàn tự động và phải có điện để hoạt động, không như máy tráng phim ông từng biết trước đây. Ông bèn nghiên cứu sách tiếng Pháp Cinéma Amanach Prisma và hướng dẫn đồng đội tháo cỗ máy này để lắp ráp thành máy tráng phim thủ công. Năm 1948, tác phẩm đầu tiên của tổ làm phim là đoạn thời sự Trường Quân chính Khu 8, tiếp đấy là bộ phim tài liệu Trận Mộc Hóa được Mai Lộc, Vũ Sơn và Khương Mễ quay từ tháng 8 năm 1948 và công chiếu vào ngày 22 tháng 12 cùng năm, đây được coi là bộ phim tài liệu điện ảnh đầu tiên của nền điện ảnh cách mạng Việt Nam. Sau khi xem bộ phim, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ Lê Duẩn bày tỏ mong muốn các bộ phim tài liệu được sao chép thành nhiều bản để trình chiếu cho các đơn vị và nhân dân được xem. Theo ý tưởng này, Khương Mễ tiếp tục nghiên cứu và biến một chiếc máy quay trở thành máy in phim để sao chép. Trận Mộc Hóa trở thành bộ phim cách mạng đầu tiên của Việt Nam được chiếu rộng rãi tại Nam Bộ. Ông cùng đồng nghiệp đã cho ra đời những bộ phim tài liệu bằng các thiết bị tự chế và làm việc trên một những chiếc ghe đôi lúc được để trôi trên sông nước. Ngoài các phim tài liệu thông thường, Khương Mễ còn nghiên cứu để làm ra phim có kỹ xảo được gọi là phim hoạt hình – sử dụng các hình động kết hợp với người đóng – để cho ra tác phẩm đầu tiên thuộc dạng này là Hết đời đế quốc năm 1951. Bộ phim có sự tham gia của một tù binh Pháp và nghệ sĩ Nguyễn Hiền – Nguyên giám đốc Xưởng phim Giải Phóng. Làm phim tại miền Bắc Cuối năm 1950 đầu năm 1951, Điện ảnh Vệ quốc đoàn khu 8 trở thành Phòng Điện ảnh Nam Bộ. Theo yêu cầu của Phòng, các đạo diễn Nguyễn Phụ Cấn, Võ Thành Tắc, Nguyễn Công Son, Mai Lộc của Quân khu 8 cùng Nguyễn Thế Đoàn và Lê Minh Hiền của Quân khu 9 được cử ra Bắc quay phim cho Đại hội Đảng lần 2 ở Việt Bắc. Năm 1954, Khương Mễ cùng 22 nghệ sĩ khác cũng được tập kết ra Bắc để xây dựng cơ sở và đào tạo nhân lực cho Điện ảnh Việt Nam, thành lập Hãng phim truyện Việt Nam. Năm 1954, trong kế hoạch chuẩn bị chi việc sản xuất phim điện ảnh, Khương Mễ là quay phim chính cho tiểu Người chiến sĩ (tựa đề khác là Cô lái đò bến Chanh) do Trần Công đạo diễn. Ông tham gia quay phim cho một số tác phẩm như Biển động, Hai người lính, Vợ chồng A Phủ, Khói trắng, Lửa rừng. Năm 1963, ông được phân công ghi hình một buổi tiếp khách của chủ tịch Hồ Chí Minh. Trở lại miền Nam và cuối đời Năm 1976, ông trở về miền Nam làm việc tại Xưởng phim Giải Phóng và tham gia làm một số bộ phim điện ảnh, phim truyền hình Cô Nhíp, Chuyện bên lề 30/4, Em bé đánh giày, Chiều sâu lòng đất... Năm 1997, tại Liên hoan Phim Quốc tế Amiens lần thứ 17, Khương Mễ là khách mời danh dự và Điện ảnh kháng chiến Nam Bộ được dành riêng một gian triển lãm. Triển lãm với 25 bức ảnh đen trắng phóng to, 6 mô hình trang thiết bị phục chế, 2 quyển sách về điện ảnh bằng tiếng Pháp xuất bản năm 1947. Khương Mễ được Jean Pierre Garcia, chủ tịch của kỳ Liên hoan phim này, ví như Lumière của Tháp Mười. Chủ tịch ban giám khảo liên hoan phim là nữ diễn viên Sophie Baez cũng tuyên dương toàn bộ tác phẩm của ông và trao tặng ông huy chương Kỳ Lân Vàng – Licorne D'Or. Tại liện hoan phim, đạo diễn người Pháp Samual Aubin được biết đến Khương Mễ và rất hâm mộ ông, nên năm 1999, Samual đã sang Việt Nam đi tìm hiểu và năm 2001 lập đoàn làm phim tài liệu về Khương Mễ. Khi hoàn thành bộ phim lấy tựa đề Phòng tối của Khương Mễ (La chambre noire de Khuong Mé), với độ dài 63 phút, do Balthazar Productions sản xuất. Sự kiện công công chiếu do Phòng Hợp tác Văn hóa (Tổng Lãnh sự quán Pháp tại thành phố Hồ Chí Minh) và Viện Trao đổi Văn hóa với Pháp tổ chức ngày 26 tháng 3 năm 2003 tại IDECAF, nhân đợt kỷ niệm 50 năm ngày thành lập ngành điện ảnh Việt Nam. Dù đã nghỉ hưu nhưng phải đên năm 85 tuổi (2002) ông mới chính thức giải nghệ. Khương Mễ cho ra mắt cuốn hồi ký Đời tôi và điện ảnh do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh phát hành. Sách gồm có 9 chương, kể về những diễn biến cuộc đời ông theo trình tự thời gian. Khương Mễ qua đời ngày 18 tháng 6 năm 2004 tại Bệnh viện Thống Nhất. Trong sự nghiệp của mình, Khương Mễ đã tham gia sản xuất bộ phim tài liệu đầu tiên của điện ảnh cả nước Trận Mộc Hóa (1948), quay một trong ba bộ phim truyện đầu tiên của điện ảnh cách mạng Việt Nam Vợ chồng A Phủ (1961), và đạo diễn bộ phim điện ảnh đầu tiên của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh là Cô Nhíp (1976). Giải thưởng Vinh danh Năm 1977, Giải thưởng của Tiểu hội Á - Phi - Mỹ Latinh tại Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary, Tiệp Khắc Năm 2006, Khương Mễ cùng Phạm Kỳ Nam được vinh danh tại Giải Cánh diều 2005. Năm 2010, Khương Mễ cùng với các đạo diễn Phạm Văn Khoa, Nguyễn Hồng Nghi, Khương Mễ và Mai Lộc được vinh danh tại Lễ trao giải Cánh diều 2009. Năm 2023, Khương Mễ cùng 107 tác phẩm và 326 cá nhân xuất sắc của điện ảnh Việt Nam được nêu tên trên Bức tường danh vọng của Giải cánh diều 2023. Tác phẩm đạt giải thưởng Tác phẩm Vai trò đạo diễn / quay phim Vai trò diễn viên Tham khảo Người An Giang Mất năm 2004 Sinh năm 1916 Nghệ sĩ ưu tú Việt Nam Họ Khương Đạo diễn điện ảnh Việt Nam
19851592
https://vi.wikipedia.org/wiki/Steve%20Zuckerman
Steve Zuckerman
Stephen Edward "Steve" Zuckerman (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1947) là một đạo diễn truyền hình và sân khấu người Mỹ. Ông theo học tại Đại học Michigan và Trường Kịch nghệ Yale, và trở thành Phó Giám đốc Nghệ thuật của Nhà hát IRT sau khi tốt nghiệp. Tại đây, ông đã chỉ đạo biểu diễn các tác phẩm kịch nổi tiếng của Odets như "Clash By Night" và "Brand" của Henrik Ibsen. Từ năm 1987, ông đã đảm nhiệm vai trò đạo diễn trong một số lượng lớn chương trình truyền hình, chẳng hạn như Full House, The Golden Girls, Murphy Brown, Empty Nest, Friends, The Drew Carey Show, Everybody Loves Raymond, Zoey 101, According to Jim, Melissa & Joey, Anger Management, vv.... Sự nghiệp điện ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Steve Zuckerman - Official Site Sinh năm 1947 Đạo diễn truyền hình Mỹ Đạo diễn sân khấu Mỹ Nhân vật còn sống Cựu sinh viên Đại học Michigan Cựu sinh viên Trường Kịch nghệ David Geffen tại Đại học Yale
19851593
https://vi.wikipedia.org/wiki/Im%20Se-mi
Im Se-mi
Im Se-mi (sinh ngày 29 tháng 5 năm 1987) là nữ diễn viên người Hàn Quốc. Cô được biết đến với các vai diễn trong các bộ phim truyền hình như True Beauty , When The Weather is Fine , Duty After School , The Worst of Evil , That Winter, the Wind Blows và Two Weeks. Sự nghiệp Vào tháng 1 năm 2019, Im đã ký hợp đồng với công ty mới YNK Entertainment. Vào ngày 3 tháng 2 năm 2022, Im ký hợp đồng độc quyền với Noon Company sau khi hợp đồng của cô với YNK Entertainment hết hạn. Đóng phim Phim điện ảnh Phim truyền hình Chuỗi web Chương trình tạp kỹ Nhà hát Giải thưởng Liên kết ngoài Tham khảo
19851594
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heike%20Monogatari
Heike Monogatari
là một tác phẩm văn học thuộc thể loại sử thi của Nhật Bản được sáng tác vào khoảng năm 1330, nói về cuộc nội chiến tranh giành quyền lực của gia tộc Taira và gia tộc Minamoto nhằm giành quyền cai trị đất nước Nhật Bản trong Chiến tranh Genpei diễn ra vào cuối thế kỷ 12 (1180–1185). Từ "Heike" (, Bình gia) có liên quan mật thiết đến chữ "Taira" (), trong đó, chữ"hei" là cách đọc on'yomi của kí tự Hán ngữ đầu tiên và chữ "ke" () có nghĩa là "gia đình". Chúng ta cần lưu ý rằng, trong thời kỳ Chiến tranh Genpei, từ "hei" được đọc thành "pei" và chữ "gen" () là ký tự Hán ngữ đầu tiên dùng để chi gia tộc Minamoto (tương tự với chữ "Genji" là ký tự phát âm theo kiểu on'yomi, ví dụ như tên nhân vật trong Truyện kể Genji) và cũng là ký tự chữ Hán dùng để ám chỉ gia tộc. Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Anh ít nhất 5 lần, lần đầu được dịch bởi Arthur Lindsay Sadler vào năm 1918–1921. Một bản dịch hoàn chỉnh dài gần 800 trang đã được xuất bản bởi Hiroshi Kitagawa & Bruce T. Tsuchida vào năm 1975. Một bản dịch khác của Helen McCullough đã được xuất bản vào năm 1988. Một bản dịch rút gọn của Burton Watson đã được xuất bản vào năm 2006. Vào năm 2012, Royall Tyler đã hoàn thành bản dịch riêng của ông, đồng thời lồng ghép quan điểm chú trọng đến thể thức trình bày của tác phẩm nguyên gốc. Tiểu thuyết gia lịch sử Eiji Yoshikawa đã xuất bản phiên bản kết xuất văn xuôi của tác phẩm trên tờ báo Asahi Weekly vào năm 1950 với tiêu đề là Tân truyện Heike (Shin Heike Monogatari). Nghi vấn tác giả Người ta cho rằng Bình gia truyện không có khả năng được sáng tác bởi một cá nhân đơn lẻ nào. Giống như hầu hết các tác phẩm sử thi khác, tác phẩm là kết quả của sự chắp vá các câu chuyện dân gian truyền miệng được minh họa qua những tấm thẻ biwa được gọi là biwa hōshi. Nhà sư Yoshida Kenkō (1282–1350) đã đưa ra giả thuyết về tác giả của tác phẩm trong ấn phẩm Tsurezuregusa nổi tiếng của ông, được viết vào năm 1330. Theo lời Kenkō thì "Cựu Thống đốc vùng Shinano là Yukinaga, đã viết Bình Gia truyện () và yêu cầu một người đàn ông mù tên Shōbutsu tụng nó như một bài thánh ca". Ông cũng đề cập đến mối quan hệ mật thiết giữa những lá bài biwa và người đàn ông mù đó , vốn là một "tín đồ bẩm sinh của các văn kiện tôn giáo", và là người đã gửi cho Yukinaga "những thông tin ông ta sưu tầm được từ các samurai, từ cách họ cúi đầu, cho đến những chiến thuật của họ khi ở trên lưng ngựa. Yukinaga đã viết nó sau khi được cung cấp nhưng thông tin này". Một trong những điểm mấu chốt trong giả thuyết này là ngôn ngữ viết trong tác phẩm. Chúng chính là sự kết hợp hóc búa giữa Hán ngữ và Nhật ngữ (wakan konkō shō), và được sáng tác trong nhiều ngày bởi duy nhất một tăng lữ có học thức như Yukinaga. Tuy nhiên, cuối cùng ta vẫn phải kết luận rằng, tác phẩm là thành quả của một quá trình dài thu thập các câu chuyện dân gian truyền miệng, cá nhân sáng tác ra nó không thể xác định một cách chính xác; có lẽ Yukinaga là người đầu tiên và duy nhất biên soạn lại kiệt tác văn học này dưới dạng văn học viết. Bên cạnh đó, với việc những mẩu chuyện trong đó được trình bày dưới dạng các thể thức khác nhau, mặc dù không mang nhiều ý nghĩa nhưng điều đó cho ta thấy rằng, đây là một tác phẩm mang tính chất sưu tầm hơn là do một cá nhân sáng tác. Nguồn gốc và đề tài Lịch sử thể loại Monogatari Người Nhật đã cho phát triển một số chiến lược bổ sung để nắm bắt, bảo tồn và phổ biến các yếu tố thiết yếu của lịch sử dân tộc được chấp nhận rộng rãi trong quần chúng – chúng là các biên niên sử về vua chúa cũng như các sự kiện, tiểu sử của các danh nhân lịch sử, cùng với những câu chuyện quân sự được gọi là gunki monogatari . Thể loại văn học này được phát triển nhờ vào mối quan tâm đến việc ghi lại các hoạt động xung đột quân sự vào cuối thế kỷ 12. Các trận chiến lớn, các cuộc giao tranh nhỏ và các cuộc chiến mang tính cá nhân (cùng các nhân vật quân sự) đều được ghi chép, tường thuật và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác với các tác phẩm như Hōgen Monogatari (1156), Heiji Monogatari (1159–1160) ) và Heike Monogatari (1180–1185). Trong mỗi tác phẩm thuộc thể loại monogatari này, các nhân vật trung tâm đều được phổ biến sâu rộng trong quần chúng, các sự kiện lớn được mọi người hiểu một cách khái quát và các vấn đề trong thời kỳ đó thường được chấp nhận như những yếu tố nền tảng của văn hóa Nhật Bản. Tính chính xác của mỗi ghi chép lịch sử này đã trở thành một chủ đề hấp dẫn để nghiên cứu sâu hơn; và có một số chi tiết tác phẩm đã được chứng minh chúng đã trải qua sự giám sát chặt chẽ, trong khi những "sự thật" hóa ra lại không chính xác. Phiên bản phổ biến và nổi tiếng nhất của Bình Gia truyện ngày nay là bản được Kakuichi chắp bút năm 1371, thường được cho là một vở kịch hư cấu dựa trên Chiến tranh Genpei. Thay vì tập trung vào các chiến binh Genpei như cách mô tả thông thường, tác phẩm lại tập trung xoáy sâu vào "... chiến binh lý tưởng được truyền tụng qua những lời thánh ca ..." với nguồn cảm hứng đến từ việc tôn vinh và lý tưởng hoá hình tượng con người. Đề tài chính Câu chuyện Heike được xem là một bộ sưu tập những câu chuyện được truyền miệng bởi các nhà sư du hành, những người đã tụng những bài trong biwa, một loại nhạc cụ tương đồng với đàn tì bà. Phiên bản được biết đến nhiều nhất của Heike monogatari đã được tụng bởi một nhà sư mù tên là Kakuichi, vào năm 1371. Sau này, Chuyện kể Heike (còn gọi là "Bình Gia truyện) được coi là tác phẩm văn học cổ điển xuất sắc nhất trong nền văn học thời Trung cổ của Nhật Bản. Hai chủ đề đạo đức xuyên suốt tác phẩm này là tinh thần samurai và đạo Phật. Ở một mức độ nào đó, nội dung tác phẩm là cả một câu chuyện dài về những bậc anh hùng võ nghiệp – về lòng dũng cảm, sự độc ác, quyền lực, vinh quang, sự hy sinh và cả niềm hối tiếc. Đã có nhiều người nhấn mạnh về chủ nghĩa anh hùng mà tác phẩm đề cập tới, trong đó, những chi tiết về cái chết và sự dơ bẩn của hiện thực chiến tranh đã bị phớt lờ, những cái chết trong đó cũng đã được thẩm mỹ hóa: một ví dụ điển hình trong trường hợp thứ hai này là việc so sánh một võ sĩ bị đuối nước với hình ảnh chiếc lá phong trôi theo dòng nước ra xa nhằm xoa dịu đi tình thế khắc nghiệt của chủ thể. Mặt khác, trong khi tác phẩm vẫn chấp nhận tầm quan trọng của những hình tượng quân sự hào hùng như Yoshitsune, song vẫn hướng đến việc chú trọng những tư tưởng Phật pháp, cũng như về số phận con người. Ngay từ đầu, chúng ta đã được biết rằng tác phẩm luôn được hướng đến quy luật vô thường trong Phật giáo, đặc biệt nhấn mạnh vào những điều may mắn mong manh của con người, cũng chính là dạng thức của sic transit gloria mundi ( "Trên trần thế không có gì là mãi mãi"). Chủ đề về thuyết vô thường (mujō) đã được thể hiện trong tác phẩm thông qua đoạn mở đầu được phổ biến rộng rãi như sau: Trong tác phẩm, , hay cụm từ là một cụm từ được trích từ tác phẩm Humane King Sutra, với ý nghĩa đầy đủ là . Hình mẫu tôn giáo thứ hai được biểu hiện trong Bình Gia truyện là một quan điểm khác của nhà Phật - nghiệp quả. Theo quy luật được gọi là "nghiệp chướng" ấy, ta phải đón nhận hậu quả của việc "gieo nghiệp" trong suốt nhiều năm cuộc đời sau đó. Do vậy, ta có thể thấy rằng, "nghiệp quả" sẽ giúp chúng ta giải quyết những khúc mắc xoay quanh cái ác về mặt tự nhiên và cả về mặt đạo đức. Bất kỳ người gieo nghiệp ác nào cũng phải chịu quả báo về sau. Điều này được thể hiện rõ thông qua chi tiết nhân vật Kiyomori gặp quả báo trong Bình Gia truyện; nhân vật này được khắc họa như một con người độc ác, để rồi phải gánh chịu nghiệp quả đau đớn với căn bệnh cướp đi sinh mạng ông ta. Trọng tâm, các phần cấu thành và sức ảnh hưởng Thuyết vô thường Phật giáo được thể hiện trong Bình Gia truyện chính là hình ảnh thu nhỏ cho sự sụp đổ của gia tộc Taira hùng mạnh – cũng chính là gia tộc samurai đã đánh bại gia tộc Minamoto (một gia tộc được Hoàng thất hậu thuẫn) vào năm 1161. Qua đó, ta có thể thấy rằng, gia tộc chiến binh Taira đã châm ngòi cho sự sụp đổ của chính nó bằng thái độ "ngủ quên trong chiến thắng", trở nên kiêu ngạo, hống hách và cuối cùng đã bị đả bại dưới tay gia tộc hồi sinh Minamoto vào năm 1185, dẫn đến sự thành lập Chính quyền samurai đầu tiên trong lịch sử. Các tình tiết trong truyện được sắp xếp một cách tự nhiên và được phần cốt truyện được thiết kế lại theo dạng một chuỗi những câu chuyện kể đêm khuya. Mặc dù tư tưởng trong tác phẩm phần lớn chịu ảnh hưởng của Đạo Phật, song tác phẩm vẫn thể hiện nên tinh thần võ sĩ đạo cùng văn hóa chiến binh – vốn là nền móng của võ sĩ đạo (một cụm từ chỉ cách cư xử của những chiến binh Nhật Bản cổ đại). Bên cạnh đó, Bình Gia truyện cũng chứa một lượng lớn những câu chuyện về tình yêu đôi lứa, một chi tiết liên tưởng tới nền văn học huy hoàng của thời kỳ Heian. Câu chuyện được chia đại khái thành ba phần. Nhân vật trung tâm của phần đầu câu chuyện là Taira no Kiyomori, người được miêu tả với tính cách kiêu ngạo, độc ác, tàn nhẫn, đến khi chết vẫn ôm mối hận trong lòng. Tác phẩm đã miêu tả cơ thể bốc cháy ngọn lửa thù hằn của Kiyomori với chi tiết phóng đại như việc cơ thể ông ta vẫn rất nóng ngay cả khi rơi xuống nước. Nhân vật chính trong phần hai tác phẩm là một vị tướng thuộc gia tộc Minamoto - tức Minamoto no Yoshinaka . Tiếp nối sau cái chết của Yoshitaka, nhân vật chính của phần ba là vị samurai vĩ đại, Minamoto no Yoshitsune, một thiên tài quân sự bị anh trai Minamoto no Yoritomo , vốn là người sắc sảo về chính trị, buộc tội phản phúc. Như vậy, có thể nói rằng, Bình Gia truyện đã cung cấp tư liệu cho nhiều tác phẩm nghệ thuật sau này, từ kịch Noh kịch Kabuki, cho đến các bức tranh in mộc bản, tranh vẽ và thơ haiku ; thậm chí trong các tác phẩm hiện đại, Bình Gia truyện vẫn được sử dụng như một nguồn tài liệu tham khảo. Cốt truyện Hai chủ đề chính được đặt trong phần giới thiệu được nhiều người biết tới như "tiếng chuông của Gion Shōja: sự vô thường và sụp đổ của kẻ hùng mạnh" (chỉ Taira no Kiyomori). Chương 1 Chương này mô tả sự trỗi dậy của gia tộc Taira và những xung đột ban đầu tại triều đình. Vị đại thần họ Taira đầu tiên được vào triều là Taira no Tadamori (1131). Sau khi Tadamori qua đời (1153), con trai ông là Kiyomori đóng vai trò then chốt trong việc giúp Thiên hoàng Go-Shirakawa đàn áp biến loạn Hōgen (1156) và cuộc bạo loạn Heiji (1159), từ đó gia tăng ảnh hưởng trong triều đình. Về sau, các thành viên gia tộc Taira dần nắm giữ các vị trí quan trọng trong triều đình, con gái của trọng thần Kiyomori tiến cung cho Thiên hoàng và hơn một nửa số tỉnh của Nhật Bản thời đó đều nằm dưới sự kiểm soát của họ Taira. Một trong những tình tiết mô tả tính nết kiêu ngạo của Kiyomori là câu chuyện nổi tiếng về Giō, nàng vũ công bị Kiyomori thất sủng và xuống tóc đi tu. Kiyomori và nhà Taira thậm chí còn dám tranh quyền với Nhiếp chính quan quyền lực Fujiwara no Motofusa. Tức giận trước sự chuyên quyền của nhà Taira, thượng thư Fujiwara no Narichika,Thượng hoàng Go-Shirakawa, tu sĩ Phật giáo Saikō cùng các đồng minh đã có buổi họp tại Shishigatani (dinh thự trụ trì chùa Shunkan ) và bàn về âm mưu lật đổ Kiyomori. Vì xảy ra sự xung đột giữa các con trai của Saikō và các sohei của chùa Enryaku-ji trên núi Hiei nên cốt truyện tạm thời bị đứt đoạn từ cảnh này. Sau đó, một trận hỏa hoạn lớn diễn ra vào ngày 27 tháng 5 năm 1177 đã thiêu rụi Hoàng cung toạ lạc ở kinh đô Heian . Chương 2 Năm 1177, Thượng hoàng Go-Shirakawa xích mích với các sư sãi của chùa Enryaku-ji. Sau khi nghe lời đồn sẽ có cuộc hành thích tại Enryaku-ji, một trong những kẻ chủ mưu là Shishi-no-tani đã báo cho Taira no Kiyomori về âm mưu lật đổ này. Kết quả, nhà sư Saikō bị xử tử và những người khác bị lưu đày. Kiyomori tức giận khi biết Thượng hoàng cũng nhúng tay vào âm mưu hạ bệ mình và chuẩn bị vây bắt Thượng hoàng. Taira no Shigemori, người con cả đức hạnh của Kiyomori đã khuyên răn cha mình bằng cách nhắc nhở ông về giá trị của Nho giáo và lòng trung thành đối với Quân vương. Thượng thư Fujiwara no Narichika bị đày đến một hòn đảo và bị hành quyết một cách dã man. Những kẻ chủ mưu khác như Naritsune, Yasuyori và Shunkan đều bị lưu đày đến Kikaijima gần tỉnh Satsuma . Trong khi đó, chùa Enryaku-ji bị phá hủy và một trận hỏa hoạn ở Zenkō-ji đã khiến một bức tượng Phật bị thiêu cháy. Người ta tin rằng sự bất thường này là điềm báo về sự việc chẳng lành sắp xảy đến với nhà Taira. Những người bị đày đến Kikaijima đã dựng lên một ngôi đền để cầu nguyện sớm ngày được trở lại kinh đô. Họ đã làm ra hàng nghìn bảo tháp, khắc tên từng người một và ném xuống biển. Một trong những mảnh bảo tháp ấy trôi dạt đến bờ, sau được đưa về kinh thành và cho gia đình Yasuyori xem. Tin về mảnh bảo tháp đến tai Thượng hoàng Go-Shirakawa và Kiyomori, những mảnh bảo tháp ấy khiến mọi người đều cảm động. Chương 3 Con gái của Kiyomori, tức chính phi Taira no Tokuko bị mắc bệnh trong lúc mang thai. Căn bệnh của bà được cho là do những linh hồn giận dữ của những người bị hành quyết ( như Fujiwara no Narichika) và những người bị lưu đày. Taira no Kiyomori vì muốn mình có cháu trai mang huyết mạch Hoàng gia nên đã đồng ý ra lệnh ân xá. Con trai của Fujiwara no Narichika là Naritsune và Yasuyori được tha tội, nhưng Shunkan lại không được như thế. Ông bị bỏ lại một mình trên Kikaijima vì đã để những kẻ âm mưu chống Taira tụ họp tại tư dinh của mình. Một cảnh bi thảm nổi tiếng diễn ra sau khi Shunkan đập chân xuống đất trong tuyệt vọng. Con gái Tokuko của Kiyomori đã hạ sinh Thiên hoàng Antoku (1178). Cận thần trẻ tuổi trung thành của Shunkan là Ariō đã đến hòn đảo lưu đày và phát hiện Shunkan đang thoi thóp. Tuyệt vọng trước tin gia đình mình qua đời, Shunkan đã tự sát bằng cách tuyệt thực (1179). Việc nhà sư ấy ra đi trong đau khổ cũng như hiện tượng gió lốc tràn vào kinh thành được coi là dấu hiệu báo trước sự sụp đổ của gia tộc Taira. Người con trai đức hạnh của Kiyomori là Taira no Shigemori đã có chuyến hành hương đến Kumano và cầu xin các vị thần an bài cho ông một cái chết nhanh chóng trong trường hợp nhà Taira sụp đổ. Một thời gian ngắn sau đó, ông lâm bệnh và qua đời. Nếu không có sự can gián của con trai, Kiyomori có thể gây ra cuộc binh biến để đối phó với Thượng hoàng Go-Shirakawa. Quả đúng như vậy, về sau ông ta dẫn quân đến Kyoto, sau đó lưu đày và cách chức 43 trọng thần triều đình, trong đó có cả Nhiếp chính quan Fujiwara no Motofusa. Tiếp theo, Kiyomori đã giam giữ Thượng hoàng trong một cung điện hoang phế mang tên Seinan (1179). Chương 4 Thiên hoàng Takakura bị ép thoái vị và nhường ngôi cho cháu trai 3 tuổi của Kiyomori, tức Thiên hoàng Antoku sau này. Thượng hoàng Takakura đã khiến các nhà sư chùa Enryaku-ji tức giận với việc đến viếng Đền Itsukushima thay thế Enryaku-ji. Trước tình hình rối ren, Minamoto no Yorimasa đã thuyết phục Thân vương Mochihito, con trai thứ hai của Thượng hoàng Go-Shirakawa lãnh đạo lực lượng quân sự thuộc phe Minamoto chống lại nhà Taira và lên ngôi Tân đế. Thân vương Mochihito đưa ra lời kêu gọi lật đổ Taira bằng biện pháp quân sự. Cuộc chiến công khai giữa nhà Minamoto và nhà Taira được châm ngòi bởi việc Taira no Munemori - con trai của Kiyomori - đã sỉ nhục con trai của Minamoto no Yorimasa bằng cách tước đi con ngựa của đối phương và gọi nó bằng tên của người chủ. Âm mưu chống gia tộc Taira đã bị Taira no Kiyomori phát hiện. Thân vương Mochihito chạy trốn đến Miidera để tránh sự truy lùng. Yorimasa và các nhà sư chùa Miidera đã đối đầu với lực lượng phe Taira tại cây cầu bắc qua sông Uji (năm 1180) . Các nhà sư đã chiến đấu một cách kiên cường bất khuất, song lực lượng Taira đã vượt qua sông và giành chiến thắng trong trận chiến. Yorimasa tự sát tại ngôi đền Byōdōin và Thân vương Mochihito bị ám sát trên đường đến Kōfuku-ji cùng đồng minh ở Nara . Một trong những người con trai của Thân vương Mochihito bị buộc phải xuất gia, nhưng một người con khác đã tháo chạy về phương bắc để gia nhập lực lượng thuộc phe phái nhà Minamoto. Kiyomori ra lệnh đốt chùa Miidera; sau đó, nhiều ngôi đền bị đốt cháy và người dân coi đó là điềm xấu cho nhà Taira . Chương 5 Kiyomori dời đô từ Kyoto đến thành trì Fukuhara-kyō của mình vào năm 1180. Có cảnh về những bóng ma kỳ lạ xuất hiện trước Kiyomori như khuôn mặt đáng sợ, tiếng cười quỷ dị, đầu lâu chết chóc và những cơn ác mộng. Tin tức về tình trạng bất ổn ở các tỉnh phía đông (do Minamoto kiểm soát) đã được truyền đến kinh đô mới. Nhà sư Mongaku được chọn làm nhân vật làm nền cho cuộc nổi dậy của Minamoto no Yoritomo. Mongaku được mô tả là một nhà tu khổ hạnh có sức mạnh kỳ diệu, người đã yêu cầu quyên góp ngân sách cho triều đình vào năm 1179. Sau khi bị Thượng hoàng Go-Shirakawa từ chối, ông ta đã gây loạn trong triều đình và bị lưu đày đến tỉnh Izu . Tại Izu, Mongaku thuyết phục Minamoto no Yoritomo nổi dậy chống lại nhà Taira. Sau đó, ông ta đến Fukuhara và mang về Chiếu thư do Thượng hoàng phê chuẩn nhằm cho phép Minamoto no Yoritomo lật đổ Taira. Kiyomori cử một đoàn quân đi dẹp yên cuộc nổi loạn ở Yoritomo. Khi đến sông Fuji, phe Taira sau khi nghe những câu chuyện về sự hùng mạnh của các chiến binh phía đông đã lo sợ rằng phe Minamoto đông hơn họ. Vào ban đêm, một đàn chim nổi lên đã gây ra tiếng ồn lớn khiến quân Taira tưởng rằng họ bị tấn công nên hoảng sợ rút lui. Dưới sức ép của các sư sãi và cận thần, Kiyomori đành phải dời đô về Kyoto. Nghe lời đồn về một cuộc khởi binh do nhà Taira lên kế hoạch, các nhà sư của chùa Kōfukuji (vốn ủng hộ cuộc binh biến của Thân vương Mochihito) đã nổi dậy và giết tên sứ giả do Kiyomori cử đến. Lực lượng Taira tới bao vây Nara và đốt cháy nhiều ngôi chùa quan trọng ( Tōdai-ji, Kōfuku-ji), cũng như các pho tượng và kinh Phật. Hai vị Thượng hoàng cùng các cận thần than thở về sự điêu tàn của Nara. Về sau, hành động xấu xa này đã được cho là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Kiyomori. Chương 6 Năm 1181, Thượng hoàng Takakura băng thệ trong tình hình rối loạn xảy ra trong suốt nhiều năm qua. Kiso no Yoshinaka (anh họ của Minamoto no Yoritomo tại các tỉnh phía tây bắc) đã lên kế hoạch nổi dậy chống lại nhà Taira và thành lập một đội quân. Tin tức về cuộc nổi loạn do lực lượng chống nhà Taira đang tập hợp dưới sự lãnh đạo của Minamoto ở các tỉnh phía đông, Kyūshū, Shikoku đã được lan truyền. Với quân phe Taira lúc này, việc đối phó với tất cả các cuộc biến loạn dần trở nên khó khăn. Trưởng tộc nhà Taira là Kiyomori đổ bệnh khiến tình hình càng thêm loạn. Cơ thể ông nóng như lửa đến nỗi có bao nhiêu nước cũng không thể làm dịu được. Bất cứ giọt nước nào phun vào người ông đều biến thành ngọn lửa và khói đen tràn ngập khắp căn phòng. Vợ của Kiyomori mơ thấy một chiếc xe ngựa bốc cháy sẽ đưa Kiyomori xuống Địa ngục để trừng phạt về việc đốt tượng Phật ở Tōdai-ji. Trước khi chết trong đau đớn, Kiyomori ước rằng đầu của đối thủ Minamoto no Yoritomo được treo trước mộ mình. Cái chết của ông ta vào năm 1181 đã trở thành điểm sáng trong việc minh hoạ về sự vô thường và sự sụp đổ của kẻ hùng mạnh. Kiyomori sẽ bị tra tấn nơi Địa ngục bởi chính những việc làm xấu xa của mình. Danh tiếng và quyền lực của ông ta giờ đây đã tan thành mây khói. Ở phía đông, lực lượng Taira giành thắng lợi trong một số trận chiến, nhưng không thể đánh bại lực lượng Minamoto. Tuy vậy, một thế lực thần thánh đã xuất hiện để trừng phạt và giết chết thống đốc do Kiyomori bổ nhiệm nhằm dập tắt cuộc biến loạn của Kiso no Yoshinaka. Kiso no Yoshinaka về sau đã giành thắng lợi quan trọng trong trận chiến ở Yokotagawara (1182). Taira no Munemori, tân trưởng tộc Taira đã được phong một chức quan cao trong triều đình. Chương 7 Năm 1183, nhà Taira tập hợp một đội quân lớn (chủ yếu đến từ các tỉnh phía Tây) và điều quân đi đánh phe Minamoto no Yoshinaka và Minamoto no Yoritomo.Tại phía bắc, quân đội Taira cướp bóc của cải thuộc các ngôi làng địa phương. Taira no Tsunemasa đã đến một hòn đảo để cầu nguyện và sáng tác một bài thơ. Tại Cuộc vây hãm Hiuchi, nhà Taira đã nhận được sự giúp đỡ từ một trụ trì trung thành và đánh bại quân đồn trú của Yoshinaka. Yoshinaka thỉnh cầu tại Đền Hachiman để cầu xin sự tương trợ đến từ lực lượng siêu nhiên cho trận chiến sắp tới. Yoshinaka tấn công quân Taira vào ban đêm từ phía trước và phía sau, buộc chúng phải rút lui và tiến xuống Thung lũng Kurikara, nơi hầu hết trong số 70.000 kỵ binh Taira bị đè bẹp thành từng lớp người chồng lên nhau. Tại núi Shio-no-yama, Yoshinaka giúp người chú Yoshiie đánh bại lực lượng Taira (kết quả là con trai của Kiyomori là Tomonori bị giết trong trận chiến). Quân đội Taira cũng bị đánh bại trong Trận chiến Shinohara . Trong khi đó, Yoshinaka thuyết phục các nhà sư ở Núi Hiei đứng về phía mình. Trưởng tộc Taira là Taira no Munemori tháo chạy đến các tỉnh phía Tây cùng với Thiên hoàng Antoku và Tam chủng Thần khí (trong khi Thượng hoàng Go-Shirakawa tìm cách trốn thoát theo một hướng khác). Taira no Tadanori (anh trai của Kiyomori) trốn khỏi kinh đô và để lại một số bài thơ của mình cho nhà thơ nổi tiếng Fujiwara no Shunzei . Tsunemasa trả lại cây sáo trứ danh của mình cho chùa Ninna-ji .Tại Fukuhara-kyō, Munemori khiến mọi người cảm động với lời khẩu dụ tuân theo Thiên hoàng, sau đó phóng hỏa cung điện và dùng thuyền chạy trốn khỏi Fukuhara-kyō đến Kyūshū. Chương 8 Thượng hoàng Go-Shirakawa trở lại kinh thành từ chùa Enryaku-ji cùng với quân đội của Minamoto no Yoshinaka. Ông ra chỉ dụ sắc phong Tân đế cho Thiên hoàng Go-Toba, và loại bỏ gia tộc Taira khỏi các vị trí trong triều đình. Nhà Taira muốn thành lập thủ phủ mới ở Kyūshū, nhưng cuối cùng phải chạy trốn khỏi các chiến binh địa phương đứng về phía Thượng hoàng. Họ đến Yashima ở Shikoku, nơi họ phải sống trong những túp lều bé nhỏ thay cho chốn cung điện xa hoa. Cuối năm 1183, Minamoto no Yoritomo (vẫn ở Kamakura) được Thượng hoàng Go-Shirakawa bổ nhiệm làm "Chinh di Tướng quân" (shōgun). Yoritomo tiếp đón sứ giả kinh thành hết sức trang trọng bằng việc mời ông ta đến dự tiệc và tặng cho ông ta nhiều món quà. Cách cư xử của Yoritomo hoàn toàn trái ngược với cách cư xử kiêu ngạo của Minamoto no Yoshinaka ở kinh thành. Sự thô lỗ và thiếu hiểu biết phép tắc của Yoshinaka được thể hiện một cách lố bịch trong một số cảnh: chọc cười cận thần,mặc áo choàng đi săn, không biết cách xuống xe ngựa. Trong khi đó, nhà Taira đã lấy lại sức lực và tập hợp một đội quân hùng mạnh. Yoshinaka điều quân kháng cự, nhưng lần này nhà Taira đã chiến thắng trong trận chiến Mizushima. Sau chiến thắng trong Trận Muroyama, ảnh hưởng của họ đã tăng lên đáng kể . Tại kinh đô, Yoshinaka đối đầu với Thượng hoàng Go-Shirakawa trong trận chiến tại Hōjūji và giành quyền kiểm soát kinh thành cũng như triều đình bằng vũ lực. Minamoto no Yoritomo đã phái Minamoto no Yoshitsune đến chấm dứt sự chuyên quyền của Yoshinaka. Chương 9 Khi Minamoto no Yoshinaka chuẩn bị hành quân về phía Tây chống lại nhà Taira vào đầu năm 1184, đội quân do Minamoto no Yoshitsune chỉ huy đã đến tấn công ông từ phía đông. Cuộc đấu tranh trong nội bộ lực lượng Minamoto đã diễn ra sau đó. Yoshinaka cố gắng bảo vệ kinh thành, nhưng các chiến binh của Yoshitsune đã thành công vượt sông Uji và đánh bại lực lượng của Yoshinaka tại Uji và Seta. Yoshitsune chiếm quyền kiểm soát và canh giữ tư dinh của Thượng hoàng Go-Shirakawa nhằm tránh cho Thượng hoàng bị vây bắt bởi người của Yoshinaka. Yoshinaka hầu như không vượt qua được lực lượng của kẻ thù. Ông gặp người anh nuôi là Imai Kanehira và họ cố gắng trốn thoát khỏi sự truy đuổi của quân địch. Trong một cảnh được lan truyền rộng rãi, Yoshinaka đã bị giết khi con ngựa của ông bị mắc kẹt trong đống bùn lầy. Kanehira đánh trận cuối cùng và tự sát. Trong khi phe Minamoto chiến đấu nội bộ trong kinh thành, phe Taira đã quay về Fukuhara và thiết lập phòng thủ tại thành trì Ichi-no-tani (gần khu vực ngày nay là Suma-ku, Kobe ). Quân đội của Minamoto no Yoshitsune tiến về phía tây để tấn công nhà Taira từ phía sau trong khi người anh cùng cha khác mẹ Noriyori của ông tiến lên tấn công doanh trại Taira từ phía đông. Yoshitsune lên kế hoạch tấn công bất ngờ vào Ichi-no-tani từ phía tây, cưỡi con ngựa già dẫn đoàn quân của mình băng qua những ngọn núi. Trong khi đó, cuộc giao tranh ác liệt bắt đầu ở Ikuta-no-mori và Ichi-no-tani, nhưng không một bên nào giành được lợi thế. Kỵ binh của Yoshitsune đi xuống một con dốc lớn ở đèo Hiyodori và tấn công dứt khoát vào phía sau quân Taira. Quân Taira hoảng sợ và bỏ chạy lên thuyền. Taira no Tadanori (anh trai của Kiyomori, người đã đến thăm nhà thơ Shunzei ) bị giết. Taira no Shigehira (con trai của Kiyomori, người đã phóng hoả Nara ) bị người của ông bỏ rơi ở Ikuta-no-mori, sau bị bắt sống khi đang cố gắng tự sát. Trong một đoạn truyện được lưu truyền rộng rãi, Taira no Atsumori (cháu trai nhỏ tuổi của Kiyomori) bị chiến binh dưới trướng Kumagai Naozane thách đấu. Naozane đã áp đảo thành công, nhưng không dám giết đối thủ vì nhớ đến đứa con trai nhỏ của mình. Nhìn thấy cảnh những người lính trẻ suýt bị giết hại, Naozane quyết định giết Atsumori và tìm thấy cây sáo của ông ta (về sau Naozane đã quyết định xuất gia). Quân Taira bị đánh bại và phải chạy trốn bằng thuyền xuôi về các hướng khác nhau. Chương 10 Năm 1184, Taira no Shigehira (bị bắt sống) và đầu của những tên lính Taira bại trận được diễu hành trên đường phố thủ đô. Thượng hoàng Go-Shirakawa đề nghị Taira đổi Tam chủng thần khí để chuộc Shigehira, nhưng bị từ chối. Như vậy, chắc chắn sau đó Shigehira sẽ bị hành quyết. Shigehira lo rằng mình sẽ phải trả giá cho sự kiêu ngạo và hành động xấu xa trong quá khứ (đốt chùa Nara ), nên sau đó ông đã tình nguyện dâng hiến cho Phật giáo. Sư Hōnen (người sáng lập Phật giáo Tịnh độ tông ở Nhật Bản) đã phác thảo ngắn gọn những giáo lý thiết yếu (niệm danh hiệu A Di Đà, sám hối, đức tin sâu sắc đảm bảo vãng sinh về Tịnh độ). Shigehira đã có chuyến đi đến Kamakura . Trên hành trình dọc theo con đường mang tên Tōkaidō, Shigehira đã đi qua nhiều địa điểm gợi lên những liên tưởng về lịch sử và văn học. Minamoto no Yoritomo tiếp đãi Shigehira, sau khi nghe ông ta tuyên bố rằng việc đốt ngôi đền Nara chỉ là một tai nạn. Trước khi gặp các nhà sư ở Nara, Shigehira được tiếp đón nồng hậu tại Izu (chuẩn bị nước tắm, rượu được phục vụ, một người phụ nữ xinh đẹp tên Senju-no-mae được cử đến hầu hạ Yoritomo, cùng một số bài hát mang ý nghĩa Phật giáo được biểu diễn cùng sáo. Shigehira cũng hát và chơi điệu sáo – sau khi Shigehira bị xử tử, Senju-no-mae xuống tóc làm ni. Tại Yashima, Taira no Koremori, cháu trai của Taira no Kiyomori, đang đau buồn khi phải rời xa gia quyến tại kinh thành. Ông bí mật rời Yashima và đi lên núi Kōya. Ở đó, ông đã gặp một người đàn ông thánh thiện tên là Takiguchi Tokiyori. Một câu chuyện về mối tình bi thảm đã được lồng ghép vào giai đoạn khi Tokiyori vẫn còn là cận thần trong triều: Ông từng đem lòng yêu một cô gái xuất thân thấp kém tên Yokobue. Cha ông phản đối cuộc hôn nhân của họ và Tokiyori xuống tóc quy y. Yokobue đến tìm ông, nhưng ông kiên quyết không chịu gặp. Về sau, ông đã đến núi Kōya và trở thành một nhà sư đáng kính với pháp hiệu Takiguchi. Yokobue xuống tóc làm ni và qua đời khi còn trẻ. Koremori đến gặp Takiguchi, sau đó đi tu và hành hương đến Kumano. Sau khi được Takiguchi truyền đạt giáo lý Tịnh độ tông của Phật giáo, Koremori đã từ bỏ chấp niệm của mình, trầm mình xuống biển tự vẫn. Tin tức về việc ông ta tự sát truyền đến Yashima (doanh trại quân đội Taira). Quân Taira bị tấn công tại Fujito và rút lui. Chương 11 Năm 1185, một lực lượng nhỏ do Minamoto no Yoshitsune chỉ huy đổ bộ lên đảo Shikoku. Yoshitsune lên kế hoạch tấn công bất ngờ từ phía sau (đây là lần thứ hai triển khai kế sách này sau Trận Ichi-no-Tani ) vào thành trì nhàTaira trong Trận Yashima . Gia tộc Taira nghĩ rằng lực lượng chính của Minamoto đang tấn công họ nên hoảng sợ bỏ chạy theo đường thuỷ. Các chiến binh dưới trướng Taira bắn tên vào lực lượng của Yoshitsune. Taira no Noritsune, cháu trai của Kiyomori và là chỉ huy cầm đầu quân lính Taira bắn tên vào Minamoto no Yoshitsune, nhưng Tsuginobu, thuộc hạ của Yoshitsune đã chết để cứu chủ. Một phân cảnh trong truyện được truyền bá rộng rãi đã miêu tả một phu nhân thuộc gia tộc Taira cầm một chiếc quạt đứng trên thuyền như một lời thách thức hướng tới các chiến binh Minamoto và Nasu no Yoichi, một cung thủ trẻ của nhà Minamoto đã khéo léo dùng mũi tên của mình bắn trúng chiếc quạt. Trong cuộc giao tranh hỗn loạn trên bờ biển, Yoshitsune đã đánh mất cây cung của mình và liều mạng đến lấy lại cây cung đó. Cách giải thích phổ biến cho việc rằng Yoshitsune không muốn người họ Taira lấy được cây cung đó và chế giễu ông. Gia tộc Taira buộc phải rời Shikoku và rút lui về tỉnh Nagato (mũi phía nam của Honshū ). Trước trận chiến cuối cùng mang tên Dan-no-ura, phe gia tộc Minamoto đã có được những đồng minh mới: trụ trì đền Kumano quyết định hỗ trợ nhà Minamoto sau khi dùng cách đá gà để xem vận mệnh cho nhà Minamoto (cụ thể, phe đồng minh đã viện trợ 200 chiếc thuyền) cùng 150 chiếc thuyền đến từ tỉnh Shikoku. Như vậy, số phương tiện hỗ trợ cho nhà Minamoto tổng cộng khoảng 3000 chiếc tàu, lớn hơn nhiều so với con số 1000 của nhà Taira. Trước trận chiến, Yoshitsune đã có xích mích về việc dẫn đầu cuộc tấn công, thậm chí còn suýt đánh nhau với Kajiwara Kagetoki (chỉ huy quân Minamoto mang lòng đố kị với Yoshitsune). Bắt đầu trận chiến, quân Taira hừng hực khí thế và đã gần như giành phần thắng nhờ cách sắp xếp khéo léo của các cung thủ trên thuyền. Sau màn bắn tên từ xa, lực lượng chính bắt đầu chiến đấu. Tuy nhiên, sau đó đã xuất hiện những điềm báo đến từ trời cao (cờ trắng hạ xuống trên thuyền quân Minamoto, nhiều cá heo bơi đến thuyền quân Taira), dường như đã báo trước thắng lợi của nhà Minamoto. Taguchi Shigeyoshi đến từ tỉnh Awa ở Shikoku đã phản bội nhà Taira và báo cho nhà Minamoto biết về những chiếc thuyền chở lực lượng chính của Taira đã được nguỵ trang từ trước. Các chiến binh từ Shikoku và Kyūshū cũng đổi phe và quay sang hỗ trợ nhà Minamoto. Cảnh trận chiến được lồng ghép thêm một chi tiết cực kì bi thống: bà quả phụ Kiyomori ôm lấy vị Thiên hoàng nhỏ tuổi Antoku, cả hai đều chết do đuối nước. Nhiều người thuộc gia tộc Taira đã tự sát, hoặc bị quân đối thủ giết chết trong trận Dan-no-ura. Tomomori (con trai Kiyomori) tự tử. Taira no Noritsune, cháu trai của Kiyomori và là một chiến binh dũng mãnh đã thất bại trong cuộc chiến với Minamoto no Yoshitsune và hy sinh anh dũng. Trưởng tộc Taira là Taira no Munemori, cùng con gái Kiyomori là Taira no Tokuko bị bắt sống. Sau trận chiến, Yoshitsune trở về kinh thành cùng Tam chủng thần khí (thanh kiếm thiêng đã bị mất) và các binh lính đối thủ bị bắt sống. Các tù binh phe Taira bị bắt và đem đi diễu hành dọc đường phố trong sự thương xót của mọi người. Yoshitsune giao Munemori cho Minamoto no Yoritomo ở Kamakura, nhưng sau khi bị Kajiwara Kagetoki vu tội tạo phản, Yoritomo nghi ngờ Yoshitsune và không cho phép ông được vào Kamakura nữa. Minamoto no Yoshitsune đã viết một Bức thư đến từ Koshigoe, nhằm liệt kê những chiến công trong quân ngũ và lòng trung thành của ông, song Yoritomo vẫn giữ ông ở lại kinh thành. Taira no Munemori và con trai ông Kiyomune bị xử tử, đầu của họ bị treo gần cổng nhà lao sát kinh thành. Taira no Shigehira (con trai của Taira no Kiyomori, bị bắt trong trận Ichi-no-Tani ) được phép gặp vợ trước khi giao cho các nhà sư Nara quản thúc. Shigehira đặt hy vọng vào lòng từ bi và sự tái sinh của Phật A-di-đà ở miền cực lạc và cõi tịnh độ của vị Phật thiêng liêng ấy. Ông bị quân lính xử tử ngay trước mặt các nhà sư. Đầu của ông bị đóng đinh ở một nơi gần ngôi đền Nara. Sau khi hỏa táng đầu và thi thể ông, vợ ông quyết định xuống tóc làm ni. Chương 12 Một trận động đất mạnh tấn công thủ phủ Heian. Sự ngờ vực của Minamoto no Yoritomo đối với Minamoto no Yoshitsune ngày càng lớn. Yoritomo cử sát thủ đi giết Yoshitsune (nhưng thất bại). Sau đó, Yoritomo giết chếtMinamoto no Noriyori (anh trai cùng cha khác mẹ của Yoshitsune), người luôn trung thành với Yoshitsune. Khi Yoritomo điều một đạo quân hùng mạnh do Hōjō Tokimasa chỉ huy đến khống chế, Yoshitsune chạy trốn khỏi kinh đô đến một tỉnh phía bắc. Sau khi nắm quyền kiểm soát Bình An kinh, Tokimasa đã xử tử tất cả những người thừa kế tiềm năng của gia tộc Taira . Đã có người báo cho ông ta biết về tư dinh nơi gia đình Koremori (bao gồm cả Rokudai) đang ẩn náu. Rokudai (12 tuổi) là người thừa kế cuối cùng của gia tộc Taira. Rokudai bị bắt, nhưng vú nuôi của ông đã đi tìm nhà sư Mongaku ( xem Ch.5), sau đó sư đã đồng ý đến Kamakura để xin ân xá. Mongaku quay lại với một lá thư từ Yoritomo và cứu Rokudai ngay trước khi ông bị hành quyết. Yoritomo nghi ngờ Rokudai và buộc ông phải đi tu vào năm 1189, khi ấy ông mới 16 tuổi. Rokudai đã lên núi Núi Kōya và Kumano, nơi người cha Koremori của ông chết đuối. Trong khi đó, một số thành viên gia tộc Taira bị phát hiện và hành quyết. Năm 1192, Thượng hoàng Go-Shirakawa qua đời, hưởng thọ 66 tuổi. Yoritomo, lúc này vì vẫn còn nghi ngờ về sự duy trì của dòng họ Taira nên ra lệnh xử tử Rokudai (khoảng hơn 30 tuổi). Dòng dõi Taira chấm dứt. Sau khi Yoritomo qua đời năm 1199, nhà sư Mongaku, lúc này đã hơn 80 tuổi, lên kế hoạch cho cuộc binh biến để đưa một Thân vương lên ngai vàng. Âm mưu của ông bị phanh phui và Thượng hoàng Go-Toba lưu đày ông đến đảo Oki. "Cuốn sách khai tâm" Năm 1185, Taira no Tokuko đi tu và chuyển đến sống trong một túp lều cũ gần kinh đô. Cuộc sống của bà tràn ngập nỗi khổ đau trong sự ám ảnh về những ký ức vinh quang trong quá khứ. Sau trận động đất năm 1185, túp lều bị đổ nát. Vào mùa thu năm 1185, Taira no Tokuko sống ẩn dật tại Phật đường hẻo lánh Jakkō-in ở vùng núi Ohara để tránh sự chú ý của dân chúng. Ở đó, bà đã cống hiến hết mình cho Phật giáo. Cảnh sắc thiên nhiên gợi lên hình ảnh về cõi Cực Lạc và vô thường hiện lên trong tâm trí. Vào mùa xuân năm 1186, Thượng hoàng Go-Shirakawa đến thăm nơi bà sống ẩn dật trên núi. Bà đã trò chuyện với Thượng hoàng về nỗi đau khổ của con người và những ý tưởng của Phật giáo về đau khổ và tái sinh ở cõi tịnh độ. Khi nhớ lại vinh quang trong quá khứ của nhà Taira và sự sụp đổ của gia tộc, bà đã so sánh những sự kiện trong cuộc đời mình với sáu cõi tái sinh . Bà cũng nhắc đến một giấc chiêm bao, trong đó bà đã nhìn thấy những người họ Taira, và họ yêu cầu bà cầu nguyện cho họ được cứu rỗi. Tiếng chuông của Jakkō-in vang lên (song song với tiếng chuông của tu viện Gion trong những dòng đầu tiên của Truyện ) và Thượng hoàng rời nơi Phật đường hẻo lánh để về kinh. Những bất hạnh của nhà Taira đều quy hết cho Taira no Kiyomori vì những hành động xấu xa của hắn khi còn sống đã gây ra đau khổ cho cả gia tộc Taira. Năm 1191, Tokuko lâm bệnh. Trước lúc băng thệ, bà cầu nguyện với Phật A-di-đà và được Phật đón về miền cực lạc. Cốt truyện bổ sung Genpei Jōsuiki, còn được gọi là , là phần cốt truyện bổ sung gồm 48 cuốn của Heike Monogatari Xem thêm Danh sách nhân vật trong Heike Monogatari Genji: Dawn of Samurai (trò chơi điện tử) Genji: Days of the Blade (trò chơi điện tử) Chiến tranh Genpei, 1180–1185 Biến loạn Hōgen, 1156 Câu chuyện về Hōgen hay Hōgen monogatari, một tác phẩm văn học ăn theo. Biến loạn Heiji, 1159–1160 Truyện Heiji, còn gọi Heiji monogatari Heikegani Chuyện Bình gia (tiểu thuyết năm 2016, được chuyển thể thành bộ anime năm 2021) Chú thích Tham khảo Brown, Delmer và Ichiro Ishida. (1979). Tương lai và quá khứ: bản dịch và nghiên cứu về 'Gukanshō', một cuốn lịch sử diễn giải về Nhật Bản được viết vào năm 1219. Berkeley: Nhà xuất bản Đại học California . ; OCLC 5145872 Kitagawa, Hiroshi và Bruce T. Tsuchida, biên tập. (1975). Câu chuyện về Heike. Tokyo: Nhà xuất bản Đại học Tokyo . ; ; ; ; OCLC 193064639 McCullough, Helen Craig . (1988). Câu chuyện về Heike . Stanford: Nhà xuất bản Đại học Stanford . ; OCLC 16472263 __. (1994). Genji và Heike. Các lựa chọn từ 'Truyện kể Genji' và 'Truyện kể về Heike'. Stanford: Nhà xuất bản Đại học Stanford .ISBN 0-8047-2258-7 Watson, Burton và Haruo Shirane. (2006). Câu chuyện về Heike (tóm tắt). New York: Nhà xuất bản Đại học Columbia .ISBN 9780231138024 ; ; OCLC 62330897 Tác phẩm khuyết danh Bài viết có văn bản tiếng Nhật Văn học Nhật Bản Văn học thời Heian Văn học Phật giáo Nhật Bản Monogatari Văn học trung đại Sách lịch sử thế kỷ 13 Tài liệu lịch sử
19851603
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bryaninops%20natans
Bryaninops natans
Bryaninops natans là một loài cá biển thuộc chi Bryaninops trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1985. Từ nguyên Từ định danh natans trong tiếng Latinh có nghĩa là “trôi nổi”, hàm ý đề cập đến hành vi trôi lơ lửng của loài cá này, trái ngược với hành vi bám lấy san hô của đồng loại. Phân bố và môi trường sống Từ Bắc Biển Đỏ và Seychelles, B. natans có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall và quần đảo Cook, xa về phía nam đến Úc và đảo Rapa Iti, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, B. natans được ghi nhận tại quần đảo Trường Sa. B. natans sống cộng sinh với một số loài san hô cành Acropora (đặc biệt là Acropora loripes và Acropora squarrosa ở Biển Đỏ), được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 33 m. Loài bị đe dọa Các quần thể san hô Acropora ở Ấn-Thái Dương đã suy giảm trung bình từ 25% đến 35% từ những năm 1990 đến 2010, và hiện tượng tẩy trắng san hô ngày càng gia tăng. Do B. natans cộng sinh chặt chẽ với Acropora nên được xếp vào nhóm Loài sắp bị đe dọa theo Sách đỏ IUCN. Mô tả Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở B. natans là 2,5 cm. Cơ thể gần như trong suốt, ngoại trừ phần bụng có màu vàng. Hốc mắt và mống mắt có màu hồng tươi. Số gai vây lưng: 5–9; Số tia vây lưng: 7–9; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ngực: 14–17. Sinh thái Thức ăn của B. natans là động vật phù du. Tuổi thọ của loài này không quá 4–5 năm. B. natans có thể phát huỳnh quang đỏ quanh mắt ở độ sâu mà ban ngày hầu như ánh sáng đỏ từ Mặt Trời không rọi xuống được. Thương mại B. natans được đánh bắt thương mại vì mục đích buôn bán cá cảnh. Tham khảo N Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá biển Đỏ Cá Ả Rập Cá Ai Cập Cá Seychelles Cá Madagascar Cá Maldives Cá Việt Nam Cá Philippines Cá Nouvelle-Calédonie Động vật được mô tả năm 1985
19851604
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20n%C4%83m%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BB%A9c
Danh sách năm tại Đức
Đây là danh sách năm tại Đức. Xem thêm Niên biểu lịch sử Đức. Đối với những bài viết về những năm ở Đức đã được viết, hãy xem :Thể loại:Đức theo năm. Thế kỷ 21 Thế kỷ 20 Thế kỷ 19 Thế kỷ 18 Thế kỷ 17 Xem thêm Niên biểu lịch sử Đức Danh sách năm theo quốc gia Danh sách liên quan đến lịch sử Đức Đức
19851617
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aero%20Nomad%20Airlines
Aero Nomad Airlines
Aero Nomad Airlines LLC là một hãng hàng không Kyrgyzstan có trụ sở tại thủ đô Bishkek. Hãng được thành lập vào năm 2021 và bắt đầu hoạt động vào tháng 11 năm 2021 với chuyến bay đầu tiên từ Kyrgyzstan đến Delhi, thủ đô của Ấn Độ. Hãng có 2 trạm trung chuyến. Trạm trung chuyến chính ở Bishkek còn trạm trung chuyến phụ ở Osh. Lịch sử ra đời Hãng hàng không này được thành lập vào năm 2020 và có dòng Airbus A320-200 đầu tiên vào tháng 10 năm 2021. Hãng đã nhận được Chứng chỉ khai thác máy bay (AOC) từ Cục Hàng không Dân dụng Kyrgyzstan vào ngày 5 tháng 11 năm 2021 và bắt đầu đi vào hoạt động với chuyến bay đầu tiên đến Delhi vào ngày 19 tháng 11 năm 2021. Aero Nomad Airlines hiện đang có kế hoạch mở rộng hoạt động tại các quốc gia và khu vực trong tương lai như Trung Quốc, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, khu vực châu Âu và Trung Đông. Điểm đến Tính đến tháng 2 năm 2024, hãng đã khai thác các điểm đến sau đây đến và đi từ Bishkek và Osh: Đội máy bay Tính đến tháng 3 năm 2023, hãng đã khai thác các loại máy bay sau: Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Hãng hàng không Kyrgyzstan Khởi đầu năm 2021 Khởi đầu năm 2021 ở châu Á Khởi đầu năm 2021 ở Kyrgyzstan
19851620
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B2a%20%C3%A1n%20t%E1%BB%91i%20cao%20Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n
Tòa án tối cao Nhật Bản
là cơ quan xét xử cấp cao nhất của Nhật Bản. Tòa án tối cao có nhiệm vụ giải thích Hiến pháp Nhật Bản và thực hiện quyền giám sát hiến pháp đối với luật, những văn bản pháp luật khác. Trụ sở Tòa án tối cao đặt tại Chiyoda, Tokyo. Lịch sử Tòa án tối cao Nhật Bản được thành lập tại Điều 81 Hiến pháp Nhật Bản vào năm 1947. Trong những năm đầu tiên, Tòa án tối cao tập trung giải thích phạm vi của quyền giám sát hiến pháp của Tòa. Năm 1948, Tòa án tối cao tuyên bố quyền giám sát hiến pháp của Tòa được thực hiện giống với quyền giám sát hiến pháp tại Hoa Kỳ. Năm 1952, Tòa án tối cao xác định quyền giám sát hiến pháp chỉ được áp dụng trong một vụ án cụ thể. Vào thập niên 60 và 70, Tòa án tối cao trải qua một cuộc "khủng hoảng tư pháp" do xung đột giữa những thẩm phán già, bảo thủ và những thẩm phán trẻ, tiến bộ. Năm 1971, Tòa án tối cao không cho bổ nhiệm lại phó thẩm phán Miyamoto Yasauaki vì đã tham gia những tổ chức cánh tả. "Vụ Miyamoto" được đưa tin rầm rộ trên truyền thông và Tòa án tối cao bị những thẩm phán khác chỉ trích. Tuy chưa có thẩm phán nào không được bổ nhiệm lại kể từ đó nhưng Tòa án tối cao đã được cải tổ theo hướng bảo thủ do nhiều thẩm phán được bổ nhiệm trong số cán bộ lâu năm. Nhiệm vụ và quyền hạn Điều 81 Hiến pháp Nhật Bản quy định Tòa án tối cao là tòa án chung thẩm của Nhật Bản, có thẩm quyền quyết định tính hợp hiến của luật, mệnh lệnh, quy tắc và những văn bản pháp luật khác. Tòa án tối cao có quyền xét xử chung thẩm đối với những vụ án hình sự, dân sự, hành chính. Vì không thể từ chối thụ lý vụ án nên phần lớn công việc của Tòa án tối cao là xét xử chung thẩm vụ án của những tòa án cấp dưới. Tòa án tối cao có nhiệm vụ quản lý các tòa án về tổ chức, ngân sách và biên chế. Chánh án Tòa án tối cao có nhiều quyền hạn về nhân sự tư pháp thông qua Ban Thư ký chung, bao gồm quyền quyết định luân chuyển, điều động, biệt phái thẩm phán. Viện Nghiên cứu và Đào tạo tư pháp thuộc Tòa án tối cao có nhiệm vụ đào tạo luật sư, công tố viên, thẩm phán đã đậu kỳ thi hành nghề luật quốc gia. Quyền giám sát hiến pháp Tuy có quyền tuyên bố luật là vi hiến nhưng Tòa án tối cao rất hiếm khi thực hiện quyền hạn này. Trong sáu thập kỷ đầu, Tòa án tối cao đã tuyên bố hủy bỏ chỉ tám đạo luật trong khi Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức đã hủy bỏ hơn 600 đạo luật, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã hủy bỏ hơn 900 đạo luật trong cùng khoảng thời gian. Ngoài ra, đã có ít nhất một trường hợp luật vi phạm hiến pháp nhưng chính quyền từ chối thi hành quyết định của Tòa án tối cao. Nhiều lý do, quan điểm đã được đưa ra về tình trạng này. Một quan điểm tiêu cực là thẩm phán Tòa án tối cao chịu sự ảnh hưởng của Đảng Dân chủ Tự do và sẽ không hủy bỏ luật được Quốc hội thông qua nhằm duy trì mối quan hệ lành mạnh với Bộ Tư pháp và những bộ ngành khác. Có ý kiến cho rằng bộ máy nhà nước Nhật Bản là bảo thủ và sẽ không đề bạt thẩm phán có tư tưởng tiến bộ vào Tòa án tối cao. Về mặt lịch sử, có thể lập luận rằng ngành tư pháp Nhật Bản chịu sự ảnh hưởng của một truyền thống luật học Đức không cho phép tòa án hủy bỏ luật vi hiến, được phản ánh trong Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản, tạo thành một tiền lệ không can thiệp vào những vụ án nhạy cảm nhằm bảo đảm tính độc lập tư pháp. Một quan điểm tích cực hơn là Cục Pháp chế Nội các đã xem xét kĩ lưỡng dự luật của chính phủ trước khi Quốc hội thông qua, cho nên Tòa án tối cao không cần phải thường xuyên hủy bỏ luật của Quốc hội vì lý do vi hiến. Cục Pháp chế Nội các gồm những cán bộ cấp cao và một vài thẩm phán, đã có thẩm phán được bổ nhiệm vào Tòa án tối cao. Thành phần Tòa án tối cao gồm một chánh án và 14 thẩm phán. Thẩm phán Tòa án tối cao được chia thành ba Tiểu ban có nhiệm vụ xét xử chung thẩm hầu hết các vụ án. Trong trường hợp giải thích hiến pháp thì Tòa án tối cao họp thành Ủy ban toàn thể gồm tất cả 15 thẩm phán để xem xét mà phải có ít nhất chín thẩm phán tham gia xét xử. Thẩm phán Tòa án tối cao do Nội các bổ nhiệm. Chánh án do Thiên hoàng bổ nhiệm theo sự đề cử của Nội các. Thẩm phán Tòa án tối cao phải đủ 40 tuổi trở lên và am hiểu pháp luật. Tại cuộc bầu cử Chúng nghị viện đầu tiên sau khi một thẩm phán được bổ nhiệm sẽ tổ chức trưng cầu ý dân về lưu nhiệm, thẩm phán bị bãi nhiệm trong trường hợp đa số cử tri bỏ phiếu không tán thành. Chưa có thẩm phán Tòa án tối cao nào bị bãi nhiệm theo thể thức này. Ngoài ra, Hiến pháp Nhật bản quy định cứ mười năm thì tổ chức trưng cầu ý dân về lưu nhiệm nhưng hầu hết các thẩm phán được bổ nhiệm khi đã ít nhất 60 tuổi trở lên và phải nghỉ hưu vào 70 tuổi. Một quy tắc bất thành văn trong việc bổ nhiệm thẩm phán Tòa án tối cao là phải phân bổ đồng đều giữa những ngành nghề luật khác nhau: thẩm phán, luật sư, công tố viên, giáo sư và công chức. Trụ sở Tòa án tối cao họp lần đầu tiên vào tháng 5 năm 1947 tại nơi làm việc của Viện cơ mật trong Hoàng cung Tokyo. Tháng 9 năm 1947, Tòa án tối cao dời về trụ sở Tòa án địa phương Tokyo. Kế hoạch ban đầu là Tòa án tối cao sẽ đặt trụ sở tại tòa nhà Đại thẩm viện, là cơ quan xét xử cấp cao nhất của Đế quốc Nhật Bản nhưng tòa nhà bị phá hủy trong Chiến tranh thế giới thứ hai mà phải đến tháng 10 năm 1949 mới được xây dựng lại. Tòa án tối cao sử dụng trụ sở cũ của Đại thẩm viện trong 25 năm. Năm 1964, chính quyền tổ chức cuộc thi thiết kế trụ sở mới của Tòa án tối cao. Trong số 217 bài dự thi, thiết kế của một tập thể 17 người bao gồm kiến trúc sư Okada Shinichi được chọn. Tòa nhà được khởi công vào năm 1971 và khánh thành vào năm 1974. Trụ sở Tòa án tối cao hiện tại nằm ở Chiyoda, Tokyo. Vật liệu xây dựng là bê tông cốt thép và sử dụng đá granit trắng giống như trụ sở Đại thẩm viện. Tòa nhà gồm năm tầng trên mặt đất và hai tầng hầm. Danh sách thẩm phán Tòa án tối cao Những thẩm phán Tòa án tối cao đương nhiệm gồm: Xem thêm Chánh án Tòa án tối cao Nhật Bản Luật pháp Nhật Bản Hệ thống tư pháp của Nhật Bản Chính trị Nhật Bản Tham khảo Đọc thêm Hiroshi Itoh. The Supreme Court and Benign Elite Democracy in Japan. London: Routledge, 2010. Liên kết ngoài Supreme Court of Japan Justices of the supreme court / Former Justices Khởi đầu năm 1947 ở Nhật Bản Tòa án hiến pháp Tòa án tối cao quốc gia Bài viết có văn bản tiếng Nhật Tọa độ không có sẵn trên Wikidata Hộp thông tin khung bản đồ không có ID quan hệ OSM trên Wikidata
19851621
https://vi.wikipedia.org/wiki/Knuckles%20%28phim%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%29
Knuckles (phim truyền hình)
Knuckles là bộ phim truyền hình ngắn tập được sáng tạo bởi John Whittington và Toby Ascher cho nền tảng chiếu phim trực tuyến Paramount+, dựa trên loạt trò chơi điện tử Sonic the Hedgehog được xuất bản bởi Sega. Đây sẽ là phần phim ngoại truyện của Nhím Sonic 2 (2022), và là một phần của loạt phim Nhím Sonic đồng thời cũng là bộ phim truyền hình người đóng đầu tiên của loạt phim. Idris Elba sẽ tiếp tục trở lại lồng tiếng cho nhân vật Knuckles the Echidna từ phần phim Nhím Sonic 2 bên cạnh Adam Pally, người sẽ trở lại với vai diễn Wade. Bộ phim chính thức được công bố vào tháng 2 năm 2022 trong khuôn khổ sự kiện Nhà đầu tư của ViacomCBS với sự tham gia của Elba. Quá trình sản xuất của phim bắt đầu tại Luân Đôn, Vương quốc Anh vào tháng 4, 2024. Knuckles sẽ được công chiếu trên Paramount+ vào đầu năm 2024. Tiền đề Lấy bối cảnh giữa các sự kiện của Nhím Sonic 2 (2022) và Nhím Sonic 3 (2024), bộ phim sẽ là hành trình theo chân Knuckles the Echidna và cách anh ta huấn luyện Phó Cảnh sát Trưởng Wade Whipple theo cách của các chiến binh Echidna. Diễn viên Nhân vật chính Idris Elba lồng tiếng vai Knuckles the Echidna: Một con thú lông nhím màu đỏ với tính cách nóng nảy và nghiêm túc có siêu sức mạnh,Elba đã chia sẻ rằng bộ phim sẽ khám phá việc Knuckles trở thành "một con cá ra khỏi mặt nước" sau khi chuyển đến Trái Đất trong đoạn cuối của Nhím Sonic 2 (2022). Adam Pally thủ vai Wade Whipple, Phó Cảnh sát Trưởng tại Green Hills, người sẽ được Knuckles huấn luyện để trở thành một Chiến binh Echidna. Nhân vật phụ Cary Elwes thủ vai "Pistol" Pete Whipple: Một vận động viên ném bóng lập dị với 27 lần vô địch và là họ hàng của Wade. Edi Patterson Julian Barratt Scott Mescudi Ellie Taylor thủ vai một nhân vật phản diện bí ẩn Khách mời đặc biệt Rory McCann Tika Sumpter thủ vai Maddie Wachowski, mẹ nuôi của Knuckles và là một bác sĩ thú y địa phương tại Green Hills. Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của Stockard Channing, Christopher Lloyd, Paul Scheer và Rob Huebel trong các vai diễn chưa được tiết lộ. Tập phim Các tập phim thứ hai đến thứ sáu sẽ lần lượt được biên kịch bởi John Whittington, Brian Schacter, James Madejski, Brian Schacter và John Whittington. Jorma Taccone, Carol Banker, Brandon Trost và Ged Wright sẽ cùng nhau thay phiên để chỉ đạo các tập phim. Phát hành Knuckles sẽ được ra mắt trên nền tảng trực tuyến Paramount+ vào đầu năm 2024. Notes Nguồn Liên kết ngoài Chương trình truyền hình Mỹ Chương trình truyền hình tiếng Anh
19851633
https://vi.wikipedia.org/wiki/Electronica
Electronica
Electronica là một thể loại nhạc dựa trên nhạc điện tử nhằm mục đích để nghe hơn là để khiêu vũ và là một loại nhạc nổi tiếng vào những năm 1990. Tại Hoa Kỳ, thuật ngữ này được dùng để sử dụng cho loại nhạc điện tử nói chung. Lịch sử Trước thập niên 90s: nguồn gốc hình thành và bối cảnh của nước Anh Việc sử dụng rộng rãi thuật ngữ "electronica" xuất phát từ tiếng Anh và có ảnh hưởng lớn từ nhạc experimental techno nhãn New Electronica, một trong những đơn vị hàng đầu những năm 1990 phát hành và hỗ trợ nhạc điện tử dựa trên hướng nhạc khiêu vũ tại nhà hơn là khiêu vũ chơi trên sàn, mặc dù từ "electronica" đã bắt đầu gắn liền với âm nhạc từ synthesizer ngay từ năm 1983 , khi một "Lễ hội Electronica nước Anh" lần đầu được tổ chức. Vào thời điểm đó electronica được biết đến là một loại "nhạc nghe điện tử", cũng ít nhiều đồng nghĩa với ambient techno và intelligent techno, nó được coi là khác biệt với các thể loại nhạc mới nổi khác ví dụ như jungle và trip hop. Các nghệ sĩ Electronica sau này thành công trong thương mại âm nhạc và bắt đầu tạo những bản thu âm vào cuối những năm 1980, trước khi thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi, bao gồm luôn cả những thể loại như the Prodigy, Fatboy Slim, Daft Punk, the Chemical Brothers, the Crystal Method, Moby, Underworld và Faithless. Giữa thập niên 90s: ảnh hưởng đến âm nhạc đại chúng Khoảng giữa những năm 90, với sự thành công của big beat được thể hiện bởi Chemical Brothers và Prodigy tại Vương Quốc Anh, đồng thời được chú ý bởi các nghệ sĩ âm nhạc, bao gồm Madonna trong sự kết hợp của cô với William Orbit trong album Ray of Light và ca sĩ người Úc Dannii Minogue với album Girl năm 1997, âm nhạc thời kì này được sản xuất với kinh phí cao hơn, tăng về chất lượng của sản phẩm âm nhạc, với nhiều lớp hơn hầu hết các thể loại dance music khác, vì nó được hỗ trợ bởi hãng đĩa major record labels và MTV nó được coi là "điều lớn lao tiếp theo". Theo một bài báo trên Billboard vào năm 1997, "sự kết hợp của câu lạc bộ cộng đồng với các Hãng đĩa độc lập" đã cung cấp môi trường thử nghiệm và tạo ra xu hướng trong đó các hoạt động electronica phát triển và trở thành xu hướng chủ đạo. Nó trích dẫn các nhãn hiệu của Hoa Kỳ như Astralwerks (the Chemical Brothers, Fatboy Slim, the Future Sound of London, Fluke), Moonshine (DJ Keoki), Sims, và City of Angels (the Crystal Method) vì đã đóng một vai trò quan trọng trong việc khám phá và tiếp thị những nghệ sĩ đã trở nên nổi tiếng trong làng nhạc điện tử. Madonna và Björk được cho là chịu trách nhiệm đưa nhạc điện tử vào nền văn hóa mainstream, với những album của họ như Ray of Light (Madonna), Post và Homogenic (Björk). Cuối thập niên 90s: sự hoà nhập của Mỹ Trong năm 1997, ngành công nghiệp âm nhạc chính thống Bắc Mỹ đã áp dụng và ở một mức độ nào đó đã sản xuất nhạc điện tử như một thuật ngữ chung bao gồm các phong cách như techno, big beat, drum and bass, trip hop, downtempo, và ambient, bất kể nó có được các hãng indie quản lý hay không, nó phục vụ cho các hộp đêm "ngầm" và các cảnh rave, hoặc được các hãng lớn cấp phép và tiếp thị cho khán giả đại chúng như một giải pháp thay thế khả thi về mặt thương mại cho nhạc alternative rock. Thành phố New York đã trở thành một trung tâm thử nghiệm và phát triển âm thanh điện tử, với các DJ và nhà sản xuất âm nhạc từ các khu vực đa dạng như Đông Nam Á và Brazil mang tác phẩm sáng tạo của họ đến các hộp đêm của thành phố đó. Chú thích Literature James Cummins. 2008. Ambrosia: About a Culture – An Investigation of Electronica Music and Party Culture. Toronto, ON: Clark-Nova Books. Tham khảo Electronica Đặc điểm và định nghĩa Electronica được hưởng lợi từ những tiến bộ trong công nghệ âm nhạc, đặc biệt là các nhạc cụ điện tử, bộ tổng hợp, bộ phối âm nhạc, máy trống, và máy trạm âm thanh kỹ thuật số. Khi công nghệ phát triển, Khi công nghệ phát triển, các cá nhân hoặc nhóm nhỏ hơn có thể sản xuất các bài hát và bản ghi âm điện tử trong các phòng thu nhỏ hơn, thậm chí trong phòng thu dự án. Trong cùng thời gian đó, máy tính đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng các "samples" và "loops" âm nhạc làm bộ công cụ xây dựng các tác phẩm âm thanh. Điều này dẫn đến một thời kỳ thử nghiệm sáng tạo và phát triển các hình thức mới, một số trong đó được gọi là điện tử. Phạm vi ảnh hưởng rộng lớn, cả âm thanh và thành phần, được kết hợp trong bản ghi âm điện tử. Electronica bao gồm nhiều loại hình và phong cách âm nhạc khác nhau, được liên kết bởi thiên hướng sản xuất điện tử một cách công khai; một phạm vi bao gồm các nghệ sĩ nổi tiếng hơn như Björk, Madonna, Goldfrapp, các nghệ sĩ IDnhưts Autechrevànd Aphex Twin. Sự khác biệt giữa các khu vực Ngành công nghiệp âm nhạc mainstream ở Bắc Mỹ sử dụng thuật ngữ này như một danh mục chung để chỉ bất kỳ phong cách âm nhạc điện tử dựa trên dance nào có tiềm năng thu hút nhạc pop. AllMusic có trụ sở tại Mỹ vẫn phân loại nhạc điện tử là một thể loại cấp cao nhất, tuyên bố rằng nó bao gồm grooves, cũng như âm nhạc dành cho tai nghe và khu vực nghe nhạc chillout. Ở những nơi khác trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Electronica cũng là một thuật ngữ rộng, nhưng gắn liền với âm nhạc không thiên về khiêu vũ, bao gồm các phong cách nghe nhạc điện tử tương đối experimental. Nó một phần trùng lặp với thứ được biết đến chủ yếu bên ngoài Vương quốc Anh là nhạc IDM (IDM).
19851641
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng%20C%C3%B4ng%20nh%C3%A2n%20C%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n%20%28Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n%29
Đảng Công nhân Cộng sản (Nhật Bản)
Đảng Công nhân Cộng sản () là một đảng cộng sản thân Liên Xô từng tồn tại ở Nhật Bản. Được thành lập vào tháng 11 năm 1966, Đảng chia thành ba phái vào tháng 12 năm 1971. Cơ quan ngôn luận là tờ báo Toitsu xuất bản từ tháng 2 năm 1967 đến tháng 12 năm 1971. Tham khảo Cựu đảng cộng sản Khởi đầu năm 1966 ở Nhật Bản Đảng Cộng sản ở Nhật Bản Đảng chính trị không còn tồn tại ở Nhật Bản Đảng chính trị thành lập năm 1966 Đảng chính trị giải thể năm 1986 Chấm dứt năm 1986 ở Nhật Bản
19851648
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng%20C%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n%20%C3%9Ac
Đảng Cộng sản Úc
Đảng Cộng sản Úc (CPA) là một đảng phái chính trị ở Úc được thành lập vào năm 1920. Từ thời kỳ đỉnh cao năm 1945, số đảng viên và ảnh hưởng của đảng liên tục suy giảm cho đến khoảng năm 1991 thì giải thể. Giống như hầu hết các đảng cộng sản ở phương Tây, đảng này tham gia rất nhiều vào phong trào lao động và công đoàn. Số lượng thành viên và ảnh hưởng của nó đã tăng lên đáng kể trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến trước khi đạt đến đỉnh cao vào năm 1945, khi có khoảng trên 22.000 đảng viên. Mặc dù đảng không giành được ghế nghị sĩ liên bang nhưng đảng viên Fred Paterson vẫn được bầu vào Quốc hội Queensland (đại diện cho Bowen) tại cuộc bầu cử bang năm 1944. Đảng từng nắm giữ các chức vụ tại hơn chục khu vực chính quyền địa phương trên khắp New South Wales và Queensland. Tham khảo Chú thíchThư mục Đọc thêm Stuart Macintyre, The Reds, 1998, Allen và Unwin. Tập đầu tiên của lịch sử lớn bao gồm nền tảng cho đến năm 1941. Alastair Davidson, Đảng Cộng sản Úc: Lịch sử ngắn, 1969. Đến cuối những năm 1960. Tom O'Lincoln, Into the Mainstream: The Decline of Australian Communism, January, 1985. ISBN 0-9590486-1-8. Daisy Marchisotti, Land Rights: The Black Struggle, Brisbane: Queensland State Committee, Communist Party of Australia, 1978. ISBN 0909913323 Cựu đảng cộng sản Chi bộ Quốc tế Cộng sản Khởi đầu năm 1920 ở Úc Chấm dứt năm 1991 ở Úc Quan hệ Úc–Liên Xô Đảng cộng sản ở Úc Cựu đảng phái chính trị ở Úc Chính trị cực tả ở Úc Đảng Marxist ở Úc Đảng chính trị giải thể năm 1991 Đảng chính trị thành lập năm 1920 Đảng Cộng sản Úc
19851654
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng%20C%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n%20%C3%81o
Đảng Cộng sản Áo
Đảng Cộng sản Áo (, KPÖ) là một đảng cộng sản hoạt động ở Áo. Được thành lập vào năm 1918 với tên gọi Đảng Cộng sản Đức-Áo (KPDÖ), đây là một trong những đảng cộng sản lâu đời nhất thế giới. KPÖ từng bị cấm trong giai đoạn từ 1933 đến 1945 dưới chế độ phát xít Áo và chính quyền Đức Quốc xã ở Áo sau sự kiện Anschluss năm 1938. Đảng hiện giữ hai ghế (hội đồng lập pháp bang) ở Styrian và bốn ghế ở Salzburg , nhưng chưa có đại diện trong Hội đồng Quốc gia (, Quốc hội liên bang Áo) từ năm 1959. Trong cuộc bầu cử lập pháp tổ chức vào ngày 29 tháng 9 năm 2019, đảng chỉ giành được 0,7% số phiếu bầu (32.736 trên tổng số 4.835.469), thấp hơn nhiều so với mức tối thiểu 4% để giành được ghế trong Hội đồng Quốc gia. Ở cấp địa phương, KPÖ đã giữ ghế thị trưởng Graz, thành phố lớn thứ hai của Áo, kể từ năm 2021 và giữ hơn 130 ghế trong các hội đồng quận và thành phố trên toàn quốc. Thư mục Autorenkollektiv: Die Kommunistische Partei Österreichs. Beiträge zu ihrer Geschichte und Politik Globus-Verlag. Wien 1989 Walter Baier und Franz Muhri: Stalin und wir Globus-Verlag, Wien 1991, Heinz Gärtner: Zwischen Moskau und Österreich. Die KPÖ - Analyse einer sowjetabhängigen Partei. In: Studien zur österreichischen und internationalen Politik 3 - : Braumüller, Wien 1979 Helmut Konrad: KPÖ u. KSC zur Zeit des Hitler-Stalin-Paktes Europa-Verlag, Wien München Zürich 1978, (Veröffentlichung des Ludwig Boltzmann Inst. f. Geschichte d. Arbeiterbewegung) Manfred Mugrauer: Die Politik der KPÖ in der Provisorischen Regierung Renner Studien-Verlag (erscheint im September 2006), Wolfgang Mueller: Die sowjetische Besatzung in Österreich 1945-1955 und ihre politische Mission Boehlau Verlag, Wien 2005, Wolfgang Mueller, A. Suppan, N. Naimark, G. Bordjugov (Ed.). Sowjetische Politik in Österreich 1945–1955: Dokumente aus russischen Archiven Tham khảo Liên kết ngoài Trang chủ chính thức của KPÖ Thanh niên Cộng sản Áo KPÖ Graz Chiến dịch cho Ernst-Kirchweger-House (EKH) Đảng Cộng sản Áo trên Bách khoa toàn thư Áo Khởi đầu năm 1918 ở châu Âu Đảng phái chính trị Áo Đảng Cộng sản Áo Thành lập tại Cộng hòa Đức-Áo Đảng chính trị thành lập năm 1918
19851660
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20%C4%91%C3%B4%20th%E1%BB%8B%20bang%20Guerrero
Khu đô thị bang Guerrero
Guerrero là bang nằm ở tây nam México, được chia thành 85 khu đô thị. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở của México năm 2020, Guerrero là bang đông dân thứ 13 với người và diện tích lớn thứ 14 với . Các khu đô thị ở Guerrero nhận vị thế tự trị trong bang theo điều 115 Hiến pháp năm 1917. Theo nhiệm kỳ ba năm, công dân bầu ra một chủ tịch khu đô thị (còn gọi là thị trưởng) () theo hệ thống bỏ phiếu đa số, đồng thời bầu ra hội đồng khu đô thị (ayuntamiento) chịu trách nhiệm cung cấp tất cả dịch vụ công cho cử tri. Hội đồng không cố định số thành viên hay ủy viên (regidores y síndicos). Khu đô thị chịu trách nhiệm về dịch vụ công (như cấp thoát nước), đèn đường, an toàn công cộng và giao thông, bảo trì công viên, hoa viên và nghĩa trang công cộng. Khu cũng có thể hỗ trợ chính quyền bang và liên bang về giáo dục, y tế và cứu hỏa khẩn cấp, bảo vệ môi trường, bảo dưỡng di tích và địa danh lịch sử. Từ năm 1984, chính quyền khu đô thị có quyền thu thuế bất động sản và phí sử dụng, nhưng nguồn thu vẫn chủ yếu đến từ cấp cao hơn rót xuống. Khu đô thị đông dân nhất Guerrero là Acapulco với 779.566 dân, còn ít người nhất là Atlamajalcingo del Monte với 5.811 dân. Về diện tích đất liền, lớn nhất là Coyuca de Catalán và nhỏ nhất là Alpoyeca . Khu đô thị Ghi chú Chú thích Tư liệu Đô thị bang Guerrero
19851662
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng%20C%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n%20%C3%9D
Đảng Cộng sản Ý
Đảng Cộng sản Ý (, PCI) là một đảng chính trị xã hội theo chủ nghĩa cộng sản và dân chủ ở Ý. Đảng được thành lập ở Livorno với tên Đảng Cộng sản Ý (, PCd'I) vào ngày 21 tháng 1 năm 1921, khi tách khỏi Đảng Xã hội Ý (PSI), dưới sự lãnh đạo của Amadeo Bordiga, Antonio Gramsci và Nicola Bombacci. Bị đặt ngoài vòng pháp luật trong chế độ phát xít Ý, đảng tiếp tục hoạt động bí mật và đóng vai trò quan trọng trong phong trào kháng chiến ở Ý. Con đường hòa bình và dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội (hay "Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Ý"), hiện thực hóa công cuộc cộng sản thông qua dân chủ, phản đối sử dụng bạo lực và áp dụng Hiến pháp Ý trong tất cả các bộ phận của nó, một chiến lược được khởi động dưới thời Palmiro Togliatti, trở thành động lực chính trong lịch sử của đảng. Đổi tên vào năm 1943, PCI trở thành đảng phái chính trị lớn thứ hai của Ý sau Thế chiến thứ hai, nhận được sự ủng hộ của khoảng một phần ba số phiếu bầu trong thập niên 1970. Vào thời điểm đó, đây là đảng cộng sản lớn nhất ở phương Tây, có khoảng 2,3 triệu thành viên vào năm 1947, và tỷ lệ cao nhấủng hộ là 34,4% số phiếu bầu (12,6 triệu phiếu bầu) trong cuộc tổng tuyển cử Ý năm 1976. PCI là một phần của Quốc hội lập hiến Ý và chính phủ Ý từ năm 1944 đến năm 1947, khi Hoa Kỳ ra lệnh loại bỏ PCI và PSI khỏi chính phủ. Liên minh PCI–PSI tồn tại cho đến năm 1956; hai đảng tiếp tục nắm quyền ở cấp địa phương và khu vực cho đến những năm 1990. Ngoài giai đoạn 1944–1947 và sự hỗ trợ không thường xuyên cho phe trung tả (những năm 1960–1970) bao gồm cả PSI, PCI luôn nằm ở phe đối lập trong Quốc hội Ý cho đến khi giải thể vào năm 1991. Thành phần PCI bao gồm những người theo chủ nghĩa Marx-Lenin và những người theo chủ nghĩa xét lại Marxist, với một phe dân chủ-xã hội tiêu biểu là Miglioristi. Dưới sự lãnh đạo của Enrico Berlinguer và ảnh hưởng của phe Miglioristi trong những năm 1970 và 1980, Chủ nghĩa Mác-Lênin đã bị loại bỏ khỏi điều lệ đảng. PCI đi theo xu hướng cộng sản Tây Âu tìm kiếm sự độc lập khỏi Liên Xô, và chuyển sang hướng xã hội chủ nghĩa dân chủ. Năm 1991, Đảng bị giải thể và tái lập với tên gọi Đảng Dân chủ Cánh tả (PDS), gia nhập Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa và Đảng Xã hội Châu Âu. Các thành viên cấp tiến hơn chính thức ly khai để thành lập Đảng Tái lập Cộng sản (PRC). Đảng kỳ Chú thích Tham khảo Thư mục Aldo Agosti, "The Comintern and the Italian Communist Party in Light of New Documents," in Tim Rees and Andrew Thorpe (eds.), International Communism and the Communist International, 1919–43. Manchester: Manchester University Press, 1998. Luigi Cortesi, Le origini del PCI. Laterza, 1972. Franco Livorsi, Amadeo Bordiga. Editori Riuniti, 1976. Paolo Spriano, Storia del Partito Comunista Italiano, vol. I Da Bordiga a Gramsci, Einaudi, 1967. La nascita del Partito Comunista d'Italia (Livorno 1921), ed. L'Internazionale, Milano 1981. La liquidazione della sinistra del P.C.d'It. (1925), L'Internazionale, Milano 1991. La lotta del Partito Comunista d'Italia (Strategia e tattica della rivoluzione, 1921–1922), ed. L'Internazionale, Milano 1984. Il partito decapitato (La sostituzione del gruppo dirigente del P.C.d'It., 1923–24), L'Internazionale, Milano 1988. Partito Comunista d'Italia, Secondo Congresso Nazionale – Relazione del CC, Reprint Feltrinelli, 1922. Liên kết ngoài Lưu trữ lịch sử Cánh tả Cộng sản với hàng trăm tài liệu của PCd'I Đảng Cộng sản Ý Lưu trữ tại marxists.org sinistra.net Lưu trữ trực tuyến của cánh tả Cộng sản Arrigo Cervetto, Đấu tranh giai cấp và Đảng Cách mạng, 1964 Tiểu sử của Arrigo Cervetto Con đường đi tới chủ nghĩa xã hội của Ý, cuộc phỏng vấn của Eric Hobsbawm với Giorgio Napolitano; được dịch bởi John Cammett và Victoria DeGrazia Đảng phái chính trị thành lập năm 1921 Chi bộ Quốc tế Cộng sản Khởi đầu năm 1921 ở Ý Chấm dứt năm 1991 ở Ý Cựu đảng cộng sản ở Ý Đảng xã hội dân chủ ở Châu  Quan hệ Ý–Liên Xô Đảng phái chính trị giải thể năm 1991
19851663
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vercetti%20Regular
Vercetti Regular
Vercetti Regular (IPA /vərˈʧɛti ˈrɛɡjʊlər/), còn được biết đến với tên gọi Vercetti, là một phông chữ sans-serif miễn phí. Nó có thể được sử dụng cho các dự án thương mại và cá nhân. Nó đã được phát hành vào năm 2022 dưới giấy phép Licence Amicale, cho phép mọi người chia sẻ các tệp phông chữ với bạn bè và đồng nghiệp. Vercetti Regular được truyền cảm hứng từ các yếu tố thiết kế nhân văn và hình học. Khi tạo ra Vercetti, các nhà thiết kế đã sử dụng các nguyên tắc từ một phông chữ nguồn mở trước đó được gọi là MgOpen Moderna. Phông chữ này có 326 glyphs, bao gồm số, ký hiệu, dấu câu và dấu thanh. Điều này có nghĩa là nó có thể được sử dụng cho tất cả các ngôn ngữ ở châu Âu sử dụng bảng chữ cái Latin. Tải về có sẵn trong các định dạng tệp sau: OTF, TTF, WOFF, WOFF2. Xem thêm Arial Unicode OpenType Typography Phông chữ máy tính Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Licence Amicale Minh hoạ loại chữ Fonts In Use (Vercetti) Phông chữ kiểu sans-serif Phông chữ Giới thiệu năm 2022 __CHỈ_MỤC__ __KHÔNG_LIÊN_KẾT_MỤC_MỚI__
19851676
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kim%20Min-gi
Kim Min-gi
Kim Min-gi ( ; sinh ngày 22 tháng 11 năm 2002), là một diễn viên Hàn Quốc. Anh được biết đến nhiều nhất qua các vai diễn trong True Beauty (2020), Racket Boys (2021) và Under the Queen's Umbrella (2022). Đóng phim Phim truyền hình Chuỗi web Chương trình truyền hình Giải thưởng Ghi chú Liên kết ngoài Kim Min-gi at HM Entertainment Tham khảo sinh năm 2002 Nhân vật còn sống Nam diễn viên Hàn Quốc thế kỷ 21 Nam diễn viên truyền hình Hàn Quốc Nam diễn viên web series Hàn Quốc Người Chuncheon Diễn viên đến từ tỉnh Gangwon, Hàn Quốc
19851682
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B2a%20%C3%A1n%20qu%E1%BA%ADn%20Hoa%20K%E1%BB%B3
Tòa án quận Hoa Kỳ
Tòa án quận Hoa Kỳ (tiếng Anh: United States district court), hay còn gọi là Tòa án sơ thẩm Hoa Kỳ, là các tòa án sơ thẩm trong hệ thống tư pháp liên bang Hoa Kỳ. Ở mỗi quận tư pháp thì có một tòa án quận. Mỗi quận gồm một tiểu bang hoặc một phần của tiểu bang. Có ít nhất một trụ sở tòa án liên bang ở mỗi quận, và nhiều quận có nhiều trụ sở. Quyết định của tòa án quận có thể được kháng án lên tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ tại khu vực nơi tòa án tọa lạc, ngoại trừ một số vụ án đặc biệt được kháng án lên Tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ Khu vực Liên Bang hoặc thẳng lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Tòa án quận là tòa án luật pháp, luật công lý, và luật biển, có thể xét xử các vụ án cả dân sự lẫn hình sự. Nhưng khác với các tòa án tiểu bang, tòa án quận bị giới hạn về thẩm quyền, và chỉ có thể xét xự các vụ án với các bên là người sinh sống ở các tiểu bang khác nhau, vấn đề về luật pháp liên hang, hoặc tội phạm liên bang. Căn cứ pháp lý Khác với Tòa án Tối cao được quy định trực tiếp trong Điều III của Hiến pháp, tòa án quận được thành lập bởi Quốc hội, căn cứ vào quyền lực được trao bởi Điều III, qua việc ban hành các luật liên bang, Đạo luật Tư pháp năm 1789. Hiến pháp không có quy định bắt buộc thành lập tòa án quận. Trong khi soạn thảo và phê chuẩn Hiến pháp, một số người phản đối việc hệ thống tư pháp liên bang có quyền lực lớn cho rằng chỉ nên có một tòa án liên bang duy nhất là Tòa án Tối cao và tòa án này chỉ nên được xét xử phúc thẩm bản án từ các tòa án tiểu bang. Điều này có nghĩa là, các tòa án tiểu bang sẽ được xem như là tòa án liên bang dưới Điều I của Hiến pháp để xét xử các tranh chấp theo luật liên bang, những thẩm phán của các tòa này sẽ không được xem là công chức của chính quyền liên bang. Edward Carrington ủng hộ quan điểm này trong một bức thư gửi James Madison, và nó cũng được thảo luận bởi Alexander Hamilton trong cuốn Federalist số 81. Tuy nhiên, quan điểm này không được chấp nhận, và Quốc hội khóa thứ nhất đã thiết lập hệ thống tòa án quận mà vẫn còn hoạt động tới nay. Dù vậy, theo Hiến pháp, các tòa án tiểu bang vẫn có thẩm quyền song song với tòa quận trong đa số các vấn đề liên bang. Khi Đạo luật Tư pháp được ban hành, 13 quận tư pháp được thành lập cho 11 tiểu bang đã phê chuẩn Hiến pháp tính tới thời điểm đó. Sau này khi Bắc Carolina và Rhode Island biểu quyết phê chuẩn Hiến pháp, mỗi bang được một quận tư pháp mới, tổng cộng là có 15 quận tư pháp. Các vùng lãnh thổ (Vùng quốc hải) Guam, Quần đảo Bắc Mariana và Quần đảo Virgin thuộc Mỹ có một tòa án vùng lãnh thổ cho mỗi vùng; những tòa án này được gọi là "tòa án quận" và cũng có thẩm quyền như tòa án quận, nhưng khác ở chỗ đây là những tòa án được thành lập theo Điều IV Hiến pháp với thẩm phán giữ chức theo nhiệm kỳ 10 năm ,thay vì suốt đời như thẩm phán của tòa án quận được thành lập theo Điều III Hiến pháp. Samoa thuộc Mỹ không có tòa án quận hay tòa án vùng lãnh thổ liên bang, vì vậy mà mọi vấn đề pháp lý liên bang được xét xử tại Đặc khu Columbia hoặc Hawaii. Trước đây Philippines là một phần của Hoa Kỳ nhưng không có trong hệ thống tư pháp liên bang. Địa lý Hiện có 89 quận tư pháp ở 50 tiểu bang, tổng cộng có 94 quận nếu tính thêm các vùng lãnh thổ. Mỗi bang, Đặc khu Columbia và Puerto Rico có ít nhất một quận tư pháp. Mỗi bang có từ một đến bốn quận. Ở những bang có nhiều quận, các quận được đặt tên theo địa lý. Các bang có hai quận đặt tên quận là Bắc-Nam (Northern-Southern) hoặc Tây-Đông (Western-Eastern). Những bang có ba quận đặt thêm quận Trung (Middle), trừ bang Illinois có Quận Central thay vì Middle, và bang Oklahoma có các Quận Bắc, Tây và Đông. Trong số ba bang có bốn quận, New York và Texas đặt tên theo bốn hướng địa lý, trong khi California có Quận Trung và không có Quận Tây. Các tòa án sơ thẩm liên bang khác Có các tòa án sơ thẩm liên bang khác có thẩm quyền trên cả nước đối với một số loại vụ án, nhưng tòa án quận cũng có thẩm quyền song song trong nhiều vụ án này, và chỉ có tòa án quận mới có quyền xét xử các vụ án hình sự đối với dân thường. Tòa án Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ xử lý các vụ án liên quan đến thương mại quốc tế và các vấn đề về hải quan. Tòa án Tranh chấp Liên bang Hoa Kỳ có đặc quyền xét xử mọi tranh chấp yêu cầu bồi thường tiền bạc từ chính quyền liên bang Hoa Kỳ, bao gồm tranh chấp hợp đồng, trưng dụng tài sản tư nhân trái phép bởi chính quyền liên bang, và các vụ kiện vì thương tật trên đất liên bang hoặc thương tật gây ra đối với các nhân viên liên bang. Tòa án Thuế Hoa Kỳ có thẩm quyền đối với các tranh chấp về thuế. Thẩm phán Chức danh chính thức của thẩm phán tòa án quận là "Thẩm phán Quận Hoa Kỳ" ("United States District Judge"). Các thẩm phán liên bang khác, bao gồm thẩm phán tòa án phúc thẩm khu vực và thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cũng có quyền xét xử tại các tòa án quận sau khi được phân công bởi chánh án khu vực hoặc Chánh án Hoa Kỳ. Số thẩm phán ở mỗi tòa án quận (và cơ cấu của cả hệ thống tư pháp) được quy định bới Quốc hội trong Bộ luật Hoa Kỳ. Tổng thống bổ nhiệm (và Thượng viện phê chuẩn) các thẩm phán liên bang, vì vậy mà người được bổ nhiệm thường có một số quan điểm chung với tổng thống. Ở các bang có thượng nghị sĩ thuộc chung đảng phái với tổng thống, thượng nghị sĩ có sức chi phối lớn trong quá trình bổ nhiệm, và theo thông lệ thì thượng nghị sĩ đó có quyền phủ quyết không chính thức đối với người do tổng thống đề cử. Các phó thẩm phán (magistrate judge) liên bang được bổ nhiệm bởi mỗi tòa án quận theo luật quy định. Họ được bổ nhiệm với nhiệm kỳ 8 năm và có thể được tái bộ nhiệm. Phó thẩm phán có thể bị bãi nhiệm vì "thiếu khả năng, các vi phạm, sao lãng nhiệm vụ, hoặc tật nguyền về thể chất hay tâm thần". Chức phó thẩm phán là bước tiến tới chức thẩm phán quận. Thẩm phán quận thường tập trung vào việc quản lý các vụ án, làm chủ tọa các phiên tòa, và viết các ý kiến trả lời đề nghị quan trọng của các bên trong vụ án, như đơn đề nghị phán quyết không qua xét xử (summary judgment). Kể từ thập kỷ 1960, các công việc thường ngày như giải quyết tranh chấp về bằng chứng thường được thẩm phán quận giao cho phó thẩm phán. Phó thẩm phán cũng được giao việc viết báo cáo và kiến nghị về những tranh chấp cho thẩm phán quận giải quyết, hoặc, nếu được các bên đồng thuận, phó thẩm phán được đảm nhiệm toàn bộ quyền hành xét xử vụ án. Ngoại trừ các tòa án vùng lãnh thổ (Guam, Quần đảo Bắc Mariana và Quần đảo Virgin thuộc Mỹ), thẩm phán quận liên bang là thẩm phán theo Điều III Hiến pháp được bổ nhiệm suốt đời, và chỉ có thể bị bãi nhiệm khi vi phạm tiêu chuẩn "tư cách tốt". Cách thức duy nhất để bãi nhiệm thẩm phán là qua việc luận tội tại Hạ viện Hoa Kỳ và sau đó bị xét xử và kết tội bởi ⅔ số phiếu trong Thượng viện Hoa Kỳ. Mặt khác thì cho dù có bị bồi thẩm đoàn kết tội một tội danh hình sự nghiêm trọng, thẩm phán vẫn được quyền giữ chức cho tới khi về hưu hoặc qua đời. Trong lịch sử Hoa Kỳ, chỉ có 12 thẩm phán từng bị luận tội bởi Hạ viện, và chỉ có 7 thẩm phán bị Thượng viện kết tội sau đó. (Xem Luận tội tại Hoa Kỳ.) Một thẩm phán đủ 65 tuổi trở lên (hoặc bị tàn tật) có thể về hưu hoặc bán về hưu (senior status) và tiếp tục làm việc. Thẩm phán bán về hưu không được tính vào số thẩm phán đương nhiệm trong quận và chỉ làm những công việc được chánh án quận giao, nhưng họ vẫn được giữ văn phòng (chambers) và nhân viên của mình. Nhiều thẩm phán bán về hưu vẫn làm việc toàn thời gian. Tính tới năm 2010, có 678 thẩm phán quận. Trong văn bản, thẩm phán liên bang được gọi là "The Honorable John/Jane Doe" ("Quý ngài/bà John/Jane Doe") hoặc "Hon. John/Jane Doe", và khi nói chuyện là "Judge" hoặc "Judge Doe" ("Thẩm phán Doe"), hoặc khi làm chủ tọa là "Your Honor" ("Thưa ngài"). Thư ký Mỗi tòa án quận bổ nhiệm một thư ký (clerk), chịu trách nhiệm việc quản lý hồ sơ, bản ghi của tòa, thu lệ phí, tiền phạt và tiền bồi thường, và quản lý các công việc không mang tính tư pháp của tòa, bao gồm công nghệ thông tin, ngân sách, tài sản, nhân sự và tài chính. Thư ký có quyền bổ nhiệm phó thư ký, trợ lý và nhân viên để làm việc cho tòa án. Thư ký của tòa án quận phải sinh sống trong quận, trừ thư ký của tòa án Đặc khu Columbia và Quận Nam New York có thể sống trong khoảng 20 dặm xung quanh quận. Bộ luật Tư pháp (28 U.S.C. § 751) quy định rằng thư ký được bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm bởi tòa án. Nghĩa vụ của thư ký được quy định bởi luật pháp, thông lệ của tòa và chính sách do Hội nghị Tư pháp Hoa Kỳ ban hành. Thư ký được bổ nhiệm qua lệnh của cả tòa án để phục vụ toàn bộ tòa án. Đừng nên nhầm lẫn vai trò của thư ký, phó thư ký và trợ lý thư ký với trợ lý thẩm phán, là người hỗ trợ thẩm phán nghiên cứu và soạn thảo phán quyết. Để đủ điều kiện làm thư ký tòa án, thư ký phải có ít nhất 10 năm kinh nghiệm hành chính ở các cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp, với sự hiểu biết sâu rộng về tổ chức, thủ tục và nhân sự trong việc quản lý một tổ chức, và phải giữ chức quản lý cấp cao ít nhất 3 năm trong số 10 năm đó. Luật sư có thể thỏa mãn điều kiện 10 năm kinh nghiệm hành chính bằng 10 năm hành nghề luật sư. Thư ký không nhất thiết phải là luật sư được cấp phép hành nghề, nhưng một số tòa án ưu tiên người có bằng luật. Thẩm quyền Khác với một số tòa án tiểu bang, quyền xét xử của tòa án liên bang bị giới hạn nghiêm ngặt. Tòa án liên bang không nhất thiết có quyền để xét xử mọi vụ án được trình lên. Để được phép xét xử một vụ, Quốc hội phải cho phép tòa án xét xử loại vụ án đó. Tòa án quận được phép mở phiên tòa xét xử sơ thẩm trong các loại vụ án sau: Tranh chấp dân sự phát sinh dưới Hiến pháp, luật pháp liên bang, và các hiệp ước Hoa Kỳ; Một số tranh chấp dân sự giữa công dân của các tiểu bang khác nhau hoặc giữa công dân của một tiểu bang với công dân nước ngoài; Tranh chấp dân sự phát sinh dưới luật biển Hoa Kỳ; Tố tụng hình sự do chính quyền liên bang Hoa Kỳ khởi tố; Tranh chấp dân sự có một bên là chính quyền liên bang Hoa Kỳ; và Nhiều loại vụ án và tranh chấp khác Trong đa số các vụ án này, thẩm quyền của tòa án quận liên bang trùng với thẩm quyền của tòa án tiểu bang. Điều này có nghĩa là một nguyên đơn có quyền chọn khởi kiện ở tòa án liên bang hoặc tòa án tiểu bang. Quốc hội có quy định một thủ tục cho phép một bên của vụ án, thường là bị đơn, chuyển (remove) một vụ án từ tòa án tiểu bang sang tòa án liên bang, với điều kiện tòa án liên bang đó phải có quyền sơ thẩm vụ án. Nếu nguyên đơn cho rằng việc chuyển vụ án là không hợp lý, nguyên đơn có quyền đề nghị tòa án quận trả (remand) vụ án về tòa án tiểu bang. Đối với một số vụ án, như tranh chấp bằng sáng chế và bản quyền và truy tố hình sự liên bang, tòa án quận có đặc quyền xét xử, nghĩa là chỉ có tòa án liên bang mới có quyền xét xử các vụ án này. Bên cạnh quyền xét xử sơ thẩm, tòa án quận cũng có quyền xét xử phúc thẩm một số lượng rất nhỏ các phán quyết, lệnh và sắc lệnh. Luật sư Để đại diện một bên ở tòa án quận, người đại diện phải là một luật sư được cấp phép và thường phải được kết nạp vào luật sư đoàn (admission to the bar) của tòa án đó. Ở Hoa Kỳ, không có một bài thi sát hạch riêng để luật sư hành nghề liên bang (ngoại trừ việc hành nghề ở Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ). Luật sư được cấp phép hành nghề ở tiểu bang nào thì thường được gia nhập luật sư đoàn của tòa án quận ở tiểu bang đó. 56 quận tư pháp (khoảng 60% tòa án quận) yêu cầu luật sư phải được cấp phép hành nghề ở bang mà tòa án tọa lạc. 39 quận còn lại (khoảng 40% tòa án quận) cho phép một số luật sư được cấp phép ở các bang khác, quy định điều kiện khác nhau giữa các tòa án. Ví dụ, các tòa án quận ở Thành phố New York (Quận Nam New York và Quận Đông New York) cho phép luật sư được cấp phép ở bang Connecticut hoặc Vermont hành nghề ở tòa, nhưng ngoài ra thì yêu cầu luật sư phải gia nhập luật sư đoàn bang New York. Chỉ có 13 quận chấp nhận luật sư được cấp phép ở bất kỳ tiểu bang nào. Thường thì luật sư nộp đơn, nộp lệ phí và tuyên thệ kết nạp vào luật sư đoàn. Mỗi địa phương quy định khác nhau về hình thức tuyên lệ, bằng văn bản hay trực tiếp trước thẩm phán quận. Thường thì cần phải có một "người bảo lãnh" đã được kết nạp luật sư đoàn. Một số tòa án quận yêu cầu luật sư muốn gia nhập luật sư đoàn phải thi sát hạch luật liên bang, bao gồm các tòa án: Quận Nam Ohio, Quận Bắc Florida và Quận Puerto Rico. Theo từng trường hợp một mà đa số tòa án liên bang cũng cho phép luật sư chưa được cấp phép ở quận tham gia vào vụ án (pro hac vice). Đa số tòa án quy định các luật sư pro hac vice phải có một luật sư đã gia nhập luật sư đoàn hỗ trợ. Kháng án Thường thì phán quyết của tòa án quận trong cả vụ ản dân sự và hình sự đều có thể được kháng án lên tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ tại khu vực tư pháp nơi tòa án quận tọa lạc, trừ một số phán quyết liên quan đến bằng sáng chế và một số vấn đề đặc biệt khác được kháng án lên Tòa án Phúc thẩm Hoa Kỳ Khu vực Liên bang, và trong một số trường hợp rất hiếm có thể kháng án trực tiếp lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Tòa án quận lớn nhất và xét xử nhiều vụ án nhất Quận Trung California là quận tư pháp đông dân nhất; nó bao gồm 5 hạt của vùng Đại Los Angeles. Thay vào đó, Thành phố New York và vùng đô thị xung quanh được chia thnhf Quận Nam New York (gồm Manhattan, The Bronx và Hạt Westchester) và Quận Đông New York (gồm Brooklyn, Queens, Đảo Staten, Hạt Nassau và Hạt Suffolk). Vùng ngoại ô Thành phố New York ở Connecticut và New Jersey thuộc thẩm quyền Quận Connecticut và Quận New Jersey. Quận Nam New York và Quận Trung New York là hai quận có nhiều thẩm phán nhất, mỗi quận có 28 thẩm phán. Vào năm 2017, tòa án xử lý nhiều hồ sơ hình sự nghiêm trọng nhất là Quận New Mexico, Quận Tây Texas, Quận Nam Texas, và Quận Arizona. Bốn quận này đều giáp biên giới với Mexico. Việc tăng cường biện pháp đối phó với nạn nhập cư trái phép dẫn đến việc 75% các hồ sơ vụ án hình sự trong 94 tòa án quận được nộp về bốn quận này cùng với Quận Nam California cũng giáp Mexico. Tòa án xử lý nhiều vụ tranh chấp bằng sáng chế hằng năm nhất là Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Đông Texas. Tòa án quận cũ Tòa án quận bị tách Nhiều tòa án quận cũ bị bãi bỏ vì bị tách thành nhiều quận nhỏ hơn, gồm các Quận: Alabama, Arkansas, California, Florida, Georgia, Illinois, Indiana, Iowa, Kentucky, Louisiana, Michigan, Mississippi, Missouri, New York, Bắc Carolina, Ohio, Pennsylvania, Tennessee, Texas, Virginia, Washington, Tây Virginia, Wisconsin. Những tòa án quận bị bãi bỏ khác Trong số ít trường hợp, tòa án bị bãi bỏ vì được sáp nhập vào một tòa án quận khác. Trừ một trường hợp đặc biệt, điều này đã tái thiết lập một tòa án quận bị tách trước đó: Giữa năm 1794 và 1797, Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Bắc Carolina được tách thành các Quận Edenton, New Bern và Wilmington. Giữa năm 1801 và 1802, Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận New Jersey được tách thành Quận Đông New Jersey và Tây New Jersey. Khi bang California gia nhập Hợp chúng quốc vào năm 1850, ban đầu tiểu bang được chia làm hai quận, Bắc và Nam. Quận Nam California bị bãi bỏ ngày 27 tháng 7 năm 1866 và cả bang được hợp thành một quận tư pháp với Quận Bắc California trở thành Quận California. 20 năm sau, vào ngày 5 tháng 8 năm 1886, Quốc hội tái thiết lập Quận Nam California. Giữa năm 1911 và 1961, Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Nam Carolina được tách thành Quận Đông và Quận Tây bang Nam Carolina. Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Đông Illinois bị bãi bỏ và thay thế bởi Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Trung Illinois vào ngày 2 tháng 10 năm 1978. Có một số tòa án quận cũ khác không thuộc các trường hợp trên. Giữa năm 1801 và 1802, Đặc khu Columbia và một phần lãnh thổ Maryland và Virgina được hợp thành Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Potomac, là tòa án quận Hoa Kỳ đầu tiên có thẩm quyền xuyên biên giới bang. Trong cùng khoảng thời gian này, Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Norfolk được thành lập trên một phần lãnh thổ khác của Virgina. Quận Maryland và Quận Virginia vẫn tồn tại trong khoảng thời gian này. Từ năm 1801 đến 1802, và một lần nữa từ năm 1802 đến 1872, tiểu bang Bắc Carolina được chia thành Quận Albemarle, Cape Fear và Pamptico. Những tòa án này bị bãi bỏ khi tiểu bang được phân lại thành tòa án quận Hoa Kỳ tại Quận Đông và Tây của Bắc Carolina. Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Orleans. Tòa án này được đổi tên thành Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Louisiana khi Lãnh thổ Louisiana trở thành Tiểu bang Louisiana. Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Vùng Kênh đào. Tòa án này bị bãi bỏ vào ngày 31 tháng 3 năm 1982 trong quá trình bàn giao lại Vùng Kênh đào cho Panama. Những vụ án chờ xét xử lúc đó được bàn giao cho Tòa án Quận Hoa Kỳ tại Quận Đông Louisiana ở New Orleans. Tòa án Hoa Kỳ tại Trung Quốc. Tòa án này hoạt động như một tòa án quận từ năm 1906 đến năm 1943. Tòa án này có thẩm quyền xét xử công dân Mỹ ở Trung Quốc. Xem thêm Tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ Bộ Tư pháp Hoa Kỳ Ghi chú Tham khảo Tư pháp Hoa Kỳ Chính phủ Hoa Kỳ
19851687
https://vi.wikipedia.org/wiki/The%20Tortured%20Poets%20Department
The Tortured Poets Department
The Tortured Poets Department là album phòng thu thứ mười một sắp được ra mắt của nữ ca sĩ kiêm sáng tác âm nhạc Taylor Swift, lên kế hoạch phát hành vào ngày 19 tháng 4, 2024 bởi Republic Records. Swift đã thông báo về album này tại Giải Grammy lần thứ 66 sau chiến thắng giải thưởng ở hạng mục Album giọng pop xuất sắc nhất cho album phòng thu thứ mười, Midnights (2022). Album sẽ bao gồm mười sáu bài hát, và bao gồm thêm một bài hát bổ sung mang tên "The Manuscript". Bối cảnh và phát hành Taylor Swift đã phát hành album phòng thu thứ mười của cô, Midnights, vào ngày 21 tháng 10, 2022, và đã đạt được thành công rộng rãi về mặt thương mại cũng như phê bình. Bên cạnh đó, cô cũng đã phát hành lại các album tái thu âm như Speak Now (Taylor's Version) và 1989 (Taylor's Version), vào năm 2023, như là một phần trong dự án tái thu âm của cô. Midnights cũng đã có được sáu đề cử Giải Grammy tại Giải Grammy lần thứ 66 vào ngày 4 tháng 2, 2024. Swift đã nhá hàng việc phát hành album mới của cô bằng việc thay đổi tất cả những ảnh đại diện trên các nền tảng xã hội thành phiên bản trắng đen của ảnh bìa trước đó và bảo gồm cả ảnh bìa album của Midnights; những người hâm mộ của cô, những Swifties, cùng suy đoán trên cộng đồng mạng rằng Swift đang chuẩn bị phát hành Reputation (Taylor's Version), bản tái thu âm sắp tới của album thứ sáu của cô, Reputation (2017). Trang web của Swift dường như đã bị đánh sập và được thay thế bằng mã trạng thái HTTP 321 không tổn tại, cũng như là mã lỗi "hneriergrd", mà người hâm mộ của cô đã giải mã rằng đó là việc đảo chữ của từ ''red herring (cá trích đỏ)". Cô đã tham dự Lễ trao giải Grammy và thành công chiến thắng ở hai hạng mục Album giọng pop xuất sắc nhất và Album của năm cho album Midnights. Và trong phần phát biểu khi nhận giải thưởng của mình, cô đã tiết lộ về album phòng thu mới của mình, với tự đề là The Tortured Poets Department, và thông báo rằng ngày phát hành của album sẽ là 19 tháng 4, 2024. Cô cũng cho biết rằng mình đã giữ bí mật trong hai năm về album này. Ảnh bìa của album cũng đã được đăng tải trên các tài khoản mạng xã hội của cô, cùng với một bức ảnh chụp một tấm ghi chú viết tay có nội dung: Album đã có sẵn để đặt hàng trước ngay sau bài đăng, cùng với một phiên bản bao gồm một bài hát bổ sung mang tên 'The Manuscript.' Ảnh bìa album Ảnh bìa của The Tortured Poets Department là bộ bức ảnh trắng-đen được chụp bởi Beth Garrabrant với hình ảnh Swift nằm trên giường trong một tư thế quyến rũ. Tạp chí People đã mô tả nó là một "chiếc bìa gợi cảm". Danh sách bài hát Ghi chú "Loml" được viết cách điệu bằng chữ in thường Lịch sử phát hành Tham khảo Album năm 2024 Album của Taylor Swift Album của Republic Records Album sắp phát hành
19851690
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wat%20Arun%20%28ph%C3%B3%20qu%E1%BA%ADn%29
Wat Arun (phó quận)
Wat Arun (, ) là một trong hai khwaeng (phó quận) của Bangkok Yai, Băng Cốc, ngoại trừ Wat Tha Phra. Có thể xem đây là một khu vực quan trọng về mặt lịch sử và du lịch. Lịch sử Khu vực được đặt tên theo Wat Arun, một ngôi đền cổ nổi tiếng trên thế giới nằm bên bờ sông Chao Phraya. Nó nổi bật với kiến trúc prang (tháp chùa phong cách Khmer) trở thành một trong những biểu tương, địa danh quan trọng của Băng Cốc và phía Thonburi, đồng thời cũng là con dấu của Tổng cục Du lịch Thái Lan (TAT). Người ta nói rằng khi Vua Taksin trở về từ Chanthaburi đi đến Ayutthaya với đội binh của mình. Ông đi dọc theo dòng sông Chao Phraya và đến ngôi chùa này vào lúc mặt trời mọc, do đó đặt tên là "Wat Chaeng" hoặc tên chính thức là "Wat Arun", có nghĩa là "Chùa Bình Minh". Khi Vua King Taksin thành lập thủ đô mới của Xiêm (hiện nay là Thái Lan), Thonburi, nằm bên trái bờ sông Chao Phraya, nơi hợp lưu của Khlong Bangkok Yai và sông Chao Phraya, đó là vị trí hiện tại ở đây (bao gồm mở rộng đến khu vực Bangkok Noi và quận Thon Buri ngày nay). Hoàng cung của ông được đặt cạnh Wat Arun bên bờ sông Chao Phraya, nơi mà ngày nay đã trở thành Trụ sở Hải quân Hoàng gia Thái Lan dưới tên gọi Hoàng cung Thonburi. Văn phòng quận Bangkok Yai từng được đặt trong khu vực Wat Hong Rattanaram, một ngôi chùa nổi bật khác trong phó khu này vào năm 1915. Cho đến năm 1988, nó được di dời đến vị trí hiện tại trên Đường Ratchadaphisek gần Nút giao Tha Phra trong khu vực phó quận Wat Tha Phra. Địa lý Wat Arun nằm ở phía Đông của quận xung quanh bao bọc bởi nước ngoại trừ phía Tây, Đường Itsaraphap phân chia ranh giới giữa khu vực và Wat Tha Phra. Các phó quận xung quanh bao gồm (theo chiều kim đồng hồ từ hướng Bắc): Siriraj và Ban Chang Lo của quận Bangkok Noi (đi qua Khlong Mon), Phra Borom Maha Ratchawang của quận Phra Nakhon (bắc qua sông Chao Phraya), Wat Kanlaya của quận Thon Buri (đi qua Khlong Bangkok Yai), và Wat Tha Phra thuộc quận đó. Tham khảo Phó quận của Băng Cốc Quận Bangkok Yai Khu dân cư trên sông Chao Phraya
19851691
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%82m%20rung%20l%E1%BB%A3i%20h%E1%BB%AFu%20thanh
Âm rung lợi hữu thanh
Âm rung lợi hữu thanh là một loại phụ âm. Phụ âm này được tượng trưng bằng chữ ‹r› trong Bảng mẫu tự ngữ âm quốc tế. Những người với bệnh cứng lưỡi sẽ cảm thấy khó khăn khi phát âm tiếng này. Đặc trưng Vị trí cấu âm của nó có thể là: Răng, lợi hoặc sau lợi. Tham khảo Âm rung Âm lợi
19851696
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20mu%E1%BB%91i
Cầu muối
Trong điện hóa học, cầu muối hay cầu ion là một thiết bị trong phòng thí nghiệm dùng để kết nối các nửa tế bào oxi hóa và khử của tế bào điện (tế bào volta), một loại tế bào điện hóa. Nó duy trì tính trung hòa điện trong mạch bên trong. Nếu không có cầu muối, dung dịch trong một nửa tế bào sẽ tích lũy điện tích âm và dung dịch trong nửa tế bào còn lại sẽ tích lũy điện tích dương khi phản ứng diễn ra, nhanh chóng ngăn chặn phản ứng tiếp theo và do đó ngăn chặn việc sản xuất điện. Cầu muối thường có hai loại: ống thủy tinh và giấy lọc. Cầu ống thủy tinh Một loại cầu muối bao gồm một ống thủy tinh hình chữ U chứa đầy chất điện phân tương đối trơ. Nó thường là sự kết hợp của các cation kali hoặc amoni và các anion chloride hoặc nitrat, có tính linh động tương tự trong dung dịch. Sự kết hợp này sẽ không phản ứng với bất kỳ hóa chất nào được sử dụng trong tế bào. Chất điện phân thường được gel hóa bằng agar-agar để giúp ngăn ngừa sự trộn lẫn các chất lỏng có thể xảy ra. Độ dẫn điện của cầu ống thủy tinh phụ thuộc chủ yếu vào nồng độ của dung dịch điện phân. Ở nồng độ dưới mức bão hòa, việc tăng nồng độ sẽ làm tăng độ dẫn điện. Hàm lượng chất điện phân vượt quá mức bão hòa và đường kính ống hẹp có thể làm giảm độ dẫn điện. Cầu lọc giấy Giấy xốp như giấy lọc có thể được sử dụng làm cầu muối nếu được ngâm trong chất điện phân thích hợp như chất điện phân dùng trong cầu ống thủy tinh. Không cần chất keo hóa vì giấy lọc cung cấp môi trường rắn để dẫn điện. Độ dẫn điện của loại cầu muối này phụ thuộc vào một số yếu tố: nồng độ dung dịch điện phân, kết cấu của giấy và khả năng hấp thụ của giấy. Nói chung, kết cấu mịn hơn và độ thấm hút cao hơn tương đương với độ dẫn điện cao hơn. Có thể sử dụng đĩa xốp hoặc các tấm chắn xốp khác giữa hai nửa tế bào thay cho cầu muối; những điều này cho phép các ion đi qua giữa hai dung dịch đồng thời ngăn chặn sự trộn lẫn lớn của các dung dịch. Tham khảo Dụng cụ thí nghiệm
19851701
https://vi.wikipedia.org/wiki/Half-cell
Half-cell
Trong điện hóa học, half-cell là cấu trúc chứa điện cực dẫn điện và chất điện phân dẫn điện xung quanh được ngăn cách bởi lớp kép Helmholtz xuất hiện tự nhiên. Các phản ứng hóa học trong lớp này sẽ nhanh chóng bơm điện tích giữa điện cực và chất điện phân, dẫn đến sự chênh lệch điện thế giữa điện cực và chất điện phân. Phản ứng ở cực dương điển hình liên quan đến việc một nguyên tử kim loại trong điện cực bị hòa tan và vận chuyển dưới dạng ion dương qua lớp kép, làm cho chất điện phân thu được điện tích dương trong khi điện cực thu được điện tích âm. Sự chênh lệch điện thế ngày càng tăng tạo ra một điện trường cực mạnh bên trong lớp kép và điện thế tăng giá trị cho đến khi trường dừng các phản ứng bơm điện tích toàn phần. Hành động tự giới hạn này xảy ra gần như ngay lập tức trong một nửa ô bị cô lập; trong các ứng dụng, hai nửa ô khác nhau được kết nối một cách thích hợp để tạo thành một ô Galvanic. Một half-cell tiêu chuẩn bao gồm một điện cực kim loại trong dung dịch nước 1 mol (1 mol/L) muối của kim loại, ở nhiệt độ 298 kelvin (25 °C).Chuỗi điện hóa, bao gồm các thế điện cực tiêu chuẩn và có liên quan chặt chẽ với chuỗi phản ứng, được tạo ra bằng cách đo sự chênh lệch điện thế giữa nửa tế bào kim loại trong mạch với half-cell hydro tiêu chuẩn, được nối với nhau bằng cầu muối. Nửa tế bào hydro tiêu chuẩn: 2H+(aq) + 2e− → H2(g) Các nửa ô của ô Daniell: Phương trình gốc Zn + Cu2+ → Zn2+ + Cu Nửa cell (cực dương) của Zn: Zn → Zn2+ + 2e− Nửa tế bào (cực âm) của Cu: Cu2 + 2e− → Cu