instruction
stringclasses 1
value | input
stringlengths 1.12k
1.5k
| output
stringlengths 181
1.5k
|
---|---|---|
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bạn phải nhìn thấy bạn trong những thân khác với thân bạn, gọi là ngoại thân.
Bạn không cần phải đợi tới khi lửa tắt mới tái sinh.
Tôi được tái sinh nhiều lần trong ngày.
Mỗi giây phút đều tái sinh.
Sự tu tập của tôi là làm sao được tái sinh trong các biểu hiện mới, có thể mang tới ánh sáng, tự do và hạnh phúc cho thế giới.
Trong phép tu tập, tôi không cho phép các hành động sai lầm được tái sinh.
Nếu tôi có những ý nghĩ xấu hay nếu ngôn từ của tôi có sân hận trong đó, thì chúng sẽ tái sinh.
Rất khó mà đuổi bắt chúng và cất chúng đi được.
Chúng ta cần ngăn chặn không để cho thân, khẩu và ý đưa ta tới những hướng hành động, nói năng, và suy nghĩ bất thiện.
Vượt qua sinh tử
Nếu không có sinh diệt trong từng giây phút thì chúng ta không thể tiếp tục sống.
Trong mọi lúc, nhiều tế bào trong cơ thể bạn phải chết đi để bạn tiếp tục sống.
Không chỉ các tế bào mà tất cả các xúc cảm, tri giác, tâm hành trong dòng sông tâm thức đều sống chết mỗi phút giây.
Tôi nhớ có ngày một thân hữu đã mang tro của cha anh tới xóm thượng Làng mai.
Anh xin được trải tro trên đường thiền hành và tôi đồng ý.
Anh ta có thể nghĩ rằng cha anh chỉ để lại tro trên con đường đó.
Nhưng thực ra, khi còn sống, ông đã đi thiền hành trên con đường này.
Chúng tôi làm lễ trải tro.
Sau đó tôi nói với cả nhóm: “Mỗi chúng ta đều đã để lại thân thể của mình trên đường thiền hành này, không chỉ có người mới chết đây mới để lại tro.
Mỗi khi thực tập thiền hành trên con đường này, chúng ta đều để lại nhiều tế bào.” | Mỗi khi thực tập thiền hành trên con đường này, chúng ta đều để lại nhiều tế bào.”
Khi nào bạn bị xước da cũng đều có hàng ngàn tế bào da đã chết rơi xuống đất.
Khi bạn đi thiền hành, không những bạn để lại các tế bào da mà còn để lại trên đường cả những cảm thọ, nhận thức, và các tâm hành nữa.
Dù cho bạn tới Làng Mai một giờ hay một tuần, sau khi bạn rời làng, bạn cũng đã để lại nhiều dấu vết.
Những tế bào của bạn trên đường thiền hành trở thành cỏ và hoa dại.
Các tiếp nối của thân bạn vẫn có mặt tại Làng Mai.
Nó cũng có trong con cháu bạn, trong mỗi phần của trái đất.
Khi ngọn lửa của cây nến đi tới phần chót của tim nến và tắt đi, nó vẫn có đó.
Bạn không thể tìm được nó nếu chỉ nhìn theo bề dọc.
Bạn phải tìm nó theo bề rộng nữa.
Trong truyền thống Tây Tạng, khi một vị đại sư chết, các tăng sĩ đợi khoảng hai năm rồi đi tìm biểu hiện thân mới của vị Thầy mình.
Hóa thân được gọi là Tulku, theo tiếng Tây Tạng.
Vị đại sư có thể để lại một bài thơ lúc sắp mất, trong đó người ta cho rằng có những ẩn dụ để họ tìm được hóa thân của Ngài.
Dùng bài thơ đó các môn sinh của ông đi tìm một em bé có thể là đời sau của Thầy.
Họ đi tới căn nhà đứa bé đang sống, mang theo nhiều vật dụng của Thầy họ vẫn dùng như chuông, tràng hạt, tách trà.
Họ trộn lẫn các thứ đó với những đồ tương tự.
Em bé phải lấy ra được những món đồ của vị Lạt Ma trước.
Như vậy, em qua được thử thách và được coi như hóa thân của người chết. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Mỗi khi thực tập thiền hành trên con đường này, chúng ta đều để lại nhiều tế bào.”
Khi nào bạn bị xước da cũng đều có hàng ngàn tế bào da đã chết rơi xuống đất.
Khi bạn đi thiền hành, không những bạn để lại các tế bào da mà còn để lại trên đường cả những cảm thọ, nhận thức, và các tâm hành nữa.
Dù cho bạn tới Làng Mai một giờ hay một tuần, sau khi bạn rời làng, bạn cũng đã để lại nhiều dấu vết.
Những tế bào của bạn trên đường thiền hành trở thành cỏ và hoa dại.
Các tiếp nối của thân bạn vẫn có mặt tại Làng Mai.
Nó cũng có trong con cháu bạn, trong mỗi phần của trái đất.
Khi ngọn lửa của cây nến đi tới phần chót của tim nến và tắt đi, nó vẫn có đó.
Bạn không thể tìm được nó nếu chỉ nhìn theo bề dọc.
Bạn phải tìm nó theo bề rộng nữa.
Trong truyền thống Tây Tạng, khi một vị đại sư chết, các tăng sĩ đợi khoảng hai năm rồi đi tìm biểu hiện thân mới của vị Thầy mình.
Hóa thân được gọi là Tulku, theo tiếng Tây Tạng.
Vị đại sư có thể để lại một bài thơ lúc sắp mất, trong đó người ta cho rằng có những ẩn dụ để họ tìm được hóa thân của Ngài.
Dùng bài thơ đó các môn sinh của ông đi tìm một em bé có thể là đời sau của Thầy.
Họ đi tới căn nhà đứa bé đang sống, mang theo nhiều vật dụng của Thầy họ vẫn dùng như chuông, tràng hạt, tách trà.
Họ trộn lẫn các thứ đó với những đồ tương tự.
Em bé phải lấy ra được những món đồ của vị Lạt Ma trước.
Như vậy, em qua được thử thách và được coi như hóa thân của người chết. | Họ trộn lẫn các thứ đó với những đồ tương tự.
Em bé phải lấy ra được những món đồ của vị Lạt Ma trước.
Như vậy, em qua được thử thách và được coi như hóa thân của người chết.
Các vị thầy tăng đồ đệ của vị Lạt Ma xưa, sẽ xin phép cha mẹ để mang em bé về tu viện để em sẽ trở thành Thầy của các thế hệ sau.
Truyền thống đó rất dễ thương.
Các môn sinh thương quý ông thầy tới độ họ muốn giữ thầy lại với họ dù ông đã qua đời.
Tôi thường nói với các bạn tôi tại Làng Mai rằng họ đừng chờ tới khi tôi chết mới đi tìm thân tiếp nối của tôi.
Họ cần tìm tôi ngay lúc này vì tôi đã hóa thân ra thành nhiều thiếu nhi rồi.
Nếu bạn đứng cạnh tôi bây giờ, bạn có nhìn thấy các em bé - những người con tinh thần của tôi bên cạnh đây không?
Đó là các tiếp nối của tôi.
Tôi có hàng trăm thân tiếp nối trong những người trẻ đang tiếp tục thực tập tỉnh thức.
Nếu bạn nhìn bằng pháp nhãn, bạn sẽ thấy tôi đã tái sinh ra trong nhiều hình tướng.
Dù cho sách và Pháp thoại của tôi không được phép ấn hành tại Việt Nam, tôi vẫn có mặt.
Các bài giảng của tôi vẫn được lưu hành rộng rãi, dù pháp luật không cho phép.
Những người công an tịch thu sách tôi rồi đem về đọc lén.
Tức là tôi tiếp tục ở Việt Nam.
Có các tăng ni trẻ tu tập theo pháp môn tôi giảng dạy.
Nếu bạn đi Việt Nam bạn sẽ thấy tôi ở đó.
Cái thân tôi mà bạn nhìn thấy đây chỉ là một biểu hiện của tôi.
Sự có mặt của tôi bên Việt Nam ảnh hưởng vào đời sống tinh thần, văn hóa và người trẻ bên đó.
Ai nói rằng tôi không ở Việt Nam là người không có pháp nhãn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Họ trộn lẫn các thứ đó với những đồ tương tự.
Em bé phải lấy ra được những món đồ của vị Lạt Ma trước.
Như vậy, em qua được thử thách và được coi như hóa thân của người chết.
Các vị thầy tăng đồ đệ của vị Lạt Ma xưa, sẽ xin phép cha mẹ để mang em bé về tu viện để em sẽ trở thành Thầy của các thế hệ sau.
Truyền thống đó rất dễ thương.
Các môn sinh thương quý ông thầy tới độ họ muốn giữ thầy lại với họ dù ông đã qua đời.
Tôi thường nói với các bạn tôi tại Làng Mai rằng họ đừng chờ tới khi tôi chết mới đi tìm thân tiếp nối của tôi.
Họ cần tìm tôi ngay lúc này vì tôi đã hóa thân ra thành nhiều thiếu nhi rồi.
Nếu bạn đứng cạnh tôi bây giờ, bạn có nhìn thấy các em bé - những người con tinh thần của tôi bên cạnh đây không?
Đó là các tiếp nối của tôi.
Tôi có hàng trăm thân tiếp nối trong những người trẻ đang tiếp tục thực tập tỉnh thức.
Nếu bạn nhìn bằng pháp nhãn, bạn sẽ thấy tôi đã tái sinh ra trong nhiều hình tướng.
Dù cho sách và Pháp thoại của tôi không được phép ấn hành tại Việt Nam, tôi vẫn có mặt.
Các bài giảng của tôi vẫn được lưu hành rộng rãi, dù pháp luật không cho phép.
Những người công an tịch thu sách tôi rồi đem về đọc lén.
Tức là tôi tiếp tục ở Việt Nam.
Có các tăng ni trẻ tu tập theo pháp môn tôi giảng dạy.
Nếu bạn đi Việt Nam bạn sẽ thấy tôi ở đó.
Cái thân tôi mà bạn nhìn thấy đây chỉ là một biểu hiện của tôi.
Sự có mặt của tôi bên Việt Nam ảnh hưởng vào đời sống tinh thần, văn hóa và người trẻ bên đó.
Ai nói rằng tôi không ở Việt Nam là người không có pháp nhãn. | Sự có mặt của tôi bên Việt Nam ảnh hưởng vào đời sống tinh thần, văn hóa và người trẻ bên đó.
Ai nói rằng tôi không ở Việt Nam là người không có pháp nhãn.
Tôi đã giảng dạy trong nhà tù, và các cuốn sách của tôi được phát hành trong các trung tâm cải huấn Hoa Kỳ.
Nhiều tù nhân đọc và thích thú.
Một hôm tôi viếng thăm một nhà tù có mức độ canh chừng cao nhất Mỹ, ở Maryland.
Họ canh phòng nghiêm mật tới độ con kiến cũng khó lọt vô đó mà không bị phát hiện.
Tôi dạy cho tù nhân cách sống tự do tại bất cứ nơi nào.
Bài này đã được in thành tập sách mỏng.
Nhiều bản in được phát cho tù nhân để họ có thể thực tập, mỉm cười và bớt đau khổ.
Họ cố tìm niềm vui ngay cả trong đời sống tù tội.
Và tôi biết nay tôi cũng đang ở trong nhà tù.
Tất cả những tù nhân tiếp xúc được với giáo pháp của tôi đều là tiếp nối của thân tôi.
Khi bạn nhìn tôi, xin đừng nhìn cái thân này mà nên nhìn ra ngoài.
Pháo bông
Nếu mỗi ngày bạn tập đi ra ngoài theo chiều rộng và tái sinh trong mỗi giây phút, thì bạn có thể tìm được bạn của tương lai trong bình diện rộng đó.
Bạn giống như một cái pháo bông có thể tắt bất cứ lúc nào.
Pháo bông tỏa vẻ đẹp của nó ra chung quanh.
Với tư tưởng, lời nói và hành động, bạn có thể tỏa rạng vẻ đẹp ra ngoài.
Vẻ đẹp và tính thiện đó sẽ đi vào bạn bè, con cháu bạn và đi vào thế giới.
Nó không thể mất được, và bạn đi vào tương lai theo cách đó.
Nếu bạn nhìn vào mình theo phương pháp đó, bạn có thể thấy được tiếp nối của bạn trong tương lai. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Sự có mặt của tôi bên Việt Nam ảnh hưởng vào đời sống tinh thần, văn hóa và người trẻ bên đó.
Ai nói rằng tôi không ở Việt Nam là người không có pháp nhãn.
Tôi đã giảng dạy trong nhà tù, và các cuốn sách của tôi được phát hành trong các trung tâm cải huấn Hoa Kỳ.
Nhiều tù nhân đọc và thích thú.
Một hôm tôi viếng thăm một nhà tù có mức độ canh chừng cao nhất Mỹ, ở Maryland.
Họ canh phòng nghiêm mật tới độ con kiến cũng khó lọt vô đó mà không bị phát hiện.
Tôi dạy cho tù nhân cách sống tự do tại bất cứ nơi nào.
Bài này đã được in thành tập sách mỏng.
Nhiều bản in được phát cho tù nhân để họ có thể thực tập, mỉm cười và bớt đau khổ.
Họ cố tìm niềm vui ngay cả trong đời sống tù tội.
Và tôi biết nay tôi cũng đang ở trong nhà tù.
Tất cả những tù nhân tiếp xúc được với giáo pháp của tôi đều là tiếp nối của thân tôi.
Khi bạn nhìn tôi, xin đừng nhìn cái thân này mà nên nhìn ra ngoài.
Pháo bông
Nếu mỗi ngày bạn tập đi ra ngoài theo chiều rộng và tái sinh trong mỗi giây phút, thì bạn có thể tìm được bạn của tương lai trong bình diện rộng đó.
Bạn giống như một cái pháo bông có thể tắt bất cứ lúc nào.
Pháo bông tỏa vẻ đẹp của nó ra chung quanh.
Với tư tưởng, lời nói và hành động, bạn có thể tỏa rạng vẻ đẹp ra ngoài.
Vẻ đẹp và tính thiện đó sẽ đi vào bạn bè, con cháu bạn và đi vào thế giới.
Nó không thể mất được, và bạn đi vào tương lai theo cách đó.
Nếu bạn nhìn vào mình theo phương pháp đó, bạn có thể thấy được tiếp nối của bạn trong tương lai. | Nó không thể mất được, và bạn đi vào tương lai theo cách đó.
Nếu bạn nhìn vào mình theo phương pháp đó, bạn có thể thấy được tiếp nối của bạn trong tương lai.
Bạn sẽ không bị vướng vào ý niệm bạn sẽ trở thành hư vô.
Bạn sẽ không còn nghĩ rằng bạn không còn hiện hữu sau khi chết.
Sự thật là bạn không còn hoài, nhưng bạn cũng không bị mất hết, trở thành hư vô.
Bạn có thể nhìn thấy bạn đã tái sinh trong từng phút giây thời quá khứ chăng?
Tất cả tổ tiên đang tiếp tục sống trong bạn, và khi bạn chuyển hóa tập khí mà họ đã truyền cho bạn tức là bạn đã được tái sinh trong thời quá khứ rồi.
Tỷ dụ như vì nhu cầu luôn luôn phải làm việc để sống còn, có thể tổ tiên của bạn đã có tập khí luôn luôn chạy.
Họ không có thời gian để ngừng lại, thở và tiếp xúc với những mầu nhiệm mà cuộc sống dâng tặng.
Bạn cũng thế, thường chạy như vậy.
Nhưng nay bạn đã biết thực tập.
Nay bạn có thể dừng lại, thở và tiếp xúc với các mầu nhiệm của đời sống thay cho tổ tiên.
Có lẽ tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh của bạn cũng có những nét đẹp mà cha mẹ và vị thầy tâm linh của bạn đời này đã không biểu hiện ra hết được.
Nay bạn có thể khám phá lại được những nét đẹp đó trong mình, và bạn làm sống lại những gì tưởng như đã mất.
Đó cũng là sự tái sinh trong quá khứ.
Tôi biết một anh cựu chiến binh Mỹ đã qua Việt Nam.
Các du kích quân đã giết đồng đội của anh và anh quyết định trả thù những người dân trong làng mà bạn anh đã chết.
Anh ta làm thuốc nổ bằng bánh mì kẹp nhân và để bánh ở đầu làng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nó không thể mất được, và bạn đi vào tương lai theo cách đó.
Nếu bạn nhìn vào mình theo phương pháp đó, bạn có thể thấy được tiếp nối của bạn trong tương lai.
Bạn sẽ không bị vướng vào ý niệm bạn sẽ trở thành hư vô.
Bạn sẽ không còn nghĩ rằng bạn không còn hiện hữu sau khi chết.
Sự thật là bạn không còn hoài, nhưng bạn cũng không bị mất hết, trở thành hư vô.
Bạn có thể nhìn thấy bạn đã tái sinh trong từng phút giây thời quá khứ chăng?
Tất cả tổ tiên đang tiếp tục sống trong bạn, và khi bạn chuyển hóa tập khí mà họ đã truyền cho bạn tức là bạn đã được tái sinh trong thời quá khứ rồi.
Tỷ dụ như vì nhu cầu luôn luôn phải làm việc để sống còn, có thể tổ tiên của bạn đã có tập khí luôn luôn chạy.
Họ không có thời gian để ngừng lại, thở và tiếp xúc với những mầu nhiệm mà cuộc sống dâng tặng.
Bạn cũng thế, thường chạy như vậy.
Nhưng nay bạn đã biết thực tập.
Nay bạn có thể dừng lại, thở và tiếp xúc với các mầu nhiệm của đời sống thay cho tổ tiên.
Có lẽ tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh của bạn cũng có những nét đẹp mà cha mẹ và vị thầy tâm linh của bạn đời này đã không biểu hiện ra hết được.
Nay bạn có thể khám phá lại được những nét đẹp đó trong mình, và bạn làm sống lại những gì tưởng như đã mất.
Đó cũng là sự tái sinh trong quá khứ.
Tôi biết một anh cựu chiến binh Mỹ đã qua Việt Nam.
Các du kích quân đã giết đồng đội của anh và anh quyết định trả thù những người dân trong làng mà bạn anh đã chết.
Anh ta làm thuốc nổ bằng bánh mì kẹp nhân và để bánh ở đầu làng. | Các du kích quân đã giết đồng đội của anh và anh quyết định trả thù những người dân trong làng mà bạn anh đã chết.
Anh ta làm thuốc nổ bằng bánh mì kẹp nhân và để bánh ở đầu làng.
Mấy đứa trẻ tới đó, nhìn thấy bánh mì liền lấy ăn.
Mấy phút sau, chúng quằn quại rên la vì đau đớn.
Cha mẹ chúng chạy tới nhưng đã quá trễ.
Đó là một làng hẻo lánh không có xe cứu thương và phương tiện y tế, và trẻ không được chở tới nhà thương kịp thời.
Cả năm đứa bé đều chết.
Sau khi trở về Mỹ, người lính kia không thể nào quên được tội lỗi của mình.
Mẹ anh an ủi: “Con ơi, đó là những chuyện xảy ra khi có chiến tranh.
Con không nên khổ tâm về chuyện ấy.” Nhưng anh vẫn rất đau khổ.
Khi nào gặp trẻ em trong một căn phòng là anh chịu hết nổi, anh phải chạy ngay ra ngoài.
Trong một chuyến đi Hoa Kỳ, các cựu chiến binh Mỹ tổ chức một khóa tu dành riêng cho họ.
Tôi dạy họ cách đi, cách thở để chuyển hóa sợ hãi, mặc cảm tội lỗi, và đau khổ.
Tôi nói với cựu chiến binh trên: “Anh đã giết năm đứa trẻ, đó là chuyện thật, nhưng anh có thể cứu mạng hàng trăm trẻ khác.
Anh có biết rằng hàng ngày có tới mười ngàn trẻ em bị chết vì thiếu thuốc men và thực phẩm hay chăng?
Anh có thể đem thức ăn và thuốc tới cho một số trẻ đó.” Anh ta thực tập như tôi dạy, con người đó - hai mươi năm trước đã giết năm em nhỏ - anh được tái sinh ngay lập tức trong quá khứ, trở thành con người cứu được hàng vài chục trẻ em.
Tập nhìn sâu như thế, những tiếc nuối, tự ty nơi bạn sẽ được chuyển hóa. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Các du kích quân đã giết đồng đội của anh và anh quyết định trả thù những người dân trong làng mà bạn anh đã chết.
Anh ta làm thuốc nổ bằng bánh mì kẹp nhân và để bánh ở đầu làng.
Mấy đứa trẻ tới đó, nhìn thấy bánh mì liền lấy ăn.
Mấy phút sau, chúng quằn quại rên la vì đau đớn.
Cha mẹ chúng chạy tới nhưng đã quá trễ.
Đó là một làng hẻo lánh không có xe cứu thương và phương tiện y tế, và trẻ không được chở tới nhà thương kịp thời.
Cả năm đứa bé đều chết.
Sau khi trở về Mỹ, người lính kia không thể nào quên được tội lỗi của mình.
Mẹ anh an ủi: “Con ơi, đó là những chuyện xảy ra khi có chiến tranh.
Con không nên khổ tâm về chuyện ấy.” Nhưng anh vẫn rất đau khổ.
Khi nào gặp trẻ em trong một căn phòng là anh chịu hết nổi, anh phải chạy ngay ra ngoài.
Trong một chuyến đi Hoa Kỳ, các cựu chiến binh Mỹ tổ chức một khóa tu dành riêng cho họ.
Tôi dạy họ cách đi, cách thở để chuyển hóa sợ hãi, mặc cảm tội lỗi, và đau khổ.
Tôi nói với cựu chiến binh trên: “Anh đã giết năm đứa trẻ, đó là chuyện thật, nhưng anh có thể cứu mạng hàng trăm trẻ khác.
Anh có biết rằng hàng ngày có tới mười ngàn trẻ em bị chết vì thiếu thuốc men và thực phẩm hay chăng?
Anh có thể đem thức ăn và thuốc tới cho một số trẻ đó.” Anh ta thực tập như tôi dạy, con người đó - hai mươi năm trước đã giết năm em nhỏ - anh được tái sinh ngay lập tức trong quá khứ, trở thành con người cứu được hàng vài chục trẻ em.
Tập nhìn sâu như thế, những tiếc nuối, tự ty nơi bạn sẽ được chuyển hóa. | Tập nhìn sâu như thế, những tiếc nuối, tự ty nơi bạn sẽ được chuyển hóa.
Bạn sẽ có nguồn năng lượng mới, không chỉ tỏa sáng trong quá khứ mà còn tỏa sáng trong thời hiện tại và tương lai nữa.
Sợ hãi, chấp nhận và tha thứ
Nhiều người trong chúng ta thường hỏi rất nhiều lần câu hỏi “Vì sao tôi phải chết?” Câu hỏi quan trọng hơn bạn nên hỏi chính bạn là: “Chuyện gì xảy ra trước khi tôi lìa đời?” Bạn nên tới người thân yêu của bạn và hỏi: “Em (hay anh) yêu, em vẫn là người anh cưới ba mươi năm trước hay em là người khác?
Vì sao anh lại phải khóc khi em chết đi?” Đó là những câu hỏi rất quan trọng mà nếu chỉ dùng trí khôn, thì ta không thể trả lời.
Chúng ta cần điều gì sâu lắng và hoàn hảo hơn để trả lời những câu hỏi này.
Phép thực tập địa xúc (lạy xuống sát đất) có thể giúp ta tiếp xúc được với bản chất vô sinh bất diệt.
Nếu ta thực tập địa xúc như Bụt đã thực tập thì ta có thể đạt tới trí tuệ thật sự.
Trong kinh nói rằng một ngày trước khi Bụt thành đạo, Ngài còn chút nghi ngờ về khả năng tỉnh thức tuyệt đối của mình.
Ngài đã khá tự tin nhưng có điều gì đó khiến Ngài còn thắc mắc.
Ngài bèn thực tập phép địa xúc.
Ngài dùng hai bàn tay tiếp xúc với mặt đất để chuyển hóa mối nghi kia.
Ngày hôm sau, hoàng tử Siddhartha trở thành Bụt Thích Ca.
Trong các chùa tại Á Châu, bạn nhìn thấy các tượng Bụt để một tay chạm mặt đất.
Địa xúc là phép thực tập rất sâu có thể giúp ta chuyển hóa sợ hãi, nghi ngờ, thiên kiến và giận dữ.
Tiếp xúc với cả hai bình diện |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tập nhìn sâu như thế, những tiếc nuối, tự ty nơi bạn sẽ được chuyển hóa.
Bạn sẽ có nguồn năng lượng mới, không chỉ tỏa sáng trong quá khứ mà còn tỏa sáng trong thời hiện tại và tương lai nữa.
Sợ hãi, chấp nhận và tha thứ
Nhiều người trong chúng ta thường hỏi rất nhiều lần câu hỏi “Vì sao tôi phải chết?” Câu hỏi quan trọng hơn bạn nên hỏi chính bạn là: “Chuyện gì xảy ra trước khi tôi lìa đời?” Bạn nên tới người thân yêu của bạn và hỏi: “Em (hay anh) yêu, em vẫn là người anh cưới ba mươi năm trước hay em là người khác?
Vì sao anh lại phải khóc khi em chết đi?” Đó là những câu hỏi rất quan trọng mà nếu chỉ dùng trí khôn, thì ta không thể trả lời.
Chúng ta cần điều gì sâu lắng và hoàn hảo hơn để trả lời những câu hỏi này.
Phép thực tập địa xúc (lạy xuống sát đất) có thể giúp ta tiếp xúc được với bản chất vô sinh bất diệt.
Nếu ta thực tập địa xúc như Bụt đã thực tập thì ta có thể đạt tới trí tuệ thật sự.
Trong kinh nói rằng một ngày trước khi Bụt thành đạo, Ngài còn chút nghi ngờ về khả năng tỉnh thức tuyệt đối của mình.
Ngài đã khá tự tin nhưng có điều gì đó khiến Ngài còn thắc mắc.
Ngài bèn thực tập phép địa xúc.
Ngài dùng hai bàn tay tiếp xúc với mặt đất để chuyển hóa mối nghi kia.
Ngày hôm sau, hoàng tử Siddhartha trở thành Bụt Thích Ca.
Trong các chùa tại Á Châu, bạn nhìn thấy các tượng Bụt để một tay chạm mặt đất.
Địa xúc là phép thực tập rất sâu có thể giúp ta chuyển hóa sợ hãi, nghi ngờ, thiên kiến và giận dữ.
Tiếp xúc với cả hai bình diện | Địa xúc là phép thực tập rất sâu có thể giúp ta chuyển hóa sợ hãi, nghi ngờ, thiên kiến và giận dữ.
Tiếp xúc với cả hai bình diện
Bình diện tuyệt đối (bản môn) và bình diện tương đối (tích môn) là hai thực tại liên hệ hỗ tương nhau.
Nếu bạn có thể tiếp xúc sâu sắc với một thì bạn cũng tiếp xúc được với bình diện kia.
Chúa Jesus có thể được nói tới như là một người con của thường dân và cũng là con của Thượng đế.
Là con người thường, Ngài thuộc vào tích môn và trong bản môn, Chúa là con Thượng đế.
Có một vị Bụt trong lịch sử và cũng có một vị Bụt vượt không gian và thời gian.
Chúng ta tất cả đều như vậy.
Chúng ta thuộc về tích môn, khi sống đời hàng ngày, nhưng ta cũng có một bình diện bản môn, khi ta tập sống về tâm linh.
Nếu chúng ta có thể sống với bình diện tuyệt đối cùng lúc với bình diện tương đối thì ta sẽ không còn sợ hãi.
Khi không sợ hãi nữa thì có chân hạnh phúc.
Ngọn sóng có quyền sống như một ngọn sóng, nhưng nó cần học cách sống như nó là nước vì nó không phải chỉ là sóng mà thôi.
Và nước thì sống mà không sợ hãi như sóng.
Lạy sát đất là một phương pháp dễ làm và có hiệu quả để tiếp xúc với bản môn.
Thực tập phép này một ngày kia bạn sẽ tiếp xúc được với bản chất vô sinh bất diệt.
Và từ lúc đó bạn sẽ dứt hẳn được các mối lo sợ.
Bạn sẽ trở thành con người cưỡi trên sóng sinh tử một cách oai phong vì bạn không còn bị sợ hãi và phiền giận lay động nữa.
Tiếp xúc với đất trong tích môn
Hãy tưởng tượng thời gian như một đường thẳng dọc. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Địa xúc là phép thực tập rất sâu có thể giúp ta chuyển hóa sợ hãi, nghi ngờ, thiên kiến và giận dữ.
Tiếp xúc với cả hai bình diện
Bình diện tuyệt đối (bản môn) và bình diện tương đối (tích môn) là hai thực tại liên hệ hỗ tương nhau.
Nếu bạn có thể tiếp xúc sâu sắc với một thì bạn cũng tiếp xúc được với bình diện kia.
Chúa Jesus có thể được nói tới như là một người con của thường dân và cũng là con của Thượng đế.
Là con người thường, Ngài thuộc vào tích môn và trong bản môn, Chúa là con Thượng đế.
Có một vị Bụt trong lịch sử và cũng có một vị Bụt vượt không gian và thời gian.
Chúng ta tất cả đều như vậy.
Chúng ta thuộc về tích môn, khi sống đời hàng ngày, nhưng ta cũng có một bình diện bản môn, khi ta tập sống về tâm linh.
Nếu chúng ta có thể sống với bình diện tuyệt đối cùng lúc với bình diện tương đối thì ta sẽ không còn sợ hãi.
Khi không sợ hãi nữa thì có chân hạnh phúc.
Ngọn sóng có quyền sống như một ngọn sóng, nhưng nó cần học cách sống như nó là nước vì nó không phải chỉ là sóng mà thôi.
Và nước thì sống mà không sợ hãi như sóng.
Lạy sát đất là một phương pháp dễ làm và có hiệu quả để tiếp xúc với bản môn.
Thực tập phép này một ngày kia bạn sẽ tiếp xúc được với bản chất vô sinh bất diệt.
Và từ lúc đó bạn sẽ dứt hẳn được các mối lo sợ.
Bạn sẽ trở thành con người cưỡi trên sóng sinh tử một cách oai phong vì bạn không còn bị sợ hãi và phiền giận lay động nữa.
Tiếp xúc với đất trong tích môn
Hãy tưởng tượng thời gian như một đường thẳng dọc. | Tiếp xúc với đất trong tích môn
Hãy tưởng tượng thời gian như một đường thẳng dọc.
Đặt mình vào một chỗ, như đang đứng trên trục thời gian đó, quá khứ phía trên và tương lai phía dưới.
Coi các thế hệ tổ tiên đã tới trước bạn, trong đó trẻ nhất là cha mẹ của bạn.
Tất cả đều ở trên cái trục thời gian.
Dưới bạn, nhìn về con, cháu, chắt v.v... và tất cả các thế hệ tương lai.
Nếu không có con, bạn có thể coi con cháu là những người tiếp nối của các nhân vật bạn đã tiếp xúc đời này, và tất cả những ai mà bạn đã ảnh hưởng đến họ.
Trong bạn có tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh.
Bạn tiếp xúc với sự hiện diện của cha mẹ trong từng tế bào của cơ thể bạn.
Họ thật sự có mặt tại đó, cũng như ông bà, cụ cố của bạn.
Làm vậy bạn sẽ nhận thức được mình là tiếp nối của họ.
Bạn có thể nghĩ tổ tiên không còn hiện hữu, nhưng ngay cả các khoa học gia cũng cho rằng tổ tiên bạn còn trong bạn, trong các “gien” (genes) di truyền, nghĩa là trong từng tế bào của bạn.
Đối với các thế hệ con cháu cũng vậy.
Bạn sẽ hiện diện trong từng tế bào của chúng.
Và bạn cũng hiện diện trong tâm thức của những người mà bạn đã tiếp xúc.
Đây là sự thật, không phải chuyện tưởng tượng.
Đây là cái lạy, là địa xúc thứ nhất.
Hạt và cây
Hãy nhìn cây mận.
Trong mỗi trái mận trên cây có một cái hạt.
Hạt đó chứa đựng cây mận và tất cả những thế hệ trước nó.
Hạt mận chứa đựng hằng hà sa số cây mận.
Trong hạt mận có sự hiểu biết thông minh là làm sao để trở thành một cây mận, làm sao để thành ra cành, lá, hoa và trái mận. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tiếp xúc với đất trong tích môn
Hãy tưởng tượng thời gian như một đường thẳng dọc.
Đặt mình vào một chỗ, như đang đứng trên trục thời gian đó, quá khứ phía trên và tương lai phía dưới.
Coi các thế hệ tổ tiên đã tới trước bạn, trong đó trẻ nhất là cha mẹ của bạn.
Tất cả đều ở trên cái trục thời gian.
Dưới bạn, nhìn về con, cháu, chắt v.v... và tất cả các thế hệ tương lai.
Nếu không có con, bạn có thể coi con cháu là những người tiếp nối của các nhân vật bạn đã tiếp xúc đời này, và tất cả những ai mà bạn đã ảnh hưởng đến họ.
Trong bạn có tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh.
Bạn tiếp xúc với sự hiện diện của cha mẹ trong từng tế bào của cơ thể bạn.
Họ thật sự có mặt tại đó, cũng như ông bà, cụ cố của bạn.
Làm vậy bạn sẽ nhận thức được mình là tiếp nối của họ.
Bạn có thể nghĩ tổ tiên không còn hiện hữu, nhưng ngay cả các khoa học gia cũng cho rằng tổ tiên bạn còn trong bạn, trong các “gien” (genes) di truyền, nghĩa là trong từng tế bào của bạn.
Đối với các thế hệ con cháu cũng vậy.
Bạn sẽ hiện diện trong từng tế bào của chúng.
Và bạn cũng hiện diện trong tâm thức của những người mà bạn đã tiếp xúc.
Đây là sự thật, không phải chuyện tưởng tượng.
Đây là cái lạy, là địa xúc thứ nhất.
Hạt và cây
Hãy nhìn cây mận.
Trong mỗi trái mận trên cây có một cái hạt.
Hạt đó chứa đựng cây mận và tất cả những thế hệ trước nó.
Hạt mận chứa đựng hằng hà sa số cây mận.
Trong hạt mận có sự hiểu biết thông minh là làm sao để trở thành một cây mận, làm sao để thành ra cành, lá, hoa và trái mận. | Hạt mận chứa đựng hằng hà sa số cây mận.
Trong hạt mận có sự hiểu biết thông minh là làm sao để trở thành một cây mận, làm sao để thành ra cành, lá, hoa và trái mận.
Nó không thể tự mình làm như vậy được.
Nó chỉ có thể làm được vậy khi nó đã tiếp nhận được kinh nghiệm và gia tài của bao thế hệ tổ tiên.
Bạn có trí tuệ và thông minh để trở thành một con người vì bạn đã thừa hưởng từ muôn đời trí tuệ không những của tổ tiên huyết thống mà còn của tổ tiên tâm linh nữa.
Tổ tiên tâm linh có trong bạn vì bản chất trời sinh của bạn và sự dưỡng dục bạn nhận được là hai thứ không thể tách rời.
Dưỡng dục thay đổi bản chất di truyền.
Tâm linh và sự tu học của bạn, là một phần của đời sống hàng ngày, cũng có mặt trong từng tế bào của bạn.
Vậy nên các vị thầy tâm linh cũng có trong mỗi tế bào của bạn.
Bạn không thể chối bỏ sự hiện hữu của họ.
Bạn có những vị tổ mà bạn ngưỡng mộ.
Bạn cũng có những vị tiền nhân với nhiều tính tiêu cực mà bạn không hãnh diện gì, nhưng họ vẫn là tổ tiên của bạn.
Một số người trong chúng ta có cha mẹ tuyệt vời, những người khác có cha mẹ rất đau khổ và họ làm cả gia đình khổ theo.
Bạn có thể có các thầy tâm linh không giúp gì bạn và gia đình bạn trong việc biết đạo và sống đạo.
Bạn có thể không kính trọng họ, nhưng họ vẫn là tổ tiên của bạn.
Chấp nhận
Chúng ta cần quay về với chính mình và ôm lấy tổ tiên huyết thống cũng như tổ tiên tâm linh của mình.
Chúng ta không thể bỏ lơ họ được.
Họ là một thực tại và họ có đó. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Hạt mận chứa đựng hằng hà sa số cây mận.
Trong hạt mận có sự hiểu biết thông minh là làm sao để trở thành một cây mận, làm sao để thành ra cành, lá, hoa và trái mận.
Nó không thể tự mình làm như vậy được.
Nó chỉ có thể làm được vậy khi nó đã tiếp nhận được kinh nghiệm và gia tài của bao thế hệ tổ tiên.
Bạn có trí tuệ và thông minh để trở thành một con người vì bạn đã thừa hưởng từ muôn đời trí tuệ không những của tổ tiên huyết thống mà còn của tổ tiên tâm linh nữa.
Tổ tiên tâm linh có trong bạn vì bản chất trời sinh của bạn và sự dưỡng dục bạn nhận được là hai thứ không thể tách rời.
Dưỡng dục thay đổi bản chất di truyền.
Tâm linh và sự tu học của bạn, là một phần của đời sống hàng ngày, cũng có mặt trong từng tế bào của bạn.
Vậy nên các vị thầy tâm linh cũng có trong mỗi tế bào của bạn.
Bạn không thể chối bỏ sự hiện hữu của họ.
Bạn có những vị tổ mà bạn ngưỡng mộ.
Bạn cũng có những vị tiền nhân với nhiều tính tiêu cực mà bạn không hãnh diện gì, nhưng họ vẫn là tổ tiên của bạn.
Một số người trong chúng ta có cha mẹ tuyệt vời, những người khác có cha mẹ rất đau khổ và họ làm cả gia đình khổ theo.
Bạn có thể có các thầy tâm linh không giúp gì bạn và gia đình bạn trong việc biết đạo và sống đạo.
Bạn có thể không kính trọng họ, nhưng họ vẫn là tổ tiên của bạn.
Chấp nhận
Chúng ta cần quay về với chính mình và ôm lấy tổ tiên huyết thống cũng như tổ tiên tâm linh của mình.
Chúng ta không thể bỏ lơ họ được.
Họ là một thực tại và họ có đó. | Chấp nhận
Chúng ta cần quay về với chính mình và ôm lấy tổ tiên huyết thống cũng như tổ tiên tâm linh của mình.
Chúng ta không thể bỏ lơ họ được.
Họ là một thực tại và họ có đó.
Họ là một phần thân thể và tâm hồn của chúng ta.
Khi bạn lạy xuống đất lần thứ nhất, hãy chấp nhận tất cả tổ tiên với bản chất của họ.
Chấp nhận một cách vô điều kiện là bước đầu để mở được cánh cửa kỳ diệu của tha thứ.
Jesus đã nói: “Xin hãy tha tội cho chúng con đã xâm phạm kẻ khác và cũng tha tội cho kẻ khác đã xâm phạm chúng con.” Chúa hiểu rằng bước đầu của sự tha thứ là chấp nhận người khác như họ đang là họ, dù họ có làm hại ta.
Muốn chấp nhận kẻ khác như bản chất của họ, chúng ta bắt đầu từ chính mình.
Nếu chúng ta không thể chấp nhận được chúng ta như ta đang là ta, ta sẽ không bao giờ chấp nhận được người khác.
Khi tôi nhìn lại tôi, tôi thấy những điều tốt đẹp, tích cực và có thể nói là đáng khen nữa.
Nhưng tôi biết mình cũng có một phần tiêu cực trong người.
Vậy, trước hết tôi cần nhận biết và chấp nhận chính tôi.
Khi nào thực tập địa xúc ta cũng thực tập thở có chánh niệm, dù là thực tập trước một tảng đá, ngọn núi, trước một bông hoa hay trước bàn thờ trong nhà.
Thở vào thở ra, bạn quán tưởng hình ảnh của tổ tiên, bạn sẽ nhìn thấy các ưu điểm và nhược điểm của họ.
Hãy quyết tâm chấp nhận tất cả đều là tổ tiên của mình, không ngần ngại gì hết.
Sau đó, bạn lạy xuống, để hai đầu gối tiếp xúc với đất, rồi hai tay, và trán nữa.
Giữ tư thế phủ phục đó trong khi quán tưởng hình ảnh họ: |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chấp nhận
Chúng ta cần quay về với chính mình và ôm lấy tổ tiên huyết thống cũng như tổ tiên tâm linh của mình.
Chúng ta không thể bỏ lơ họ được.
Họ là một thực tại và họ có đó.
Họ là một phần thân thể và tâm hồn của chúng ta.
Khi bạn lạy xuống đất lần thứ nhất, hãy chấp nhận tất cả tổ tiên với bản chất của họ.
Chấp nhận một cách vô điều kiện là bước đầu để mở được cánh cửa kỳ diệu của tha thứ.
Jesus đã nói: “Xin hãy tha tội cho chúng con đã xâm phạm kẻ khác và cũng tha tội cho kẻ khác đã xâm phạm chúng con.” Chúa hiểu rằng bước đầu của sự tha thứ là chấp nhận người khác như họ đang là họ, dù họ có làm hại ta.
Muốn chấp nhận kẻ khác như bản chất của họ, chúng ta bắt đầu từ chính mình.
Nếu chúng ta không thể chấp nhận được chúng ta như ta đang là ta, ta sẽ không bao giờ chấp nhận được người khác.
Khi tôi nhìn lại tôi, tôi thấy những điều tốt đẹp, tích cực và có thể nói là đáng khen nữa.
Nhưng tôi biết mình cũng có một phần tiêu cực trong người.
Vậy, trước hết tôi cần nhận biết và chấp nhận chính tôi.
Khi nào thực tập địa xúc ta cũng thực tập thở có chánh niệm, dù là thực tập trước một tảng đá, ngọn núi, trước một bông hoa hay trước bàn thờ trong nhà.
Thở vào thở ra, bạn quán tưởng hình ảnh của tổ tiên, bạn sẽ nhìn thấy các ưu điểm và nhược điểm của họ.
Hãy quyết tâm chấp nhận tất cả đều là tổ tiên của mình, không ngần ngại gì hết.
Sau đó, bạn lạy xuống, để hai đầu gối tiếp xúc với đất, rồi hai tay, và trán nữa.
Giữ tư thế phủ phục đó trong khi quán tưởng hình ảnh họ: | Sau đó, bạn lạy xuống, để hai đầu gối tiếp xúc với đất, rồi hai tay, và trán nữa.
Giữ tư thế phủ phục đó trong khi quán tưởng hình ảnh họ:
“Thưa Chư Tổ, con là các Ngài với tất cả sức mạnh và yếu đuối của quý vị.
Con nhìn thấy những hạt giống tiêu cực và tích cực trong quý vị.
Con hiểu rằng các Ngài đã may mắn nên các hạt giống từ bi, vô úy đã được tưới tẩm.
Con cũng hiểu rằng quý Ngài đã không may có các hạt giống xấu bị tưới tẩm như ghen tỵ, sợ hãi; nên hạt giống tốt không có cơ hội lớn lên.”
Nếu các hạt giống thiện được tưới tẩm trong cuộc đời một người nào, đó là do may mắn và một phần do cố gắng.
Những cái duyên trong đời sống có thể giúp ta gặp cơ hội tưới tẩm những hạt giống kiên nhẫn, đại lượng, từ bi và yêu thương.
Người chung quanh có thể giúp ta, và thực tập chánh niệm cũng giúp ta.
Nhưng nếu một người lớn lên trong chiến tranh, hoặc khi gia đình, cộng đồng của họ chịu nhiều khổ đau rồi, thì người đó có thể có nhiều sợ hãi và tuyệt vọng.
Nếu cha mẹ họ đã khổ nhiều và sợ sệt người khác cũng như sợ cả thế giới, thì các vị đó có thể truyền sang con cháu những lo lắng và giận dữ của họ.
Khi người kia được lớn lên trong tình thương yêu và sự an toàn, các hạt giống thiện trong họ lớn lên và họ có thể truyền các hạt giống tuyệt vời đó sang con cháu.
Nếu bạn có thể nhìn tổ tiên như thế, bạn sẽ hiểu rằng họ cũng là người đau khổ và đã cố gắng tối đa.
Sự hiểu biết này sẽ làm tan đi tất cả hờn giận và chối bỏ nơi bạn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Sau đó, bạn lạy xuống, để hai đầu gối tiếp xúc với đất, rồi hai tay, và trán nữa.
Giữ tư thế phủ phục đó trong khi quán tưởng hình ảnh họ:
“Thưa Chư Tổ, con là các Ngài với tất cả sức mạnh và yếu đuối của quý vị.
Con nhìn thấy những hạt giống tiêu cực và tích cực trong quý vị.
Con hiểu rằng các Ngài đã may mắn nên các hạt giống từ bi, vô úy đã được tưới tẩm.
Con cũng hiểu rằng quý Ngài đã không may có các hạt giống xấu bị tưới tẩm như ghen tỵ, sợ hãi; nên hạt giống tốt không có cơ hội lớn lên.”
Nếu các hạt giống thiện được tưới tẩm trong cuộc đời một người nào, đó là do may mắn và một phần do cố gắng.
Những cái duyên trong đời sống có thể giúp ta gặp cơ hội tưới tẩm những hạt giống kiên nhẫn, đại lượng, từ bi và yêu thương.
Người chung quanh có thể giúp ta, và thực tập chánh niệm cũng giúp ta.
Nhưng nếu một người lớn lên trong chiến tranh, hoặc khi gia đình, cộng đồng của họ chịu nhiều khổ đau rồi, thì người đó có thể có nhiều sợ hãi và tuyệt vọng.
Nếu cha mẹ họ đã khổ nhiều và sợ sệt người khác cũng như sợ cả thế giới, thì các vị đó có thể truyền sang con cháu những lo lắng và giận dữ của họ.
Khi người kia được lớn lên trong tình thương yêu và sự an toàn, các hạt giống thiện trong họ lớn lên và họ có thể truyền các hạt giống tuyệt vời đó sang con cháu.
Nếu bạn có thể nhìn tổ tiên như thế, bạn sẽ hiểu rằng họ cũng là người đau khổ và đã cố gắng tối đa.
Sự hiểu biết này sẽ làm tan đi tất cả hờn giận và chối bỏ nơi bạn. | Nếu bạn có thể nhìn tổ tiên như thế, bạn sẽ hiểu rằng họ cũng là người đau khổ và đã cố gắng tối đa.
Sự hiểu biết này sẽ làm tan đi tất cả hờn giận và chối bỏ nơi bạn.
Chấp nhận tổ tiên với cả hai mặt yếu và mạnh là điều rất quan trọng.
Nó sẽ giúp cho bạn được bình an hơn và ít đi sự sợ hãi.
Bạn cũng có thể nhìn các anh chị mình như các vị tổ tiên trẻ tuổi, vì họ ra đời trước bạn.
Họ có những yếu kém cũng như có tài năng mà bạn phải chấp nhận vì bạn nhận thức được rằng bạn cũng có khuyết điểm và tài năng.
Bạn thực hiện được sự chấp nhận đó khi bạn lạy xuống đất.
Nếu bạn muốn, có thể giữ tư thế lạy phủ phục đó trong 5 - 10 hay 15 phút để nhìn sâu và thực nghiệm sự chấp nhận đó.
Cái lạy thứ nhất có thể cần được lập đi lập lại mấy lần trước khi bạn có thể giải hòa với cha mẹ hay tổ tiên.
Nó đòi hỏi phải thực tập nhiều, nhưng bạn cần làm vậy vì cha mẹ và tổ tiên hiện diện trong bạn.
Hòa giải với họ nghĩa là bạn hòa giải với chính mình.
Chối bỏ họ là chối bỏ chính mình.
Nếu bạn có thể thấy được rằng bạn không thể chia cách với tổ tiên, đó là bạn đã tiến bộ nhiều rồi.
Tôi tin chắc là bạn sẽ thành công sau một vài ngày hay một tuần lễ thực tập như vậy.
Bạn có thể thực tập thiền lạy hay địa xúc bất cứ tại đâu.
Trước bàn thờ tổ tiên, trước một cái cây hay đám mây, ngọn núi hoặc bất kỳ chỗ nào bạn thích.
Đứng trước tảng đá hay đám mây hay cái cây hoặc bông hoa trên bàn thờ, hình dung tất cả các vị tổ có mặt trong bạn.
Điều này không khó vì thực tế bạn chính là họ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nếu bạn có thể nhìn tổ tiên như thế, bạn sẽ hiểu rằng họ cũng là người đau khổ và đã cố gắng tối đa.
Sự hiểu biết này sẽ làm tan đi tất cả hờn giận và chối bỏ nơi bạn.
Chấp nhận tổ tiên với cả hai mặt yếu và mạnh là điều rất quan trọng.
Nó sẽ giúp cho bạn được bình an hơn và ít đi sự sợ hãi.
Bạn cũng có thể nhìn các anh chị mình như các vị tổ tiên trẻ tuổi, vì họ ra đời trước bạn.
Họ có những yếu kém cũng như có tài năng mà bạn phải chấp nhận vì bạn nhận thức được rằng bạn cũng có khuyết điểm và tài năng.
Bạn thực hiện được sự chấp nhận đó khi bạn lạy xuống đất.
Nếu bạn muốn, có thể giữ tư thế lạy phủ phục đó trong 5 - 10 hay 15 phút để nhìn sâu và thực nghiệm sự chấp nhận đó.
Cái lạy thứ nhất có thể cần được lập đi lập lại mấy lần trước khi bạn có thể giải hòa với cha mẹ hay tổ tiên.
Nó đòi hỏi phải thực tập nhiều, nhưng bạn cần làm vậy vì cha mẹ và tổ tiên hiện diện trong bạn.
Hòa giải với họ nghĩa là bạn hòa giải với chính mình.
Chối bỏ họ là chối bỏ chính mình.
Nếu bạn có thể thấy được rằng bạn không thể chia cách với tổ tiên, đó là bạn đã tiến bộ nhiều rồi.
Tôi tin chắc là bạn sẽ thành công sau một vài ngày hay một tuần lễ thực tập như vậy.
Bạn có thể thực tập thiền lạy hay địa xúc bất cứ tại đâu.
Trước bàn thờ tổ tiên, trước một cái cây hay đám mây, ngọn núi hoặc bất kỳ chỗ nào bạn thích.
Đứng trước tảng đá hay đám mây hay cái cây hoặc bông hoa trên bàn thờ, hình dung tất cả các vị tổ có mặt trong bạn.
Điều này không khó vì thực tế bạn chính là họ. | Đứng trước tảng đá hay đám mây hay cái cây hoặc bông hoa trên bàn thờ, hình dung tất cả các vị tổ có mặt trong bạn.
Điều này không khó vì thực tế bạn chính là họ.
Bạn là tiếp nối của họ.
Xin hãy thực tập với một trăm phần trăm con người của bạn.
Tiếp xúc với tương lai
Bước thứ hai trong phép địa xúc là nhìn xuống các hậu sinh của bạn - con, cháu ruột và cháu họ.
Nếu bạn có khúc mắc với chúng, bạn nên hình dung như sau:
“Tôi không phải là một thực thể cách biệt với con tôi, vì tôi được tiếp nối nơi con cháu tôi.
Chúng mang tôi vào tương lai.
Con trai, con gái và học trò tôi là tôi.”
Trong các bản cáo phó tiếng Anh họ luôn luôn viết: “Ông X đã chết và còn tiếp tục sống trong con trai, con gái” (Mr. X has died and is survived by his sons and daughters).
Ý nghĩa đó là con ông sẽ tiếp tục sống cho ông.
Học trò tôi là tôi và tôi cần sống làm sao để mỗi ngày tôi có thể truyền cho họ con người tốt đẹp nhất của tôi vì họ sẽ mang tôi vào tương lai.
Tôi vẫn nói với học trò tôi rằng họ phải ngắm mặt trời mọc cho tôi và tôi sẽ ngắm mặt trời lặn cho họ bằng những con mắt của họ.
Tôi bất tử nhờ có các môn sinh.
Vì bạn nhìn thấy bạn trong người bạn đường và trong tổ tiên, bạn cũng nhìn thấy bạn trong con cái.
Nhờ có cha mẹ mà bạn có đường đi tới Bụt và tất cả các vị tổ.
Học trò tôi biết con đường đi tới Bụt và các thầy tổ là qua tôi.
Nhờ con cái bạn có lối đi tới tương lai.
Con cần cha để có lối về nguồn, cha cần con để có lối đi vào tương lai và về chốn vô cùng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Đứng trước tảng đá hay đám mây hay cái cây hoặc bông hoa trên bàn thờ, hình dung tất cả các vị tổ có mặt trong bạn.
Điều này không khó vì thực tế bạn chính là họ.
Bạn là tiếp nối của họ.
Xin hãy thực tập với một trăm phần trăm con người của bạn.
Tiếp xúc với tương lai
Bước thứ hai trong phép địa xúc là nhìn xuống các hậu sinh của bạn - con, cháu ruột và cháu họ.
Nếu bạn có khúc mắc với chúng, bạn nên hình dung như sau:
“Tôi không phải là một thực thể cách biệt với con tôi, vì tôi được tiếp nối nơi con cháu tôi.
Chúng mang tôi vào tương lai.
Con trai, con gái và học trò tôi là tôi.”
Trong các bản cáo phó tiếng Anh họ luôn luôn viết: “Ông X đã chết và còn tiếp tục sống trong con trai, con gái” (Mr. X has died and is survived by his sons and daughters).
Ý nghĩa đó là con ông sẽ tiếp tục sống cho ông.
Học trò tôi là tôi và tôi cần sống làm sao để mỗi ngày tôi có thể truyền cho họ con người tốt đẹp nhất của tôi vì họ sẽ mang tôi vào tương lai.
Tôi vẫn nói với học trò tôi rằng họ phải ngắm mặt trời mọc cho tôi và tôi sẽ ngắm mặt trời lặn cho họ bằng những con mắt của họ.
Tôi bất tử nhờ có các môn sinh.
Vì bạn nhìn thấy bạn trong người bạn đường và trong tổ tiên, bạn cũng nhìn thấy bạn trong con cái.
Nhờ có cha mẹ mà bạn có đường đi tới Bụt và tất cả các vị tổ.
Học trò tôi biết con đường đi tới Bụt và các thầy tổ là qua tôi.
Nhờ con cái bạn có lối đi tới tương lai.
Con cần cha để có lối về nguồn, cha cần con để có lối đi vào tương lai và về chốn vô cùng. | Học trò tôi biết con đường đi tới Bụt và các thầy tổ là qua tôi.
Nhờ con cái bạn có lối đi tới tương lai.
Con cần cha để có lối về nguồn, cha cần con để có lối đi vào tương lai và về chốn vô cùng.
Đây là sự thực tập rất cụ thể mà bạn có thể làm một mình hoặc với vài người bạn để hỗ trợ nhau.
Ban đầu cần người nào đó hướng dẫn bạn, nhưng sau bạn có thể tự hướng dẫn mình.
Nếu bạn gặp khó khăn với con trai hay con gái bạn, bạn có khuynh hướng nói rằng: “Mày không phải con gái tao, con tao không cư xử như vậy!...
Mày không phải con trai tao, con trai tao sẽ không bao giờ làm như thế!” Nếu bạn nhìn sâu vào chính bạn, bạn sẽ thấy những hạt giống bất thiện kia cũng có ở trong bạn.
Khi còn trẻ, bạn lầm lỗi và học từ những lỗi lầm đó.
Khi con bạn làm sai, bạn cần giúp chúng hiểu ra để không làm lỗi thêm nữa.
Khi bạn có thể nhìn được các khuyết điểm của mình, bạn có thể nói: “Mình là ai mà không chấp nhận được con mình?” Con trai bạn chính là bạn.
Với phát kiến bất nhị đó, bạn có thể hòa giải với các con bạn.
Thực tập lạy sát đất là con đường đưa tới sự hòa giải.
Chánh định
Chánh định là con đường thứ tám trong Bát Chánh Đạo Bụt đã dạy, tám con đường chính đáng để thực tập.
Có chánh định trên vô ngã, vô thường và tương tức là điều ta có thể chứng nghiệm khi thực tập địa xúc.
Không có chánh định thì không thể giác ngộ.
Nếu bạn có thể nhìn vào bạn, nhìn cha mẹ, con cái trong ánh sáng vô thường, vô ngã và tương tức, thì sự hóa giải sẽ tới một cách tự nhiên. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Học trò tôi biết con đường đi tới Bụt và các thầy tổ là qua tôi.
Nhờ con cái bạn có lối đi tới tương lai.
Con cần cha để có lối về nguồn, cha cần con để có lối đi vào tương lai và về chốn vô cùng.
Đây là sự thực tập rất cụ thể mà bạn có thể làm một mình hoặc với vài người bạn để hỗ trợ nhau.
Ban đầu cần người nào đó hướng dẫn bạn, nhưng sau bạn có thể tự hướng dẫn mình.
Nếu bạn gặp khó khăn với con trai hay con gái bạn, bạn có khuynh hướng nói rằng: “Mày không phải con gái tao, con tao không cư xử như vậy!...
Mày không phải con trai tao, con trai tao sẽ không bao giờ làm như thế!” Nếu bạn nhìn sâu vào chính bạn, bạn sẽ thấy những hạt giống bất thiện kia cũng có ở trong bạn.
Khi còn trẻ, bạn lầm lỗi và học từ những lỗi lầm đó.
Khi con bạn làm sai, bạn cần giúp chúng hiểu ra để không làm lỗi thêm nữa.
Khi bạn có thể nhìn được các khuyết điểm của mình, bạn có thể nói: “Mình là ai mà không chấp nhận được con mình?” Con trai bạn chính là bạn.
Với phát kiến bất nhị đó, bạn có thể hòa giải với các con bạn.
Thực tập lạy sát đất là con đường đưa tới sự hòa giải.
Chánh định
Chánh định là con đường thứ tám trong Bát Chánh Đạo Bụt đã dạy, tám con đường chính đáng để thực tập.
Có chánh định trên vô ngã, vô thường và tương tức là điều ta có thể chứng nghiệm khi thực tập địa xúc.
Không có chánh định thì không thể giác ngộ.
Nếu bạn có thể nhìn vào bạn, nhìn cha mẹ, con cái trong ánh sáng vô thường, vô ngã và tương tức, thì sự hóa giải sẽ tới một cách tự nhiên. | Không có chánh định thì không thể giác ngộ.
Nếu bạn có thể nhìn vào bạn, nhìn cha mẹ, con cái trong ánh sáng vô thường, vô ngã và tương tức, thì sự hóa giải sẽ tới một cách tự nhiên.
Hãy cho bạn thì giờ để thực tập lễ lạy sát đất một hoặc hai lần mỗi ngày.
Bạn có thể dùng các lời khấn sau đây để hướng dẫn phép quán tưởng: “Tiếp xúc với đất, con tiếp xúc với tổ tiên và con cháu của con trong cả hai dòng huyết thống và tâm linh.” Quán tưởng như thế khi bạn đứng trước một nơi nào bạn chọn, rồi lạy xuống sát đất.
Thầy tâm linh của tôi gồm cả Bụt, các vị Bồ tát và các vị môn đệ của Bụt.
Trong đó có cả các vị thầy của tôi đang còn tại thế hay đã qua đời.
Họ đang có mặt trong tôi vì họ đã truyền cho tôi những hạt giống bình an, trí tuệ, yêu thương và hạnh phúc.
Họ đã làm thức dậy trong tôi nguồn tuệ giác và từ bi.
Khi nhìn vào các vị tổ tiên tâm linh, tôi nhìn thấy các vị đã hoàn thành việc tu tập chánh niệm, có trí tuệ và từ bi; tôi cũng nhìn thấy các vị thầy còn khiếm khuyết.
Tôi chấp nhận họ vì trong tôi cũng có những khiếm khuyết và yếu đuối.
Biết rằng sự thực tập tỉnh thức trong tôi không phải lúc nào cũng hoàn hảo, và tôi không phải lúc nào cũng có hiểu biết thương yêu, tôi mở rộng lòng chấp nhận tất cả các con cháu tôi.
Một số con cháu sống cuộc đời khiến tôi tin tưởng và tôn trọng chúng, nhưng cũng có những đứa còn nhiều khó khăn và sự thực tập trồi sụt thất thường.
Tôi mở rộng lòng thương và ôm chúng như nhau.
Cũng vậy, tôi chấp nhận tất cả các vị tổ tiên nội ngoại. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Không có chánh định thì không thể giác ngộ.
Nếu bạn có thể nhìn vào bạn, nhìn cha mẹ, con cái trong ánh sáng vô thường, vô ngã và tương tức, thì sự hóa giải sẽ tới một cách tự nhiên.
Hãy cho bạn thì giờ để thực tập lễ lạy sát đất một hoặc hai lần mỗi ngày.
Bạn có thể dùng các lời khấn sau đây để hướng dẫn phép quán tưởng: “Tiếp xúc với đất, con tiếp xúc với tổ tiên và con cháu của con trong cả hai dòng huyết thống và tâm linh.” Quán tưởng như thế khi bạn đứng trước một nơi nào bạn chọn, rồi lạy xuống sát đất.
Thầy tâm linh của tôi gồm cả Bụt, các vị Bồ tát và các vị môn đệ của Bụt.
Trong đó có cả các vị thầy của tôi đang còn tại thế hay đã qua đời.
Họ đang có mặt trong tôi vì họ đã truyền cho tôi những hạt giống bình an, trí tuệ, yêu thương và hạnh phúc.
Họ đã làm thức dậy trong tôi nguồn tuệ giác và từ bi.
Khi nhìn vào các vị tổ tiên tâm linh, tôi nhìn thấy các vị đã hoàn thành việc tu tập chánh niệm, có trí tuệ và từ bi; tôi cũng nhìn thấy các vị thầy còn khiếm khuyết.
Tôi chấp nhận họ vì trong tôi cũng có những khiếm khuyết và yếu đuối.
Biết rằng sự thực tập tỉnh thức trong tôi không phải lúc nào cũng hoàn hảo, và tôi không phải lúc nào cũng có hiểu biết thương yêu, tôi mở rộng lòng chấp nhận tất cả các con cháu tôi.
Một số con cháu sống cuộc đời khiến tôi tin tưởng và tôn trọng chúng, nhưng cũng có những đứa còn nhiều khó khăn và sự thực tập trồi sụt thất thường.
Tôi mở rộng lòng thương và ôm chúng như nhau.
Cũng vậy, tôi chấp nhận tất cả các vị tổ tiên nội ngoại. | Tôi mở rộng lòng thương và ôm chúng như nhau.
Cũng vậy, tôi chấp nhận tất cả các vị tổ tiên nội ngoại.
Tôi chấp nhận các tính thiện và những hành động tốt họ đã làm, cũng như các khiếm khuyết của họ.
Tôi mở lòng chấp nhận con cháu với các tính thiện, các tài năng cũng như các tính bất thiện trong chúng.
Dù bạn theo truyền thống tâm linh nào chăng nữa, bạn cũng có thể kể các vị thầy bạn trong lời quán nguyện.
Nếu bạn có gốc rễ Thiên chúa giáo, thì thầy tâm linh của bạn gồm cả chúa Jesus, các đồ đệ của Ngài và các vị thánh cùng các vị thầy đã chỉ dạy cho bạn.
Nếu theo Do Thái giáo, bạn cũng có thể gồm các vị thầy tổ trong truyền thống (patriarchs - matriarchs) và các giáo sĩ (rabbis) vào đó.
Các vị tổ tiên tâm linh, tổ tiên huyết thống, các hậu duệ tinh thần và máu mủ của tôi đều là một phần trong tôi.
Tôi là họ và họ là tôi.
Tôi không có một tự tánh riêng biệt.
Chúng ta hiện hữu như một dòng suối của đời sống kỳ diệu.
Thiền quán trong tích môn
Tích môn là bình diện tương đối, nơi có đi có tới, có sống có chết.
Khi chúng ta bắt đầu tiếp xúc với tích môn, chúng ta thường trở nên sợ sệt.
Ta sợ vì ta chưa hiểu rằng sinh tử là chuyện không có thật.
Bụt dạy: “Cái gì sinh thì sẽ diệt.” Nếu có sinh thì sẽ có tử.
Nếu có bên phải thì cũng có bên trái.
Nếu có bắt đầu thì sẽ có chấm dứt.
Đó là cách mọi sự vật hiện bày ra trong tích môn.
Các tăng ni và Phật tử thời Bụt còn tại thế đã thực tập nhận diện sinh tử như những thực tại. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tôi mở rộng lòng thương và ôm chúng như nhau.
Cũng vậy, tôi chấp nhận tất cả các vị tổ tiên nội ngoại.
Tôi chấp nhận các tính thiện và những hành động tốt họ đã làm, cũng như các khiếm khuyết của họ.
Tôi mở lòng chấp nhận con cháu với các tính thiện, các tài năng cũng như các tính bất thiện trong chúng.
Dù bạn theo truyền thống tâm linh nào chăng nữa, bạn cũng có thể kể các vị thầy bạn trong lời quán nguyện.
Nếu bạn có gốc rễ Thiên chúa giáo, thì thầy tâm linh của bạn gồm cả chúa Jesus, các đồ đệ của Ngài và các vị thánh cùng các vị thầy đã chỉ dạy cho bạn.
Nếu theo Do Thái giáo, bạn cũng có thể gồm các vị thầy tổ trong truyền thống (patriarchs - matriarchs) và các giáo sĩ (rabbis) vào đó.
Các vị tổ tiên tâm linh, tổ tiên huyết thống, các hậu duệ tinh thần và máu mủ của tôi đều là một phần trong tôi.
Tôi là họ và họ là tôi.
Tôi không có một tự tánh riêng biệt.
Chúng ta hiện hữu như một dòng suối của đời sống kỳ diệu.
Thiền quán trong tích môn
Tích môn là bình diện tương đối, nơi có đi có tới, có sống có chết.
Khi chúng ta bắt đầu tiếp xúc với tích môn, chúng ta thường trở nên sợ sệt.
Ta sợ vì ta chưa hiểu rằng sinh tử là chuyện không có thật.
Bụt dạy: “Cái gì sinh thì sẽ diệt.” Nếu có sinh thì sẽ có tử.
Nếu có bên phải thì cũng có bên trái.
Nếu có bắt đầu thì sẽ có chấm dứt.
Đó là cách mọi sự vật hiện bày ra trong tích môn.
Các tăng ni và Phật tử thời Bụt còn tại thế đã thực tập nhận diện sinh tử như những thực tại. | Nếu có bắt đầu thì sẽ có chấm dứt.
Đó là cách mọi sự vật hiện bày ra trong tích môn.
Các tăng ni và Phật tử thời Bụt còn tại thế đã thực tập nhận diện sinh tử như những thực tại.
Để đối phó với nỗi sợ hãi trong ta thì thiền quán có thể giúp ta an tâm được một chút.
Khởi đầu ta sẽ thực tập dễ hơn nếu được hướng dẫn.
Hơi thở là phương tiện đưa ta vào định tâm.
Nó hướng ta chú tâm vào đối tượng thiền quán.
Ta bắt đầu bằng cách chú tâm vào hơi thở, để sau này khi muốn quán tưởng, ta có thể hướng dẫn được tâm ý mình.
Ta cố gắng hướng tâm vào sự nhận diện thực tại.
Đây là bài kệ các tu viện Phật giáo tụng hàng ngày: “Thở vào thở ra, tôi có ý thức là bản thân tôi sẽ hoại diệt, tôi sẽ chết.
Bản thân tôi sẽ già, và tôi sẽ bệnh.
Vì tôi có cái thân, tôi không thể thoát được đau ốm.
Tất cả những gì tôi yêu quý và giữ gìn, bám víu hôm nay, tôi sẽ bỏ lại một ngày nào đó.
Điều duy nhất tôi mang theo được là kết quả của các hành động tôi làm, những lời tôi nói và các ý nghĩ trong tôi.”
Chúng ta cần nhận diện sự thực này và mỉm cười.
Đây là phép thực tập đối diện với cái sợ của chính mình.
Nỗi sợ đó luôn luôn hiện diện trong chúng ta: sợ ốm đau, sợ chết, sợ bị người thương bỏ rơi.
Những lo sợ đó rất nhân bản.
Bụt không khuyên chúng ta nên đè nén các lo sợ.
Bụt dạy ta nên mời các nỗi lo sợ đó lên tầng trên tâm thức để nhận diện và mỉm cười với chúng.
Thời Bụt còn tại thế cũng như ngày nay, các tăng ni thực tập hàng ngày như thế. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nếu có bắt đầu thì sẽ có chấm dứt.
Đó là cách mọi sự vật hiện bày ra trong tích môn.
Các tăng ni và Phật tử thời Bụt còn tại thế đã thực tập nhận diện sinh tử như những thực tại.
Để đối phó với nỗi sợ hãi trong ta thì thiền quán có thể giúp ta an tâm được một chút.
Khởi đầu ta sẽ thực tập dễ hơn nếu được hướng dẫn.
Hơi thở là phương tiện đưa ta vào định tâm.
Nó hướng ta chú tâm vào đối tượng thiền quán.
Ta bắt đầu bằng cách chú tâm vào hơi thở, để sau này khi muốn quán tưởng, ta có thể hướng dẫn được tâm ý mình.
Ta cố gắng hướng tâm vào sự nhận diện thực tại.
Đây là bài kệ các tu viện Phật giáo tụng hàng ngày: “Thở vào thở ra, tôi có ý thức là bản thân tôi sẽ hoại diệt, tôi sẽ chết.
Bản thân tôi sẽ già, và tôi sẽ bệnh.
Vì tôi có cái thân, tôi không thể thoát được đau ốm.
Tất cả những gì tôi yêu quý và giữ gìn, bám víu hôm nay, tôi sẽ bỏ lại một ngày nào đó.
Điều duy nhất tôi mang theo được là kết quả của các hành động tôi làm, những lời tôi nói và các ý nghĩ trong tôi.”
Chúng ta cần nhận diện sự thực này và mỉm cười.
Đây là phép thực tập đối diện với cái sợ của chính mình.
Nỗi sợ đó luôn luôn hiện diện trong chúng ta: sợ ốm đau, sợ chết, sợ bị người thương bỏ rơi.
Những lo sợ đó rất nhân bản.
Bụt không khuyên chúng ta nên đè nén các lo sợ.
Bụt dạy ta nên mời các nỗi lo sợ đó lên tầng trên tâm thức để nhận diện và mỉm cười với chúng.
Thời Bụt còn tại thế cũng như ngày nay, các tăng ni thực tập hàng ngày như thế. | Bụt dạy ta nên mời các nỗi lo sợ đó lên tầng trên tâm thức để nhận diện và mỉm cười với chúng.
Thời Bụt còn tại thế cũng như ngày nay, các tăng ni thực tập hàng ngày như thế.
Mỗi khi cái sợ nổi lên, bạn lại nhận diện và mỉm cười với nó, cái lo sợ sẽ mất đi một phần sức mạnh của nó.
Khi nó trở lại tiềm thức ta, nó trở thành một hạt giống nhỏ hơn trước.
Vì vậy, ta cần thực tập mỗi ngày, nhất là khi thân tâm bạn còn khỏe mạnh.
Khi bạn thực tập, tâm trí bạn có thể vẫn chạy theo nhiều ý nghĩ.
Nhưng hãy trở về với hơi thở vào, ra.
Thở vào biết, thở ra biết; không cần phải kéo dài hơi thở thêm.
Bạn không cần thay đổi gì cả, cứ để cho hơi thở ra vào tự nhiên, chỉ có ý thức về hơi thở của mình thôi.
Thực tập như thế bạn sẽ được an tịnh.
Khi bạn thấy an tịnh đủ rồi, hãy dùng các lời hướng dẫn dưới đây để tập trung.
Lần đầu, bạn hãy nghe hay đọc nguyên cả câu.
Khi tiếp tục quán, bạn chỉ cần nhớ vài chữ quan trọng.
Bạn không cần phải cố gắng quá.
Hãy thư giãn và để cho hơi thở cùng các chữ đó giúp bạn.
Bài thực tập để nhìn sâu và hết sợ
Thở vào, tôi có ý thức là tôi đang thở vào / Vào
Thở ra, tôi có ý thức là tôi đang thở ra / Ra
Thở vào, tôi biết tôi sẽ già / Già
Thở ra, tôi biết không thể thoát được tuổi già / Không thoát
Thở vào, tôi biết tôi sẽ bệnh / Bệnh
Thở ra, tôi biết không thể thoát được bệnh / Không thoát
Thở vào, tôi biết tôi sẽ chết / Chết
Thở ra, tôi biết không thể thoát chết / Không thoát
Thở vào, tôi biết một ngày kia tôi sẽ bỏ lại tất cả những gì tôi trân quý / Bỏ hết |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bụt dạy ta nên mời các nỗi lo sợ đó lên tầng trên tâm thức để nhận diện và mỉm cười với chúng.
Thời Bụt còn tại thế cũng như ngày nay, các tăng ni thực tập hàng ngày như thế.
Mỗi khi cái sợ nổi lên, bạn lại nhận diện và mỉm cười với nó, cái lo sợ sẽ mất đi một phần sức mạnh của nó.
Khi nó trở lại tiềm thức ta, nó trở thành một hạt giống nhỏ hơn trước.
Vì vậy, ta cần thực tập mỗi ngày, nhất là khi thân tâm bạn còn khỏe mạnh.
Khi bạn thực tập, tâm trí bạn có thể vẫn chạy theo nhiều ý nghĩ.
Nhưng hãy trở về với hơi thở vào, ra.
Thở vào biết, thở ra biết; không cần phải kéo dài hơi thở thêm.
Bạn không cần thay đổi gì cả, cứ để cho hơi thở ra vào tự nhiên, chỉ có ý thức về hơi thở của mình thôi.
Thực tập như thế bạn sẽ được an tịnh.
Khi bạn thấy an tịnh đủ rồi, hãy dùng các lời hướng dẫn dưới đây để tập trung.
Lần đầu, bạn hãy nghe hay đọc nguyên cả câu.
Khi tiếp tục quán, bạn chỉ cần nhớ vài chữ quan trọng.
Bạn không cần phải cố gắng quá.
Hãy thư giãn và để cho hơi thở cùng các chữ đó giúp bạn.
Bài thực tập để nhìn sâu và hết sợ
Thở vào, tôi có ý thức là tôi đang thở vào / Vào
Thở ra, tôi có ý thức là tôi đang thở ra / Ra
Thở vào, tôi biết tôi sẽ già / Già
Thở ra, tôi biết không thể thoát được tuổi già / Không thoát
Thở vào, tôi biết tôi sẽ bệnh / Bệnh
Thở ra, tôi biết không thể thoát được bệnh / Không thoát
Thở vào, tôi biết tôi sẽ chết / Chết
Thở ra, tôi biết không thể thoát chết / Không thoát
Thở vào, tôi biết một ngày kia tôi sẽ bỏ lại tất cả những gì tôi trân quý / Bỏ hết | Thở vào, tôi biết tôi sẽ chết / Chết
Thở ra, tôi biết không thể thoát chết / Không thoát
Thở vào, tôi biết một ngày kia tôi sẽ bỏ lại tất cả những gì tôi trân quý / Bỏ hết
Thở ra, tôi biết không thể giữ được những gì tôi trân quý / Không giữ
Thở vào, tôi biết ba nghiệp thân khẩu ý là hành trang duy nhất tôi sẽ mang theo / Ba nghiệp mang theo
Thở ra, tôi biết không thể thoát được hậu quả của nghiệp đã làm / Không thoát được quả báo
Thở vào, tôi quyết tâm sẽ sống trong tỉnh thức / Sống tỉnh thức
Thở ra, tôi thấy niềm vui và hữu ích trong lối sống tỉnh thức / Vui và hữu ích
Thở vào, tôi nguyện mỗi ngày tặng niềm vui cho người thương / Tặng niềm vui
Thở ra, tôi nguyện mỗi ngày làm vơi bớt nỗi khổ cho người thương / Làm vơi khổ
Chấp nhận, tha thứ và đối diện với cái sợ là những kết quả sâu sắc nhất của việc tiếp xúc với đất ở bình diện tích môn.
Dùng hơi thở theo phép đó, bạn có thể chữa lành các vết thương.
Và bạn có thể học phép địa xúc thứ hai.
Tiếp xúc với đất qua không gian
Trong phép địa xúc thứ nhất, bạn hình dung bạn đứng trên trục dọc của thời gian.
Bây giờ bạn hình dung trục ngang, tượng trưng cho không gian.
Đường ngang tượng trưng cho không gian đó cắt ngang đường dọc tượng trưng cho thời gian trong bình diện tích môn.
Trong không gian chúng ta nhìn thấy các sinh vật khác trên trái đất: đàn ông, đàn bà, trẻ em, người già, súc vật và tất cả các loài, cây cối, đất đá.
Khi nhìn một cái cây ta có thể nghĩ rằng nó ở ngoài ta. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thở vào, tôi biết tôi sẽ chết / Chết
Thở ra, tôi biết không thể thoát chết / Không thoát
Thở vào, tôi biết một ngày kia tôi sẽ bỏ lại tất cả những gì tôi trân quý / Bỏ hết
Thở ra, tôi biết không thể giữ được những gì tôi trân quý / Không giữ
Thở vào, tôi biết ba nghiệp thân khẩu ý là hành trang duy nhất tôi sẽ mang theo / Ba nghiệp mang theo
Thở ra, tôi biết không thể thoát được hậu quả của nghiệp đã làm / Không thoát được quả báo
Thở vào, tôi quyết tâm sẽ sống trong tỉnh thức / Sống tỉnh thức
Thở ra, tôi thấy niềm vui và hữu ích trong lối sống tỉnh thức / Vui và hữu ích
Thở vào, tôi nguyện mỗi ngày tặng niềm vui cho người thương / Tặng niềm vui
Thở ra, tôi nguyện mỗi ngày làm vơi bớt nỗi khổ cho người thương / Làm vơi khổ
Chấp nhận, tha thứ và đối diện với cái sợ là những kết quả sâu sắc nhất của việc tiếp xúc với đất ở bình diện tích môn.
Dùng hơi thở theo phép đó, bạn có thể chữa lành các vết thương.
Và bạn có thể học phép địa xúc thứ hai.
Tiếp xúc với đất qua không gian
Trong phép địa xúc thứ nhất, bạn hình dung bạn đứng trên trục dọc của thời gian.
Bây giờ bạn hình dung trục ngang, tượng trưng cho không gian.
Đường ngang tượng trưng cho không gian đó cắt ngang đường dọc tượng trưng cho thời gian trong bình diện tích môn.
Trong không gian chúng ta nhìn thấy các sinh vật khác trên trái đất: đàn ông, đàn bà, trẻ em, người già, súc vật và tất cả các loài, cây cối, đất đá.
Khi nhìn một cái cây ta có thể nghĩ rằng nó ở ngoài ta. | Khi nhìn một cái cây ta có thể nghĩ rằng nó ở ngoài ta.
Nhưng khi nhìn kỹ hơn ta sẽ thấy cây đó cũng có trong ta nữa.
Cây cối là phổi của bạn vì nếu không có cây cối thì bạn không thở được.
Cây cối tạo ra dưỡng khí, nay đang là một phần trong thân tôi, và tôi tạo ra thán khí, nay đang là một phần trong cây.
Chúng ta có hai lá phổi trong cơ thể, cây cũng thở cho ta và cũng có thể gọi cây là phổi của ta.
Phổi trong thân chúng ta làm việc cùng với cây cối để giúp chúng ta hô hấp.
Chuyện tiền thân của Bụt kể những cuộc đời trước khi Ngài đắc đạo.
Trong các truyện đó ta được biết Bụt đã từng là cây cối, là chim chóc, con rùa, hòn đá, đám mây, trước khi Ngài là người.
Chúng ta cũng thế, trước khi biểu hiện làm người, chúng ta đã là cây, là một vi khuẩn có một tế bào thôi, hay là những con vật lớn xác, là đám mây, là cánh rừng hay hòn đá tảng.
Với ánh sáng của khoa học tiến hóa thì không có gì khó hiểu.
Vật chất không từng được sinh ra cũng như không hề bị hoại diệt.
Nó có thể biến thành năng lượng, và năng lượng có thể trở thành vật chất, nhưng nó không hề bị hủy diệt.
Chúng ta đã luôn luôn là một phần tử của sự vật gì đó, và bất cứ sự vật gì cũng đã từng có trong ta.
Tất cả chúng ta đã từng là cây cối.
là bông hồng hay là súc vật.
Chúng ta vẫn là cây trong giờ phút này.
Nhìn mình cho sâu, bạn sẽ thấy cây, đám mây, hoa hồng và chú sóc trong bạn.
Bạn không thể nào lấy hết chúng ra ngoài được.
Bạn không thể lấy đám mây ra vì 70% cơ thể bạn làm bằng nước. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Khi nhìn một cái cây ta có thể nghĩ rằng nó ở ngoài ta.
Nhưng khi nhìn kỹ hơn ta sẽ thấy cây đó cũng có trong ta nữa.
Cây cối là phổi của bạn vì nếu không có cây cối thì bạn không thở được.
Cây cối tạo ra dưỡng khí, nay đang là một phần trong thân tôi, và tôi tạo ra thán khí, nay đang là một phần trong cây.
Chúng ta có hai lá phổi trong cơ thể, cây cũng thở cho ta và cũng có thể gọi cây là phổi của ta.
Phổi trong thân chúng ta làm việc cùng với cây cối để giúp chúng ta hô hấp.
Chuyện tiền thân của Bụt kể những cuộc đời trước khi Ngài đắc đạo.
Trong các truyện đó ta được biết Bụt đã từng là cây cối, là chim chóc, con rùa, hòn đá, đám mây, trước khi Ngài là người.
Chúng ta cũng thế, trước khi biểu hiện làm người, chúng ta đã là cây, là một vi khuẩn có một tế bào thôi, hay là những con vật lớn xác, là đám mây, là cánh rừng hay hòn đá tảng.
Với ánh sáng của khoa học tiến hóa thì không có gì khó hiểu.
Vật chất không từng được sinh ra cũng như không hề bị hoại diệt.
Nó có thể biến thành năng lượng, và năng lượng có thể trở thành vật chất, nhưng nó không hề bị hủy diệt.
Chúng ta đã luôn luôn là một phần tử của sự vật gì đó, và bất cứ sự vật gì cũng đã từng có trong ta.
Tất cả chúng ta đã từng là cây cối.
là bông hồng hay là súc vật.
Chúng ta vẫn là cây trong giờ phút này.
Nhìn mình cho sâu, bạn sẽ thấy cây, đám mây, hoa hồng và chú sóc trong bạn.
Bạn không thể nào lấy hết chúng ra ngoài được.
Bạn không thể lấy đám mây ra vì 70% cơ thể bạn làm bằng nước. | Nhìn mình cho sâu, bạn sẽ thấy cây, đám mây, hoa hồng và chú sóc trong bạn.
Bạn không thể nào lấy hết chúng ra ngoài được.
Bạn không thể lấy đám mây ra vì 70% cơ thể bạn làm bằng nước.
Tiếp nối của mây chính là mưa.
Tiếp nối của mưa là sông.
Tiếp nối của sông là nước bạn uống để sống.
Nếu bạn lấy dạng tiếp nối của mây ra khỏi bạn thì bạn không thể tiếp tục sống được.
Thiên thần ở mọi nơi
Nhìn sâu vào không gian ta cũng sẽ nhìn thấy tất cả các vị đã giác ngộ.
Các hiền nhân, các vị Bồ tát.
Hãy nhìn kỹ, bạn sẽ thấy các Bồ tát ở bất cứ đâu.
Bạn sẽ nhận ra những con người cả nam lẫn nữ, có lòng từ bi, đang làm mọi chuyện để giúp đỡ hay bảo vệ loài người.
Tại Làng Mai chúng tôi thực tập niệm tên Bồ tát Quan Âm, vị Bồ tát biết lắng nghe; Bồ tát Phổ Hiền của hành động; Bồ tát Văn Thù của hiểu biết; và Bồ tát Địa Tạng luôn luôn đi tới những nơi tăm tối khổ đau tràn đầy để giúp các chúng sinh.
Có những Bồ tát mà chúng ta biết tới vì các chuyện về họ được truyền tới chúng ta.
Cũng có vô số các vị Bồ tát vô danh tại mọi nơi đang làm các việc thể hiện lòng yêu thương, từ bi và trách nhiệm của họ đối với nhân loại.
Trái tim của quý vị đó tràn đầy tình thương và họ không muốn sống cuộc đời tiêu thụ.
Họ ưa sống đơn giản để có thì giờ và năng lực giúp người khác.
Tôi biết một người sống ở Hòa Lan.
Trong thế chiến thứ hai bà đã giúp hàng hai mươi ngàn người Do Thái tránh thoát được nạn diệt chủng Holocaust.
Tôi không biết bà làm cách nào. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhìn mình cho sâu, bạn sẽ thấy cây, đám mây, hoa hồng và chú sóc trong bạn.
Bạn không thể nào lấy hết chúng ra ngoài được.
Bạn không thể lấy đám mây ra vì 70% cơ thể bạn làm bằng nước.
Tiếp nối của mây chính là mưa.
Tiếp nối của mưa là sông.
Tiếp nối của sông là nước bạn uống để sống.
Nếu bạn lấy dạng tiếp nối của mây ra khỏi bạn thì bạn không thể tiếp tục sống được.
Thiên thần ở mọi nơi
Nhìn sâu vào không gian ta cũng sẽ nhìn thấy tất cả các vị đã giác ngộ.
Các hiền nhân, các vị Bồ tát.
Hãy nhìn kỹ, bạn sẽ thấy các Bồ tát ở bất cứ đâu.
Bạn sẽ nhận ra những con người cả nam lẫn nữ, có lòng từ bi, đang làm mọi chuyện để giúp đỡ hay bảo vệ loài người.
Tại Làng Mai chúng tôi thực tập niệm tên Bồ tát Quan Âm, vị Bồ tát biết lắng nghe; Bồ tát Phổ Hiền của hành động; Bồ tát Văn Thù của hiểu biết; và Bồ tát Địa Tạng luôn luôn đi tới những nơi tăm tối khổ đau tràn đầy để giúp các chúng sinh.
Có những Bồ tát mà chúng ta biết tới vì các chuyện về họ được truyền tới chúng ta.
Cũng có vô số các vị Bồ tát vô danh tại mọi nơi đang làm các việc thể hiện lòng yêu thương, từ bi và trách nhiệm của họ đối với nhân loại.
Trái tim của quý vị đó tràn đầy tình thương và họ không muốn sống cuộc đời tiêu thụ.
Họ ưa sống đơn giản để có thì giờ và năng lực giúp người khác.
Tôi biết một người sống ở Hòa Lan.
Trong thế chiến thứ hai bà đã giúp hàng hai mươi ngàn người Do Thái tránh thoát được nạn diệt chủng Holocaust.
Tôi không biết bà làm cách nào. | Tôi biết một người sống ở Hòa Lan.
Trong thế chiến thứ hai bà đã giúp hàng hai mươi ngàn người Do Thái tránh thoát được nạn diệt chủng Holocaust.
Tôi không biết bà làm cách nào.
Nhìn vào bà, bạn chỉ thấy một người phụ nữ rất nhỏ bé, và cũng chỉ có hai bàn tay.
Tôi đã gặp bà và làm việc chung khi bà giúp đỡ trẻ mồ côi Việt Nam.
Có những Bồ tát hình như ít hoạt động nhưng họ rất bình thản và tử tế, sự hiện diện của họ khiến chúng ta trở nên hiểu biết, thương yêu và bao dung hơn.
Có không biết bao nhiêu Bồ tát như thế trên thế giới.
Chúng ta phải sống cách nào để có thì giờ nhận biết và tiếp xúc được với họ.
Bồ tát không phải là thượng đế hay các nhân vật của thời xa xưa.
Họ là những con người bằng xương bằng thịt chung quanh ta.
Họ có rất nhiều năng lượng hiểu biết và thương yêu, và chúng ta sẽ được hưởng khi tới gần họ.
Không thể nhận diện các hiền nhân và Bồ tát bằng bề ngoài.
Đôi khi họ là các em bé mang lại cho ta rất nhiều niềm vui.
Con cái và bạn bè chúng ta cũng có thể là Bồ tát.
Đôi khi họ làm cho ta đau khổ, nhưng họ cũng giúp cho tình thương và sự hiểu biết của ta lớn lên.
Bồ tát không bao giờ mệt mỏi hay bỏ cuộc vì các đau khổ chung quanh họ.
Đó là những vị cho ta can đảm để sống.
Đức Địa Tạng luôn luôn tới những nơi tăm tối nhất để giúp chúng sinh không phải chỉ là một vị.
Ngài thị hiện ra bao nhiêu thân khác nhau, ta có thể tìm được Ngài ngay trong thế giới này.
Bồ tát Thường Bất Khinh nói rằng: “Tôi không bao giờ dám coi thường ai.” Ngài cũng có mặt mọi nơi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tôi biết một người sống ở Hòa Lan.
Trong thế chiến thứ hai bà đã giúp hàng hai mươi ngàn người Do Thái tránh thoát được nạn diệt chủng Holocaust.
Tôi không biết bà làm cách nào.
Nhìn vào bà, bạn chỉ thấy một người phụ nữ rất nhỏ bé, và cũng chỉ có hai bàn tay.
Tôi đã gặp bà và làm việc chung khi bà giúp đỡ trẻ mồ côi Việt Nam.
Có những Bồ tát hình như ít hoạt động nhưng họ rất bình thản và tử tế, sự hiện diện của họ khiến chúng ta trở nên hiểu biết, thương yêu và bao dung hơn.
Có không biết bao nhiêu Bồ tát như thế trên thế giới.
Chúng ta phải sống cách nào để có thì giờ nhận biết và tiếp xúc được với họ.
Bồ tát không phải là thượng đế hay các nhân vật của thời xa xưa.
Họ là những con người bằng xương bằng thịt chung quanh ta.
Họ có rất nhiều năng lượng hiểu biết và thương yêu, và chúng ta sẽ được hưởng khi tới gần họ.
Không thể nhận diện các hiền nhân và Bồ tát bằng bề ngoài.
Đôi khi họ là các em bé mang lại cho ta rất nhiều niềm vui.
Con cái và bạn bè chúng ta cũng có thể là Bồ tát.
Đôi khi họ làm cho ta đau khổ, nhưng họ cũng giúp cho tình thương và sự hiểu biết của ta lớn lên.
Bồ tát không bao giờ mệt mỏi hay bỏ cuộc vì các đau khổ chung quanh họ.
Đó là những vị cho ta can đảm để sống.
Đức Địa Tạng luôn luôn tới những nơi tăm tối nhất để giúp chúng sinh không phải chỉ là một vị.
Ngài thị hiện ra bao nhiêu thân khác nhau, ta có thể tìm được Ngài ngay trong thế giới này.
Bồ tát Thường Bất Khinh nói rằng: “Tôi không bao giờ dám coi thường ai.” Ngài cũng có mặt mọi nơi. | Ngài thị hiện ra bao nhiêu thân khác nhau, ta có thể tìm được Ngài ngay trong thế giới này.
Bồ tát Thường Bất Khinh nói rằng: “Tôi không bao giờ dám coi thường ai.” Ngài cũng có mặt mọi nơi.
Đối với bất cứ người nào, Bồ tát cũng nghĩ rằng họ có khả năng tỉnh thức.
Ngài giúp cho ta có tự tin và dẹp được mặc cảm yếu kém.
Đó là loại mặc cảm làm tê liệt con người.
Bồ tát Thường Bất Khinh có khả năng tiếp xúc và đánh thức được các hạt giống tỉnh thức và yêu thương nơi chúng ta.
Đó không chỉ là Bồ tát trong kinh Pháp Hoa mà ta còn có thể tìm được Ngài ngay trong xã hội này dưới nhiều hình tướng khác nhau.
Ta phải nhận diện cho được Bồ tát Thường Bất Khinh bằng xương bằng thịt chung quanh ta.
Bồ tát Văn Thù là vị Bồ tát trí tuệ.
Người nào hiểu mình đều có thể làm cho chúng ta vô cùng sung sướng.
Đức Văn Thù có thể nhìn thấy những khó khăn, đau khổ của ta và Ngài không bao giờ bắt lỗi hay trừng phạt ta.
Ngài luôn có mặt bên ta để khuyến khích và soi đường cho ta.
Văn Thù không phải là một nhân vật huyền thoại mà Ngài có mặt quanh ta dưới nhiều hình thức, đôi khi đó là một người anh, chị, em, hay cháu.
Chúng ta không thờ phượng những nhân vật thần thoại.
Các vị Bồ tát không phải là những khuôn mặt của quá khứ, sống trên mây cao.
Đó là những con người thật, tràn đầy tình thương và quyết tâm.
Khi chúng ta có thể hiểu được nỗi đau của người khác và thương họ, là chúng ta tiếp xúc được với Bồ tát đại trí.
Bồ tát Quan Âm biết lắng nghe cũng ở quanh ta. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ngài thị hiện ra bao nhiêu thân khác nhau, ta có thể tìm được Ngài ngay trong thế giới này.
Bồ tát Thường Bất Khinh nói rằng: “Tôi không bao giờ dám coi thường ai.” Ngài cũng có mặt mọi nơi.
Đối với bất cứ người nào, Bồ tát cũng nghĩ rằng họ có khả năng tỉnh thức.
Ngài giúp cho ta có tự tin và dẹp được mặc cảm yếu kém.
Đó là loại mặc cảm làm tê liệt con người.
Bồ tát Thường Bất Khinh có khả năng tiếp xúc và đánh thức được các hạt giống tỉnh thức và yêu thương nơi chúng ta.
Đó không chỉ là Bồ tát trong kinh Pháp Hoa mà ta còn có thể tìm được Ngài ngay trong xã hội này dưới nhiều hình tướng khác nhau.
Ta phải nhận diện cho được Bồ tát Thường Bất Khinh bằng xương bằng thịt chung quanh ta.
Bồ tát Văn Thù là vị Bồ tát trí tuệ.
Người nào hiểu mình đều có thể làm cho chúng ta vô cùng sung sướng.
Đức Văn Thù có thể nhìn thấy những khó khăn, đau khổ của ta và Ngài không bao giờ bắt lỗi hay trừng phạt ta.
Ngài luôn có mặt bên ta để khuyến khích và soi đường cho ta.
Văn Thù không phải là một nhân vật huyền thoại mà Ngài có mặt quanh ta dưới nhiều hình thức, đôi khi đó là một người anh, chị, em, hay cháu.
Chúng ta không thờ phượng những nhân vật thần thoại.
Các vị Bồ tát không phải là những khuôn mặt của quá khứ, sống trên mây cao.
Đó là những con người thật, tràn đầy tình thương và quyết tâm.
Khi chúng ta có thể hiểu được nỗi đau của người khác và thương họ, là chúng ta tiếp xúc được với Bồ tát đại trí.
Bồ tát Quan Âm biết lắng nghe cũng ở quanh ta. | Khi chúng ta có thể hiểu được nỗi đau của người khác và thương họ, là chúng ta tiếp xúc được với Bồ tát đại trí.
Bồ tát Quan Âm biết lắng nghe cũng ở quanh ta.
Các nhà trị liệu tâm lý phải học cách lắng nghe của Bồ tát Quan Âm, vị Bồ tát biết hiểu sâu bằng đôi tai của Ngài.
Khi chúng ta có thể lắng nghe con cái hay cha mẹ ta, đức Quan Âm đã có mặt trong lòng ta rồi.
Bồ tát Diệu Âm có thể dùng âm nhạc và bài hát để thức tỉnh mọi người.
Nếu bạn là thi sĩ, văn sĩ hay nhạc sĩ, bạn có thể là vị Bồ tát đó.
Các sáng tạo nghệ thuật của bạn không chỉ giúp cho người ta tạm thời quên đi những đau khổ, mà còn tưới tẩm được những hạt giống của hiểu biết và yêu thương.
Giữa chúng ta có nhiều văn thi sĩ và nhạc sĩ đang dùng biển âm thanh để làm con đường hiểu và thương như một cánh cửa mở vào Phật pháp.
Đó là ý nghĩa của nguyện vọng mà đức Phổ Hiền đã diễn tả:
“Tôi mong dùng biển âm thanh
Để nói lên những từ ngữ tuyệt vời
Ngợi ca biển đức của Thế Tôn
Trong quá khứ, hiện tại và tương lai.”
Khi lạy xuống sát đất, bạn tiếp xúc với những vị hiền nhân vì họ là một phần của đất và một phần của bạn.
Sống trong thế giới ngày nay, bạn rất dễ trở thành một nạn nhân của tuyệt vọng.
Bạn cần phải tự bảo vệ.
Cách hay nhất là bạn tiếp xúc với các vị Bồ tát có hành động từ bi và thương yêu.
Chúng ta cần tiếp xúc với chư Bụt và Bồ tát hiện tại, ngay tại đây, chứ không chỉ thắp nhang và cầu nguyện họ mà thôi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Khi chúng ta có thể hiểu được nỗi đau của người khác và thương họ, là chúng ta tiếp xúc được với Bồ tát đại trí.
Bồ tát Quan Âm biết lắng nghe cũng ở quanh ta.
Các nhà trị liệu tâm lý phải học cách lắng nghe của Bồ tát Quan Âm, vị Bồ tát biết hiểu sâu bằng đôi tai của Ngài.
Khi chúng ta có thể lắng nghe con cái hay cha mẹ ta, đức Quan Âm đã có mặt trong lòng ta rồi.
Bồ tát Diệu Âm có thể dùng âm nhạc và bài hát để thức tỉnh mọi người.
Nếu bạn là thi sĩ, văn sĩ hay nhạc sĩ, bạn có thể là vị Bồ tát đó.
Các sáng tạo nghệ thuật của bạn không chỉ giúp cho người ta tạm thời quên đi những đau khổ, mà còn tưới tẩm được những hạt giống của hiểu biết và yêu thương.
Giữa chúng ta có nhiều văn thi sĩ và nhạc sĩ đang dùng biển âm thanh để làm con đường hiểu và thương như một cánh cửa mở vào Phật pháp.
Đó là ý nghĩa của nguyện vọng mà đức Phổ Hiền đã diễn tả:
“Tôi mong dùng biển âm thanh
Để nói lên những từ ngữ tuyệt vời
Ngợi ca biển đức của Thế Tôn
Trong quá khứ, hiện tại và tương lai.”
Khi lạy xuống sát đất, bạn tiếp xúc với những vị hiền nhân vì họ là một phần của đất và một phần của bạn.
Sống trong thế giới ngày nay, bạn rất dễ trở thành một nạn nhân của tuyệt vọng.
Bạn cần phải tự bảo vệ.
Cách hay nhất là bạn tiếp xúc với các vị Bồ tát có hành động từ bi và thương yêu.
Chúng ta cần tiếp xúc với chư Bụt và Bồ tát hiện tại, ngay tại đây, chứ không chỉ thắp nhang và cầu nguyện họ mà thôi. | Cách hay nhất là bạn tiếp xúc với các vị Bồ tát có hành động từ bi và thương yêu.
Chúng ta cần tiếp xúc với chư Bụt và Bồ tát hiện tại, ngay tại đây, chứ không chỉ thắp nhang và cầu nguyện họ mà thôi.
Khi ta thực sự tiếp xúc được với các vị đó, ta sẽ có nhiều năng lượng vì ta thấy họ có mặt trong ta, và ta là tiếp nối của họ, trong thời gian và trong cả không gian.
Ta là một cánh tay của Bồ tát.
Cánh tay ta có thể vươn ra rất xa, hàng ngàn dặm.
Cánh tay ta có thể vươn tới những chốn tối tăm nhất trên trái đất.
Chúng ta có bằng hữu khắp nơi, đó là những cánh tay của ta, và ta cũng là cánh tay của họ.
Kinh Bát Đại Nhân Giác nói rằng: “Sự nghiệp duy nhất của Bồ tát là trí tuệ.” Các sự nghiệp khác đều không đáng theo đuổi.
Không có danh vọng nào bằng dược tuệ giác ta đạt tới khi ta thực tập dừng lại và nhìn sâu vào bản chất của sự vật.
Khi nhờ hiểu biết mà ta không còn giận dữ, đó là ta đã có hạt giống trí tuệ rồi.
Hãy sống cách nào để cho các vị Bồ tát có thể biểu hiện ra trong ta được.
Hãy nói năng và hành xử như một Bồ tát ngay bây giờ.
Đừng nghĩ rằng bạn sẽ là Bồ tát sau này.
Vào buổi tối nay, hãy niệm danh hiệu các Bồ tát đại trí, đại bi, đại hạnh và đại nguyện.
Tiếp xúc với các nguyện lớn của chư vị Bồ tát sẽ cho chúng ta năng lượng rất mạnh mà ta cần để có thể ôm lấy những con người đau khổ trên thế gian.
Trở thành hải tặc
Tiếp xúc với đất, chúng ta tiếp xúc được các vị Bồ tát và đồng thời cũng tiếp xúc được với tất cả những người đau khổ.
Ta phải tiếp xúc với cả hai phía. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cách hay nhất là bạn tiếp xúc với các vị Bồ tát có hành động từ bi và thương yêu.
Chúng ta cần tiếp xúc với chư Bụt và Bồ tát hiện tại, ngay tại đây, chứ không chỉ thắp nhang và cầu nguyện họ mà thôi.
Khi ta thực sự tiếp xúc được với các vị đó, ta sẽ có nhiều năng lượng vì ta thấy họ có mặt trong ta, và ta là tiếp nối của họ, trong thời gian và trong cả không gian.
Ta là một cánh tay của Bồ tát.
Cánh tay ta có thể vươn ra rất xa, hàng ngàn dặm.
Cánh tay ta có thể vươn tới những chốn tối tăm nhất trên trái đất.
Chúng ta có bằng hữu khắp nơi, đó là những cánh tay của ta, và ta cũng là cánh tay của họ.
Kinh Bát Đại Nhân Giác nói rằng: “Sự nghiệp duy nhất của Bồ tát là trí tuệ.” Các sự nghiệp khác đều không đáng theo đuổi.
Không có danh vọng nào bằng dược tuệ giác ta đạt tới khi ta thực tập dừng lại và nhìn sâu vào bản chất của sự vật.
Khi nhờ hiểu biết mà ta không còn giận dữ, đó là ta đã có hạt giống trí tuệ rồi.
Hãy sống cách nào để cho các vị Bồ tát có thể biểu hiện ra trong ta được.
Hãy nói năng và hành xử như một Bồ tát ngay bây giờ.
Đừng nghĩ rằng bạn sẽ là Bồ tát sau này.
Vào buổi tối nay, hãy niệm danh hiệu các Bồ tát đại trí, đại bi, đại hạnh và đại nguyện.
Tiếp xúc với các nguyện lớn của chư vị Bồ tát sẽ cho chúng ta năng lượng rất mạnh mà ta cần để có thể ôm lấy những con người đau khổ trên thế gian.
Trở thành hải tặc
Tiếp xúc với đất, chúng ta tiếp xúc được các vị Bồ tát và đồng thời cũng tiếp xúc được với tất cả những người đau khổ.
Ta phải tiếp xúc với cả hai phía. | Trở thành hải tặc
Tiếp xúc với đất, chúng ta tiếp xúc được các vị Bồ tát và đồng thời cũng tiếp xúc được với tất cả những người đau khổ.
Ta phải tiếp xúc với cả hai phía.
Chúng ta cần nhớ rằng có những con người đang bị kẹt vào những khổ đau lớn như chiến tranh, đàn áp và bất công.
Họ không có cách nào nói lên được những khổ đau và bất công mà họ phải gánh chịu.
Có những hải tặc hãm hiếp các thiếu nữ.
Có những thương gia giàu có bán khí giới cho các nước nghèo, trong khi trẻ xứ đó không có thức ăn và không có trường để học.
Có những chủ hãng dùng sức lao động của trẻ em.
Có những người chết trong tù ngục và trại cải tạo.
Trong trại cùi, có những trẻ em người lớn cụt hết cả chân tay, mù chữ và không có chút hy vọng nào!
Các địa ngục đó cần Bồ tát vô cùng.
Khi chúng ta đứng trước ngọn núi hay bông hoa và quán tưởng trước khi lạy xuống lần thứ hai, ta thấy ta không chỉ là Bồ tát mà còn là nạn nhân của các áp bức, kỳ thị và bất công nữa.
Với năng lượng của Bồ tát, ta ôm lấy các nạn nhân khắp nơi.
Ta là hải tặc đã hãm hại em bé gái, và ta cũng là em bé gái bị hãm hiếp.
Vì chúng ta không có tự tánh riêng biệt, tất cả chúng ta đều có tương quan và ta cũng là tất cả mọi người.
Lối sống của ta có ảnh hưởng trên mọi chuyện.
Vậy chúng ta nên suy nghĩ.
Chúng ta đã sống ra sao nên thanh niên Thái Lan kia mới trở thành kẻ hiếp dâm?
Chúng ta chỉ biết quan tâm tới các nhu cầu vật chất của mình thôi.
Gia đình của anh chàng kia bị kẹt vào cảnh nghèo khổ trong nhiều thế hệ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Trở thành hải tặc
Tiếp xúc với đất, chúng ta tiếp xúc được các vị Bồ tát và đồng thời cũng tiếp xúc được với tất cả những người đau khổ.
Ta phải tiếp xúc với cả hai phía.
Chúng ta cần nhớ rằng có những con người đang bị kẹt vào những khổ đau lớn như chiến tranh, đàn áp và bất công.
Họ không có cách nào nói lên được những khổ đau và bất công mà họ phải gánh chịu.
Có những hải tặc hãm hiếp các thiếu nữ.
Có những thương gia giàu có bán khí giới cho các nước nghèo, trong khi trẻ xứ đó không có thức ăn và không có trường để học.
Có những chủ hãng dùng sức lao động của trẻ em.
Có những người chết trong tù ngục và trại cải tạo.
Trong trại cùi, có những trẻ em người lớn cụt hết cả chân tay, mù chữ và không có chút hy vọng nào!
Các địa ngục đó cần Bồ tát vô cùng.
Khi chúng ta đứng trước ngọn núi hay bông hoa và quán tưởng trước khi lạy xuống lần thứ hai, ta thấy ta không chỉ là Bồ tát mà còn là nạn nhân của các áp bức, kỳ thị và bất công nữa.
Với năng lượng của Bồ tát, ta ôm lấy các nạn nhân khắp nơi.
Ta là hải tặc đã hãm hại em bé gái, và ta cũng là em bé gái bị hãm hiếp.
Vì chúng ta không có tự tánh riêng biệt, tất cả chúng ta đều có tương quan và ta cũng là tất cả mọi người.
Lối sống của ta có ảnh hưởng trên mọi chuyện.
Vậy chúng ta nên suy nghĩ.
Chúng ta đã sống ra sao nên thanh niên Thái Lan kia mới trở thành kẻ hiếp dâm?
Chúng ta chỉ biết quan tâm tới các nhu cầu vật chất của mình thôi.
Gia đình của anh chàng kia bị kẹt vào cảnh nghèo khổ trong nhiều thế hệ. | Chúng ta chỉ biết quan tâm tới các nhu cầu vật chất của mình thôi.
Gia đình của anh chàng kia bị kẹt vào cảnh nghèo khổ trong nhiều thế hệ.
Cha hắn là một người đánh cá, chỉ biết quên sầu bằng cách uống rượu.
Ông ta không biết cách dạy con và thường đánh đập chúng.
Mẹ hắn không biết làm sao cho con đi học.
Mười ba tuổi là hắn phải cùng cha đi tàu ra biển đánh cá rồi.
Khi cha chết, hắn tiếp tục công việc thế cha.
Hắn không biết hiểu và thương.
Hắn muốn thành hải tặc vì chỉ một ngày là cướp được vàng bạc, khiến hắn có thể bớt nghèo - hắn đã sợ sẽ phải nghèo suốt đời.
Trên biển không có Cảnh sát, hắn nghĩ: “vậy thì tại sao không theo mấy tên cướp kia mà hãm hiếp mấy cô bé trên chiếc thuyền vượt biên?”
Nếu chúng ta có súng mà bắn thì sẽ giết được anh chàng hải tặc.
Nhưng nếu giúp hắn để hắn biết hiểu và thương thì có hơn chăng?
Các chính trị gia, các nhà giáo dục và các viên chức chính phủ ở đâu mà không giúp hắn?
Đêm qua, trên bờ biển Thái, có hàng trăm em bé mới được sinh ra trong làng thuyền chài.
Nếu chúng không được chăm sóc đủ, không được nuôi dưỡng và giáo dục, thì một số bé sẽ trở thành hải tặc.
Đó là lỗi của chúng ta: Các viên chức, nhà chính trị do dân bầu ra, các nhà giáo dục.
Chúng ta không thể đổ lỗi cho người đánh cá mà thôi.
Nếu tôi sinh ra là một em bé nghèo khổ không hề được học hành, có cha mẹ mù chữ, nghèo khổ suốt đời và không biết cách nuôi dạy tôi, tôi cũng có thể trở thành hải tặc.
Nếu bạn bắn chết tôi, thì có giải quyết được gì không? |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chúng ta chỉ biết quan tâm tới các nhu cầu vật chất của mình thôi.
Gia đình của anh chàng kia bị kẹt vào cảnh nghèo khổ trong nhiều thế hệ.
Cha hắn là một người đánh cá, chỉ biết quên sầu bằng cách uống rượu.
Ông ta không biết cách dạy con và thường đánh đập chúng.
Mẹ hắn không biết làm sao cho con đi học.
Mười ba tuổi là hắn phải cùng cha đi tàu ra biển đánh cá rồi.
Khi cha chết, hắn tiếp tục công việc thế cha.
Hắn không biết hiểu và thương.
Hắn muốn thành hải tặc vì chỉ một ngày là cướp được vàng bạc, khiến hắn có thể bớt nghèo - hắn đã sợ sẽ phải nghèo suốt đời.
Trên biển không có Cảnh sát, hắn nghĩ: “vậy thì tại sao không theo mấy tên cướp kia mà hãm hiếp mấy cô bé trên chiếc thuyền vượt biên?”
Nếu chúng ta có súng mà bắn thì sẽ giết được anh chàng hải tặc.
Nhưng nếu giúp hắn để hắn biết hiểu và thương thì có hơn chăng?
Các chính trị gia, các nhà giáo dục và các viên chức chính phủ ở đâu mà không giúp hắn?
Đêm qua, trên bờ biển Thái, có hàng trăm em bé mới được sinh ra trong làng thuyền chài.
Nếu chúng không được chăm sóc đủ, không được nuôi dưỡng và giáo dục, thì một số bé sẽ trở thành hải tặc.
Đó là lỗi của chúng ta: Các viên chức, nhà chính trị do dân bầu ra, các nhà giáo dục.
Chúng ta không thể đổ lỗi cho người đánh cá mà thôi.
Nếu tôi sinh ra là một em bé nghèo khổ không hề được học hành, có cha mẹ mù chữ, nghèo khổ suốt đời và không biết cách nuôi dạy tôi, tôi cũng có thể trở thành hải tặc.
Nếu bạn bắn chết tôi, thì có giải quyết được gì không? | Nếu bạn bắn chết tôi, thì có giải quyết được gì không?
Có thể là tôi, và em bé bị hãm hiếp cũng có thể là tôi!
Tất cả các khổ não của thế gian là của chúng ta.
Chúng ta phải nhìn mình là họ và họ là mình.
Khi ta nhìn thấy họ khổ đau, một mũi tên của hiểu biết và thương yêu xuyên vào tim ta.
Ta có thể thương họ, ôm lấy họ và tìm cách giúp họ.
Ta chỉ có thể làm vậy khi không bị tràn ngập bởi tuyệt vọng về tình trạng của người kia, hay của chính mình.
Đừng chìm lỉm vì tuyệt vọng
Khi bạn tiếp xúc với cái khổ trên thế giới, sự tuyệt vọng sẵn sàng trùm lên bạn.
Nhưng đừng để vì thế mà bị chìm lỉm.
Trong cuộc chiến tại Việt Nam, các thanh niên dễ sa vào tình trạng tuyệt vọng vì chiến tranh quá dài, hầu như sẽ không bao giờ chấm dứt.
Nó giống như tình trạng tại Trung đông.
Các thanh niên Do Thái và Palestine cảm thấy như chiến tranh sẽ không thể chấm dứt.
Chúng tôi thực tập để bảo vệ trẻ em và chính chúng ta không bị tuyệt vọng.
Bồ tát có thể đứng dậy và cưỡng lại sự tuyệt vọng nhờ khả năng lắng nghe, yêu thương và hiểu biết đủ để nhập cuộc.
Khi lạy xuống đất lần thứ hai, chúng ta tiếp xúc với các Bồ tát lớn nhỏ khắp nơi, chúng ta cảm nhận được năng lượng của quý Ngài.
Súc vật, cây cỏ và đất đá cũng đau khổ vì lòng tham của con người.
Đất, không khí và nước khổ đau vì chúng ta làm ô nhiễm chúng.
Cây cối khổ vì ta phá rừng để kiếm lời.
Một số sinh vật bị tuyệt chùng vì sinh môi thiên nhiên bị phá hủy.
Loài người cũng giết hại nhau và khai thác nhau. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nếu bạn bắn chết tôi, thì có giải quyết được gì không?
Có thể là tôi, và em bé bị hãm hiếp cũng có thể là tôi!
Tất cả các khổ não của thế gian là của chúng ta.
Chúng ta phải nhìn mình là họ và họ là mình.
Khi ta nhìn thấy họ khổ đau, một mũi tên của hiểu biết và thương yêu xuyên vào tim ta.
Ta có thể thương họ, ôm lấy họ và tìm cách giúp họ.
Ta chỉ có thể làm vậy khi không bị tràn ngập bởi tuyệt vọng về tình trạng của người kia, hay của chính mình.
Đừng chìm lỉm vì tuyệt vọng
Khi bạn tiếp xúc với cái khổ trên thế giới, sự tuyệt vọng sẵn sàng trùm lên bạn.
Nhưng đừng để vì thế mà bị chìm lỉm.
Trong cuộc chiến tại Việt Nam, các thanh niên dễ sa vào tình trạng tuyệt vọng vì chiến tranh quá dài, hầu như sẽ không bao giờ chấm dứt.
Nó giống như tình trạng tại Trung đông.
Các thanh niên Do Thái và Palestine cảm thấy như chiến tranh sẽ không thể chấm dứt.
Chúng tôi thực tập để bảo vệ trẻ em và chính chúng ta không bị tuyệt vọng.
Bồ tát có thể đứng dậy và cưỡng lại sự tuyệt vọng nhờ khả năng lắng nghe, yêu thương và hiểu biết đủ để nhập cuộc.
Khi lạy xuống đất lần thứ hai, chúng ta tiếp xúc với các Bồ tát lớn nhỏ khắp nơi, chúng ta cảm nhận được năng lượng của quý Ngài.
Súc vật, cây cỏ và đất đá cũng đau khổ vì lòng tham của con người.
Đất, không khí và nước khổ đau vì chúng ta làm ô nhiễm chúng.
Cây cối khổ vì ta phá rừng để kiếm lời.
Một số sinh vật bị tuyệt chùng vì sinh môi thiên nhiên bị phá hủy.
Loài người cũng giết hại nhau và khai thác nhau. | Cây cối khổ vì ta phá rừng để kiếm lời.
Một số sinh vật bị tuyệt chùng vì sinh môi thiên nhiên bị phá hủy.
Loài người cũng giết hại nhau và khai thác nhau.
Theo Phật pháp, tất cả chúng sinh đều có khả năng tỉnh thức.
Làm sao chúng ta có thể dừng lại, không bị chìm lỉm trong tuyệt vọng?
Đó là nhờ sự hiện diện khắp nơi của chư Bụt và Bồ tát.
Không phải họ ở trên thiên đường xa xôi đâu, khi chúng ta còn sống, còn chết thì họ còn ở ngay đây với chúng ta.
Lợi lạc cho tất cả mọi người
Lạy xuống đất giúp cho thân tâm ta được thanh tịnh.
Nó giúp chúng ta có tuệ giác về vô thường, về tương liên và vô ngã.
Bụt dạy ai nhìn thấy chúng sinh thì sẽ thấy Bụt.
Khi lạy xuống đất, ta nhìn thấy Bụt trong ta và ta thấy ta trong Bụt.
Chúng ta nhìn được tất cả chúng sinh đau khổ và nhìn thấy ta trong họ.
Ở tư thế phủ phục xuống đất, biên giới giữa ta và người khác được xóa đi.
Từ đó ta sẽ biết nên làm gì và không nên làm gì trong đời sống hàng ngày.
Nhờ tuệ giác đó, chúng ta có thể làm được nhiều chuyện rất hữu ích.
Bạn đã làm gì với đời bạn?
Bạn có thực sự tạo được phúc lợi cho bạn, cho người thương và cho các chúng sinh chưa?
Nguyện ước sâu xa của Bồ tát là làm vơi bớt khổ đau.
Đó là sự dấn thân của Bụt, của con người giác ngộ.
Khi chúng ta có hạnh nguyện của Bồ tát, chúng ta có thể bỏ qua được tất cả những chuyện vô nghĩa đã hấp dẫn ta trước đây.
Ta có thể bỏ qua danh vọng và lợi lộc.
Khi đã quyết tâm thì những chuyện đó rất dễ bỏ qua.
Bụt có trong ta, ta có trong Bụt. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cây cối khổ vì ta phá rừng để kiếm lời.
Một số sinh vật bị tuyệt chùng vì sinh môi thiên nhiên bị phá hủy.
Loài người cũng giết hại nhau và khai thác nhau.
Theo Phật pháp, tất cả chúng sinh đều có khả năng tỉnh thức.
Làm sao chúng ta có thể dừng lại, không bị chìm lỉm trong tuyệt vọng?
Đó là nhờ sự hiện diện khắp nơi của chư Bụt và Bồ tát.
Không phải họ ở trên thiên đường xa xôi đâu, khi chúng ta còn sống, còn chết thì họ còn ở ngay đây với chúng ta.
Lợi lạc cho tất cả mọi người
Lạy xuống đất giúp cho thân tâm ta được thanh tịnh.
Nó giúp chúng ta có tuệ giác về vô thường, về tương liên và vô ngã.
Bụt dạy ai nhìn thấy chúng sinh thì sẽ thấy Bụt.
Khi lạy xuống đất, ta nhìn thấy Bụt trong ta và ta thấy ta trong Bụt.
Chúng ta nhìn được tất cả chúng sinh đau khổ và nhìn thấy ta trong họ.
Ở tư thế phủ phục xuống đất, biên giới giữa ta và người khác được xóa đi.
Từ đó ta sẽ biết nên làm gì và không nên làm gì trong đời sống hàng ngày.
Nhờ tuệ giác đó, chúng ta có thể làm được nhiều chuyện rất hữu ích.
Bạn đã làm gì với đời bạn?
Bạn có thực sự tạo được phúc lợi cho bạn, cho người thương và cho các chúng sinh chưa?
Nguyện ước sâu xa của Bồ tát là làm vơi bớt khổ đau.
Đó là sự dấn thân của Bụt, của con người giác ngộ.
Khi chúng ta có hạnh nguyện của Bồ tát, chúng ta có thể bỏ qua được tất cả những chuyện vô nghĩa đã hấp dẫn ta trước đây.
Ta có thể bỏ qua danh vọng và lợi lộc.
Khi đã quyết tâm thì những chuyện đó rất dễ bỏ qua.
Bụt có trong ta, ta có trong Bụt. | Ta có thể bỏ qua danh vọng và lợi lộc.
Khi đã quyết tâm thì những chuyện đó rất dễ bỏ qua.
Bụt có trong ta, ta có trong Bụt.
Ta có thể trở thành Bụt, ta có thể giác ngộ được như Ngài.
Tự hướng dẫn mình
Hãy dùng các lời khấn sau để hướng dẫn bạn khi bắt đầu thực tập cái lạy thứ hai:
“Tiếp xúc với đất, con tiếp xúc được với tất cả mọi loài và mọi người hiện đang sinh hoạt trên trái đất này như con.” (Hãy đứng quán tưởng tại một nơi bạn ưa thích, trước khi lạy xuống đất.)
“Con là một với sự sống mầu nhiệm đang tuôn trào khắp mọi phương.
Con nhìn thấy sự liên hệ giữa con và người khác, cả trong hạnh phúc lẫn trong khổ đau.
Con là một với chư vị Bồ tát và các bậc đại nhân đã vượt thoát được ý niệm sinh tử, đã có thể nhìn vào các hình thức sinh tử một cách từ bi, không sợ hãi.
Con là một với các vị Bồ tát đang có mặt khắp nơi trên trái đất này.
Họ có an lạc, hiểu biết và thương yêu.
Họ có thể tiếp xúc được với những gì mầu nhiệm, có khả năng nuôi dưỡng và chữa lành bệnh, và họ có thể mang những thứ đó tới cho người khác.
Họ có khả năng bao trọn thế giới bằng trái tim thương yêu và bàn tay chăm sóc.
Con cũng có đủ an lạc và thảnh thơi để có thể hiến tặng niềm vui và sự vô úy cho người ở gần bên.
Con không cảm thấy cô đơn hay tuyệt vọng khi con cảm thấy tình thương và hạnh phúc của các Bồ tát hiện đang sống trên trái đất này.
Nhìn nhận được tình thương của họ đối với các chúng sinh đau khổ khiến con sống được một cuộc đời có ý nghĩa với niềm an lạc, hạnh phúc thực sự. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ta có thể bỏ qua danh vọng và lợi lộc.
Khi đã quyết tâm thì những chuyện đó rất dễ bỏ qua.
Bụt có trong ta, ta có trong Bụt.
Ta có thể trở thành Bụt, ta có thể giác ngộ được như Ngài.
Tự hướng dẫn mình
Hãy dùng các lời khấn sau để hướng dẫn bạn khi bắt đầu thực tập cái lạy thứ hai:
“Tiếp xúc với đất, con tiếp xúc được với tất cả mọi loài và mọi người hiện đang sinh hoạt trên trái đất này như con.” (Hãy đứng quán tưởng tại một nơi bạn ưa thích, trước khi lạy xuống đất.)
“Con là một với sự sống mầu nhiệm đang tuôn trào khắp mọi phương.
Con nhìn thấy sự liên hệ giữa con và người khác, cả trong hạnh phúc lẫn trong khổ đau.
Con là một với chư vị Bồ tát và các bậc đại nhân đã vượt thoát được ý niệm sinh tử, đã có thể nhìn vào các hình thức sinh tử một cách từ bi, không sợ hãi.
Con là một với các vị Bồ tát đang có mặt khắp nơi trên trái đất này.
Họ có an lạc, hiểu biết và thương yêu.
Họ có thể tiếp xúc được với những gì mầu nhiệm, có khả năng nuôi dưỡng và chữa lành bệnh, và họ có thể mang những thứ đó tới cho người khác.
Họ có khả năng bao trọn thế giới bằng trái tim thương yêu và bàn tay chăm sóc.
Con cũng có đủ an lạc và thảnh thơi để có thể hiến tặng niềm vui và sự vô úy cho người ở gần bên.
Con không cảm thấy cô đơn hay tuyệt vọng khi con cảm thấy tình thương và hạnh phúc của các Bồ tát hiện đang sống trên trái đất này.
Nhìn nhận được tình thương của họ đối với các chúng sinh đau khổ khiến con sống được một cuộc đời có ý nghĩa với niềm an lạc, hạnh phúc thực sự. | Nhìn nhận được tình thương của họ đối với các chúng sinh đau khổ khiến con sống được một cuộc đời có ý nghĩa với niềm an lạc, hạnh phúc thực sự.
“Sức mạnh của con được gia tăng nhờ các vị Bồ tát, con có thể thấy con là một với các chúng sinh đang khổ đau.
Con là một với người tàn tật bẩm sinh hay do chiến tranh, tai nạn, bệnh hoạn.
Con là một với những người bị kẹt trong tình trạng áp bức.
Con là một với những người không có hạnh phúc trong gia đình, không có gốc rễ và an bình trong tâm, luôn khao khát được gặp và tin vào những gì tốt đẹp, hoàn hảo.
Con là một với những người trước cái chết đã rất sợ hãi, không biết chuyện gì sẽ xảy ra và hoảng sợ sẽ bị hủy diệt.
Con là em bé phải sống trong cảnh nghèo đói bệnh tật, chân tay khẳng khiu như ống sậy, tương lai không thấy đâu.
Con cũng là người chế ra đạn bom để bán cho các nước nghèo.
Con là con ếch bơi trong hồ và cũng là con rắn nước muốn nuôi thân bằng con ếch.
Con là con sâu cái kiến mà con chim đang săn mồi và con cũng là con chim đang tìm sâu bọ để ăn.
Con là rừng cây bị đốn trụi.
Con là những giòng sông bị ô nhiễm và con cũng là người thợ đốn gỗ, người làm dơ nước sông và ô nhiễm không khí.
Con thấy con trong mọi chúng sinh và tất cả họ đều có trong con.”
Nhìn sâu vào sự không sinh không diệt
Khi chúng ta bắt đầu hiểu được rằng chúng ta là tất cả mọi sự vật thì cái sợ trong ta biến mất.
Chúng ta đã tiếp xúc sâu xa được với các bình diện không gian và thời gian. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhìn nhận được tình thương của họ đối với các chúng sinh đau khổ khiến con sống được một cuộc đời có ý nghĩa với niềm an lạc, hạnh phúc thực sự.
“Sức mạnh của con được gia tăng nhờ các vị Bồ tát, con có thể thấy con là một với các chúng sinh đang khổ đau.
Con là một với người tàn tật bẩm sinh hay do chiến tranh, tai nạn, bệnh hoạn.
Con là một với những người bị kẹt trong tình trạng áp bức.
Con là một với những người không có hạnh phúc trong gia đình, không có gốc rễ và an bình trong tâm, luôn khao khát được gặp và tin vào những gì tốt đẹp, hoàn hảo.
Con là một với những người trước cái chết đã rất sợ hãi, không biết chuyện gì sẽ xảy ra và hoảng sợ sẽ bị hủy diệt.
Con là em bé phải sống trong cảnh nghèo đói bệnh tật, chân tay khẳng khiu như ống sậy, tương lai không thấy đâu.
Con cũng là người chế ra đạn bom để bán cho các nước nghèo.
Con là con ếch bơi trong hồ và cũng là con rắn nước muốn nuôi thân bằng con ếch.
Con là con sâu cái kiến mà con chim đang săn mồi và con cũng là con chim đang tìm sâu bọ để ăn.
Con là rừng cây bị đốn trụi.
Con là những giòng sông bị ô nhiễm và con cũng là người thợ đốn gỗ, người làm dơ nước sông và ô nhiễm không khí.
Con thấy con trong mọi chúng sinh và tất cả họ đều có trong con.”
Nhìn sâu vào sự không sinh không diệt
Khi chúng ta bắt đầu hiểu được rằng chúng ta là tất cả mọi sự vật thì cái sợ trong ta biến mất.
Chúng ta đã tiếp xúc sâu xa được với các bình diện không gian và thời gian. | Khi chúng ta bắt đầu hiểu được rằng chúng ta là tất cả mọi sự vật thì cái sợ trong ta biến mất.
Chúng ta đã tiếp xúc sâu xa được với các bình diện không gian và thời gian.
Nhưng muốn thật sự vô úy, không còn chút sợ hãi nào, chúng ta phải nhìn sâu được vào bình diện tuyệt đối của bản môn không sinh không diệt.
Chúng ta cần được giải phóng khỏi các quan niệm rằng ta là cái thân này, và ta sẽ chết.
Đây là cái lạy thứ ba và sau đây là thiền quán giúp bạn sửa soạn điều đó:
Thở vào, tôi biết tôi đang thở vào / Vào
Thở ra, tôi biết tôi đang thở ra / Ra
Thở vào, tôi có ý thức về ngọn sóng trên đại dương / Sóng
Thở ra, tôi cười với ngọn sóng / Cười
Thở vào, tôi biết có nước trong sóng / Nước trong sóng
Thở ra, tôi cười với nước trong ngọn sóng / Cười
Thở vào, tôi thấy sóng được sinh ra / Sóng sinh ra
Thở ra, tôi cười với sóng mới sinh ra / Cười
Thở vào, tôi thấy sóng chết đi / Sóng chết đi
Thở ra, tôi cười với sóng đã chết / Cười
Thở vào, tôi thấy bản chất vô sinh của nước / Nước vô sinh
Thở ra, tôi cười với bản chất vô sinh của nước / Cười
Thở vào, tôi thấy bản chất bất diệt của nước / Nước bất diệt
Thở ra, tôi cười với sự bất diệt của nước / Cười
Thở vào, tôi thấy thân tôi được sinh ra / Thân tôi sinh
Thở ra, tôi cười với sự sinh / Cười
Thở vào, tôi thấy thân tôi chết đi / Thân tôi chết
Thở ra, tôi cười với cái chết của thân tôi / Cười
Thở vào, tôi thấy bản chất không sinh của thân tôi / Bản chất không sinh
Thở ra, tôi cười với bản chất vô sinh của thân tôi / Cười |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Khi chúng ta bắt đầu hiểu được rằng chúng ta là tất cả mọi sự vật thì cái sợ trong ta biến mất.
Chúng ta đã tiếp xúc sâu xa được với các bình diện không gian và thời gian.
Nhưng muốn thật sự vô úy, không còn chút sợ hãi nào, chúng ta phải nhìn sâu được vào bình diện tuyệt đối của bản môn không sinh không diệt.
Chúng ta cần được giải phóng khỏi các quan niệm rằng ta là cái thân này, và ta sẽ chết.
Đây là cái lạy thứ ba và sau đây là thiền quán giúp bạn sửa soạn điều đó:
Thở vào, tôi biết tôi đang thở vào / Vào
Thở ra, tôi biết tôi đang thở ra / Ra
Thở vào, tôi có ý thức về ngọn sóng trên đại dương / Sóng
Thở ra, tôi cười với ngọn sóng / Cười
Thở vào, tôi biết có nước trong sóng / Nước trong sóng
Thở ra, tôi cười với nước trong ngọn sóng / Cười
Thở vào, tôi thấy sóng được sinh ra / Sóng sinh ra
Thở ra, tôi cười với sóng mới sinh ra / Cười
Thở vào, tôi thấy sóng chết đi / Sóng chết đi
Thở ra, tôi cười với sóng đã chết / Cười
Thở vào, tôi thấy bản chất vô sinh của nước / Nước vô sinh
Thở ra, tôi cười với bản chất vô sinh của nước / Cười
Thở vào, tôi thấy bản chất bất diệt của nước / Nước bất diệt
Thở ra, tôi cười với sự bất diệt của nước / Cười
Thở vào, tôi thấy thân tôi được sinh ra / Thân tôi sinh
Thở ra, tôi cười với sự sinh / Cười
Thở vào, tôi thấy thân tôi chết đi / Thân tôi chết
Thở ra, tôi cười với cái chết của thân tôi / Cười
Thở vào, tôi thấy bản chất không sinh của thân tôi / Bản chất không sinh
Thở ra, tôi cười với bản chất vô sinh của thân tôi / Cười | Thở ra, tôi cười với cái chết của thân tôi / Cười
Thở vào, tôi thấy bản chất không sinh của thân tôi / Bản chất không sinh
Thở ra, tôi cười với bản chất vô sinh của thân tôi / Cười
Thở vào, tôi thấy bản chất không chết của thân tôi / Bản chất không chết
Thở ra, tôi cười với bản chất bất diệt của thân tôi / Cười
Thở vào, tôi thấy bản chất không sinh của tâm thức tôi / Tâm thức vô sinh
Thở ra, tôi cười với bản chất vô sinh của tâm thức tôi / Cười
Thở vào, tôi chỉ có ý thức về hơi thở vào / Vào
Thở ra, tôi chỉ có ý thức về hơi thở ra / Ra
Tôi không phải là cái thân này
Khi còn là một chú tiểu tôi nghĩ rằng vượt thoát sinh tử là một chuyện gì rất xa xôi.
Tôi nghĩ tôi sẽ không thể đạt tới trạng thái đó trong một kiếp người.
Nhưng “Sinh Tử” thật ra chỉ là những quan niệm, chúng ta chỉ cần vượt qua được hai quan niệm đó thôi.
Khi học điều đó tôi thấy sự sợ hãi là chuyện phải có vì hai quan niệm đó đã giam hãm chúng ta bao nhiêu năm dài.
Nay ta thấy rằng ta phong phú hơn cái thân này.
Ta thấy ta không chỉ có cuộc đời này mà chúng ta vô cùng vô tận.
Chúng ta thực nghiệm chuyện này trong thiền quán.
Nếu chúng ta thành công trong cái lạy thứ nhất và thứ hai, thì cái lạy thứ ba chỉ là trò trẻ con.
Đó là một vòng tròn bao cả hai đường dọc thời gian của cái lạy thứ nhất và đường ngang không gian của cái lạy thứ hai.
Trong cái lạy đầu, ta thoát được quan niệm mình phân cách với tổ tiên và con cháu.
Ta được thoát khỏi ý niệm về thời gian. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thở ra, tôi cười với cái chết của thân tôi / Cười
Thở vào, tôi thấy bản chất không sinh của thân tôi / Bản chất không sinh
Thở ra, tôi cười với bản chất vô sinh của thân tôi / Cười
Thở vào, tôi thấy bản chất không chết của thân tôi / Bản chất không chết
Thở ra, tôi cười với bản chất bất diệt của thân tôi / Cười
Thở vào, tôi thấy bản chất không sinh của tâm thức tôi / Tâm thức vô sinh
Thở ra, tôi cười với bản chất vô sinh của tâm thức tôi / Cười
Thở vào, tôi chỉ có ý thức về hơi thở vào / Vào
Thở ra, tôi chỉ có ý thức về hơi thở ra / Ra
Tôi không phải là cái thân này
Khi còn là một chú tiểu tôi nghĩ rằng vượt thoát sinh tử là một chuyện gì rất xa xôi.
Tôi nghĩ tôi sẽ không thể đạt tới trạng thái đó trong một kiếp người.
Nhưng “Sinh Tử” thật ra chỉ là những quan niệm, chúng ta chỉ cần vượt qua được hai quan niệm đó thôi.
Khi học điều đó tôi thấy sự sợ hãi là chuyện phải có vì hai quan niệm đó đã giam hãm chúng ta bao nhiêu năm dài.
Nay ta thấy rằng ta phong phú hơn cái thân này.
Ta thấy ta không chỉ có cuộc đời này mà chúng ta vô cùng vô tận.
Chúng ta thực nghiệm chuyện này trong thiền quán.
Nếu chúng ta thành công trong cái lạy thứ nhất và thứ hai, thì cái lạy thứ ba chỉ là trò trẻ con.
Đó là một vòng tròn bao cả hai đường dọc thời gian của cái lạy thứ nhất và đường ngang không gian của cái lạy thứ hai.
Trong cái lạy đầu, ta thoát được quan niệm mình phân cách với tổ tiên và con cháu.
Ta được thoát khỏi ý niệm về thời gian. | Trong cái lạy đầu, ta thoát được quan niệm mình phân cách với tổ tiên và con cháu.
Ta được thoát khỏi ý niệm về thời gian.
Trong cái lạy thứ hai, ta vượt qua được quan niệm mình khác với Bụt, Bồ tát và các bậc đại nhân, những chúng sinh đau khổ, súc vật, cây cỏ và đất đá.
Ta vượt thoát được ý niệm về không gian.
Lần này ta lạy xuống và buông bỏ cái nhìn thân này là ta, ta là một chủ thể có sinh có diệt.
Bình thường ta nghĩ thân này là ta.
Ta nghĩ khi thân diệt thì mình cũng bị hoại diệt.
Bụt dạy rất rõ rằng thân này không phải là ta.
Tôi thường hỏi các bạn trẻ, tuổi chưa tới ba mươi rằng: “Con đang ở đâu, năm 1966, khi thầy mới rời Việt Nam?” Họ không nên trả lời rằng họ chưa hiện hữu.
Họ phải thấy được rằng họ đã có mặt trong cha mẹ, ông bà họ.
Bạn có thể dùng câu sau đây để tự hướng dẫn bạn khi mới thực tập cái lạy thứ ba: “Tiếp xúc với đất, con loại bỏ ý nghĩ con là cái thân này và thọ mạng của con có giới hạn.” (Đứng trước nơi bạn ưa thích, quán tưởng trước khi lạy xuống).
“Con nhìn thấy cái thân này làm bằng tứ đại không thật sự là con và con không bị giới hạn vào trong thân ấy.
Con là một phần của hai dòng sinh mạng huyết thống và truyền thống tâm linh đã hàng ngàn năm truyền tới ngày nay và còn truyền đi trong tương lai hàng ngàn năm nữa.
Con là một với tổ tiên con, con là một với tất cả các chúng sinh, dù là họ đang an lạc, vô úy hay họ đang đau khổ sợ hãi.
Trong phút này con đang có mặt khắp nơi trên thế giới.
Con cũng đang có mặt trong quá khứ và tương lai. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Trong cái lạy đầu, ta thoát được quan niệm mình phân cách với tổ tiên và con cháu.
Ta được thoát khỏi ý niệm về thời gian.
Trong cái lạy thứ hai, ta vượt qua được quan niệm mình khác với Bụt, Bồ tát và các bậc đại nhân, những chúng sinh đau khổ, súc vật, cây cỏ và đất đá.
Ta vượt thoát được ý niệm về không gian.
Lần này ta lạy xuống và buông bỏ cái nhìn thân này là ta, ta là một chủ thể có sinh có diệt.
Bình thường ta nghĩ thân này là ta.
Ta nghĩ khi thân diệt thì mình cũng bị hoại diệt.
Bụt dạy rất rõ rằng thân này không phải là ta.
Tôi thường hỏi các bạn trẻ, tuổi chưa tới ba mươi rằng: “Con đang ở đâu, năm 1966, khi thầy mới rời Việt Nam?” Họ không nên trả lời rằng họ chưa hiện hữu.
Họ phải thấy được rằng họ đã có mặt trong cha mẹ, ông bà họ.
Bạn có thể dùng câu sau đây để tự hướng dẫn bạn khi mới thực tập cái lạy thứ ba: “Tiếp xúc với đất, con loại bỏ ý nghĩ con là cái thân này và thọ mạng của con có giới hạn.” (Đứng trước nơi bạn ưa thích, quán tưởng trước khi lạy xuống).
“Con nhìn thấy cái thân này làm bằng tứ đại không thật sự là con và con không bị giới hạn vào trong thân ấy.
Con là một phần của hai dòng sinh mạng huyết thống và truyền thống tâm linh đã hàng ngàn năm truyền tới ngày nay và còn truyền đi trong tương lai hàng ngàn năm nữa.
Con là một với tổ tiên con, con là một với tất cả các chúng sinh, dù là họ đang an lạc, vô úy hay họ đang đau khổ sợ hãi.
Trong phút này con đang có mặt khắp nơi trên thế giới.
Con cũng đang có mặt trong quá khứ và tương lai. | Trong phút này con đang có mặt khắp nơi trên thế giới.
Con cũng đang có mặt trong quá khứ và tương lai.
Sự tàn hoại của thân xác này không động được tới con, cũng như khi chùm hoa mận rơi rụng, thì không có nghĩa là cây mận chết.
“Con nhìn con như một ngọn sóng trên mặt đại dương.
Bản chất của con là nước trong đại dương.
Con nhìn thấy con trong tất cả các ngọn sóng khác và thấy các ngọn sóng đó cũng có trong con.
Sự biến hiện của hình hài ngọn sóng không ảnh hưởng tới đại dương.
Pháp thân và trí tuệ của con không sinh cũng không diệt.
Con nhìn thấy con trước khi thân con thể hiện và sau khi thân con tan rã.
Ngay giây phút này con cũng thấy con đang hiện diện bên ngoài thân này.
Bảy mươi, tám mươi năm không phải là tất cả cuộc đời con.
Thọ mạng của con cũng như của chiếc lá, của Bụt, không bị thời gian giới hạn.
Con đã vượt qua được ý niệm cho rằng cái thân này là một thực thể riêng biệt với thời gian và không gian.”
Những ai trong các bạn đã tiếp xúc sâu sắc được với bản chất của thời gian và không gian thì có thể tiếp xúc được với bình diện tuyệt đối, với bản môn.
Sau khi tiếp xúc với sóng, bạn học cách tiếp xúc với nước.
Không chia cách
Bụt dạy rằng bản chất chân thật của bạn là bản chất không sinh - không diệt, không tới - không lui, không giống - không khác, không có cũng không không.
Giáo pháp này hình như trái ngược với giáo pháp dạy rằng cái gì sinh thì sẽ diệt, mọi chuyện đều có thể tàn lụi và ta không thể tránh được cái chết, già lão và bệnh tật. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Trong phút này con đang có mặt khắp nơi trên thế giới.
Con cũng đang có mặt trong quá khứ và tương lai.
Sự tàn hoại của thân xác này không động được tới con, cũng như khi chùm hoa mận rơi rụng, thì không có nghĩa là cây mận chết.
“Con nhìn con như một ngọn sóng trên mặt đại dương.
Bản chất của con là nước trong đại dương.
Con nhìn thấy con trong tất cả các ngọn sóng khác và thấy các ngọn sóng đó cũng có trong con.
Sự biến hiện của hình hài ngọn sóng không ảnh hưởng tới đại dương.
Pháp thân và trí tuệ của con không sinh cũng không diệt.
Con nhìn thấy con trước khi thân con thể hiện và sau khi thân con tan rã.
Ngay giây phút này con cũng thấy con đang hiện diện bên ngoài thân này.
Bảy mươi, tám mươi năm không phải là tất cả cuộc đời con.
Thọ mạng của con cũng như của chiếc lá, của Bụt, không bị thời gian giới hạn.
Con đã vượt qua được ý niệm cho rằng cái thân này là một thực thể riêng biệt với thời gian và không gian.”
Những ai trong các bạn đã tiếp xúc sâu sắc được với bản chất của thời gian và không gian thì có thể tiếp xúc được với bình diện tuyệt đối, với bản môn.
Sau khi tiếp xúc với sóng, bạn học cách tiếp xúc với nước.
Không chia cách
Bụt dạy rằng bản chất chân thật của bạn là bản chất không sinh - không diệt, không tới - không lui, không giống - không khác, không có cũng không không.
Giáo pháp này hình như trái ngược với giáo pháp dạy rằng cái gì sinh thì sẽ diệt, mọi chuyện đều có thể tàn lụi và ta không thể tránh được cái chết, già lão và bệnh tật. | Giáo pháp này hình như trái ngược với giáo pháp dạy rằng cái gì sinh thì sẽ diệt, mọi chuyện đều có thể tàn lụi và ta không thể tránh được cái chết, già lão và bệnh tật.
Bạn sẽ thấy rằng sinh là một ý niệm, tử là một ý niệm, tới-lui, không-có cũng là những ý niệm.
Chúng ta phải xả bỏ những ý niệm về thực tại đó.
Và chúng ta sẽ tiếp xúc được với chân lý, hay chân như.
Chân như là một thuật ngữ.
Nó có nghĩa rằng chân lý thực tại là như vậy.
Bạn không thể nói gì về Chân như hay giải thích gì hết.
Bạn có thể nói Thượng đế là một chân lý thực tại, và những gì diễn tả về Ngài đều sai.
Bất kỳ ý niệm hay tư tưởng nào nói về Thượng đế đều không thể diễn tả được Ngài.
Niết bàn chỉ hiển lộ tự thân sau khi mọi ý nghĩ và quan niệm về Niết bàn được xả bỏ hết.
Trong bình diện tương đối, khi quan sát một ngọn sóng ta có thể nói sóng sinh ra, sóng chết đi, sóng cao thấp hay đẹp xấu... ta có thể dùng đủ mọi tĩnh tự để miêu tả sóng v.v... Nhưng trong bình diện tuyệt đối, sóng là nước, thì tất cả các tĩnh tự mô tả sóng nói trên đều không có giá trị gì nữa.
Không còn sinh-diệt, tới-lui, cao-thấp, không còn xấu-đẹp.
Sóng không cần chết mới trở thành nước.
Nó lúc nào cũng là nước.
Bây giờ, tu tập như thế, bạn sẽ không còn thấy mình bị chia cách với người thương khi họ chết nữa.
Khi có giác kiến sâu sắc, bạn sẽ không còn cảm thấy bơ vơ.
Hàng ngày tôi thường nhìn sâu vào mọi thứ chung quanh tôi: cây cối, đồi núi, bạn bè.
Tôi nhìn thấy tôi trong tất cả và tôi biết tôi sẽ không chết. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Giáo pháp này hình như trái ngược với giáo pháp dạy rằng cái gì sinh thì sẽ diệt, mọi chuyện đều có thể tàn lụi và ta không thể tránh được cái chết, già lão và bệnh tật.
Bạn sẽ thấy rằng sinh là một ý niệm, tử là một ý niệm, tới-lui, không-có cũng là những ý niệm.
Chúng ta phải xả bỏ những ý niệm về thực tại đó.
Và chúng ta sẽ tiếp xúc được với chân lý, hay chân như.
Chân như là một thuật ngữ.
Nó có nghĩa rằng chân lý thực tại là như vậy.
Bạn không thể nói gì về Chân như hay giải thích gì hết.
Bạn có thể nói Thượng đế là một chân lý thực tại, và những gì diễn tả về Ngài đều sai.
Bất kỳ ý niệm hay tư tưởng nào nói về Thượng đế đều không thể diễn tả được Ngài.
Niết bàn chỉ hiển lộ tự thân sau khi mọi ý nghĩ và quan niệm về Niết bàn được xả bỏ hết.
Trong bình diện tương đối, khi quan sát một ngọn sóng ta có thể nói sóng sinh ra, sóng chết đi, sóng cao thấp hay đẹp xấu... ta có thể dùng đủ mọi tĩnh tự để miêu tả sóng v.v... Nhưng trong bình diện tuyệt đối, sóng là nước, thì tất cả các tĩnh tự mô tả sóng nói trên đều không có giá trị gì nữa.
Không còn sinh-diệt, tới-lui, cao-thấp, không còn xấu-đẹp.
Sóng không cần chết mới trở thành nước.
Nó lúc nào cũng là nước.
Bây giờ, tu tập như thế, bạn sẽ không còn thấy mình bị chia cách với người thương khi họ chết nữa.
Khi có giác kiến sâu sắc, bạn sẽ không còn cảm thấy bơ vơ.
Hàng ngày tôi thường nhìn sâu vào mọi thứ chung quanh tôi: cây cối, đồi núi, bạn bè.
Tôi nhìn thấy tôi trong tất cả và tôi biết tôi sẽ không chết. | Hàng ngày tôi thường nhìn sâu vào mọi thứ chung quanh tôi: cây cối, đồi núi, bạn bè.
Tôi nhìn thấy tôi trong tất cả và tôi biết tôi sẽ không chết.
Tôi sẽ tiếp tục sống dưới nhiều hình tướng khác.
Khi bạn tôi nhìn tôi, họ cũng nên nhìn thấy tôi trong những hình tướng khác hơn là cái thân này.
Thực tập như vậy hàng ngày sẽ giúp cho họ không phải than khóc một khi biểu hiện này của tôi biến mất.
Vì khi sự biểu hiện này chấm dứt, nó sẽ nhường chỗ cho các biểu hiện khác có mặt.
Sống cạnh người hấp hối
Ông Cấp Cô Độc là một đệ tử rất thân cận v với Bụt.
Ông là người xứ Koshala, phía bắc con sông Gangs, dưới chân rặng Hy Mã Lạp sơn.
Ông Cấp Cô Độc là một thương gia thành công và được kính trọng.
Mọi người thương quý ông vì ông có tấm lòng rất rộng rãi.
Tên thật của ông là Sudatta, nhưng ông được gọi là ông Cấp Cô Độc, có nghĩa là ‘người chu cấp, thương tưởng tới những kẻ nghèo đói.’ Đây là một điều thể hiện sự kính trọng ông, vì ông luôn luôn giúp tất cả những người nghèo hay thất nghiệp và các trẻ mồ côi.
Khi ông mới ba mươi tuổi, một hôm ông đi tới vương quốc Magadha, nơi mà Bụt cũng mới tới.
Ông đi thăm người em gái và em rể đang sống tại xứ đó.
Ông khá ngạc nhiên thấy các em không đón tiếp ông long trọng ân cần như mọi khi.
Khi hỏi cô em vì sao cô không có thì giờ với ông thì cô cho biết cả nhà đang rất bận rộn để sửa soạn đón tiếp Bụt, một vị thầy tuyệt hảo.
Nghe tên Bụt, ông Cấp Cô Độc rất tò mò. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Hàng ngày tôi thường nhìn sâu vào mọi thứ chung quanh tôi: cây cối, đồi núi, bạn bè.
Tôi nhìn thấy tôi trong tất cả và tôi biết tôi sẽ không chết.
Tôi sẽ tiếp tục sống dưới nhiều hình tướng khác.
Khi bạn tôi nhìn tôi, họ cũng nên nhìn thấy tôi trong những hình tướng khác hơn là cái thân này.
Thực tập như vậy hàng ngày sẽ giúp cho họ không phải than khóc một khi biểu hiện này của tôi biến mất.
Vì khi sự biểu hiện này chấm dứt, nó sẽ nhường chỗ cho các biểu hiện khác có mặt.
Sống cạnh người hấp hối
Ông Cấp Cô Độc là một đệ tử rất thân cận v với Bụt.
Ông là người xứ Koshala, phía bắc con sông Gangs, dưới chân rặng Hy Mã Lạp sơn.
Ông Cấp Cô Độc là một thương gia thành công và được kính trọng.
Mọi người thương quý ông vì ông có tấm lòng rất rộng rãi.
Tên thật của ông là Sudatta, nhưng ông được gọi là ông Cấp Cô Độc, có nghĩa là ‘người chu cấp, thương tưởng tới những kẻ nghèo đói.’ Đây là một điều thể hiện sự kính trọng ông, vì ông luôn luôn giúp tất cả những người nghèo hay thất nghiệp và các trẻ mồ côi.
Khi ông mới ba mươi tuổi, một hôm ông đi tới vương quốc Magadha, nơi mà Bụt cũng mới tới.
Ông đi thăm người em gái và em rể đang sống tại xứ đó.
Ông khá ngạc nhiên thấy các em không đón tiếp ông long trọng ân cần như mọi khi.
Khi hỏi cô em vì sao cô không có thì giờ với ông thì cô cho biết cả nhà đang rất bận rộn để sửa soạn đón tiếp Bụt, một vị thầy tuyệt hảo.
Nghe tên Bụt, ông Cấp Cô Độc rất tò mò. | Khi hỏi cô em vì sao cô không có thì giờ với ông thì cô cho biết cả nhà đang rất bận rộn để sửa soạn đón tiếp Bụt, một vị thầy tuyệt hảo.
Nghe tên Bụt, ông Cấp Cô Độc rất tò mò.
Ông hỏi cô em: “Đó là ai vậy?” Cô liền trả lời ông với giọng rất tôn kính Bụt, khiến cho ông nóng lòng muốn tới thăm Bụt ngay.
Sớm hôm sau, ông Cấp Cô Độc đi tới tu viện Trúc lâm để nghe Bụt thuyết pháp.
Bài giảng đã khiến ông rất xúc động.
Ông Cấp Cô Độc lạy Bụt và thỉnh Ngài tới thuyết giảng tại quê ông để cho gia đình và bạn bè ông được nghe pháp.
Dù Bụt chỉ mới đi thuyết pháp ba năm, Ngài đã có một ngàn hai trăm đệ tử.
Trong số các tăng sĩ cùng du hành với Bụt có Ngài Xá lợi Phất.
Ngài đã nổi tiếng là một vị đại sư trước khi trở thành đệ tử của Bụt.
Khi Thầy Xá Lợi Phất làm môn sinh của Bụt, các sư đệ và môn sinh của Ngài cũng đi theo Ngài.
Bụt nhận lời ông Cấp Cô Độc để tới Shravasti, thủ đô của vương quốc Koshala.
Ông Cấp Cô Độc về đó trước để sửa soạn đón tiếp.
Ông cần một tăng sĩ đi cùng.
Bụt cử Thầy Xá Lợi Phất là người rất giỏi trong việc xây dựng tăng thân, đi cùng với ông Cấp Cô Độc.
Hai vị, một tăng sĩ và một cư sĩ đó, chẳng bao lâu trở nên thân thiết với nhau.
Có người nghĩ rằng tu sĩ chỉ thân được với tu sĩ và cư sĩ cũng chỉ gần được cư sĩ thôi.
Một khi cả hai cùng có ước vọng tu tập tỉnh thức và nhìn sâu, họ có thể trở thành bạn thân, người cộng sự và bạn đồng tu được.
Người tu sĩ hay cư sĩ đều có thể là người tốt và là bạn thân thiết của nhau. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Khi hỏi cô em vì sao cô không có thì giờ với ông thì cô cho biết cả nhà đang rất bận rộn để sửa soạn đón tiếp Bụt, một vị thầy tuyệt hảo.
Nghe tên Bụt, ông Cấp Cô Độc rất tò mò.
Ông hỏi cô em: “Đó là ai vậy?” Cô liền trả lời ông với giọng rất tôn kính Bụt, khiến cho ông nóng lòng muốn tới thăm Bụt ngay.
Sớm hôm sau, ông Cấp Cô Độc đi tới tu viện Trúc lâm để nghe Bụt thuyết pháp.
Bài giảng đã khiến ông rất xúc động.
Ông Cấp Cô Độc lạy Bụt và thỉnh Ngài tới thuyết giảng tại quê ông để cho gia đình và bạn bè ông được nghe pháp.
Dù Bụt chỉ mới đi thuyết pháp ba năm, Ngài đã có một ngàn hai trăm đệ tử.
Trong số các tăng sĩ cùng du hành với Bụt có Ngài Xá lợi Phất.
Ngài đã nổi tiếng là một vị đại sư trước khi trở thành đệ tử của Bụt.
Khi Thầy Xá Lợi Phất làm môn sinh của Bụt, các sư đệ và môn sinh của Ngài cũng đi theo Ngài.
Bụt nhận lời ông Cấp Cô Độc để tới Shravasti, thủ đô của vương quốc Koshala.
Ông Cấp Cô Độc về đó trước để sửa soạn đón tiếp.
Ông cần một tăng sĩ đi cùng.
Bụt cử Thầy Xá Lợi Phất là người rất giỏi trong việc xây dựng tăng thân, đi cùng với ông Cấp Cô Độc.
Hai vị, một tăng sĩ và một cư sĩ đó, chẳng bao lâu trở nên thân thiết với nhau.
Có người nghĩ rằng tu sĩ chỉ thân được với tu sĩ và cư sĩ cũng chỉ gần được cư sĩ thôi.
Một khi cả hai cùng có ước vọng tu tập tỉnh thức và nhìn sâu, họ có thể trở thành bạn thân, người cộng sự và bạn đồng tu được.
Người tu sĩ hay cư sĩ đều có thể là người tốt và là bạn thân thiết của nhau. | Người tu sĩ hay cư sĩ đều có thể là người tốt và là bạn thân thiết của nhau.
Ông Cấp Cô Độc muốn tặng cho Bụt một miếng đất để xây tu viện tại Kosahala.
Sau khi tìm kiếm nhiều nơi, ông biết chỉ có một khu đất kia là khá đẹp.
Đó là một khu công viên xinh xắn của hoàng thân Kỳ Đà (Jeta).
Ông Cấp Cô Độc rất giàu có, nên tin rằng ông có thể thuyết phục hoàng thân bán miếng đất ấy cho ông.
Ông hoàng đã trồng nhiều thứ cây đẹp đẽ trên miếng đất nên nó đẹp như một cõi thiên đàng.
Khi ông Cấp Cô Độc tới hỏi mua thì hoàng thân từ chối.
Ông trả giá cao hơn nhưng vẫn bị từ chối.
Cuối cùng ông Cấp Cô Độc hỏi: “Hoàng thân muốn bao nhiêu tiền, tôi cũng sẵn sàng trả.” Ông hoàng trả lời: “Nếu ông có thể phủ kín đất bằng cách trải vàng lá lên đó, thì tôi sẽ bán.” Ông Hoàng nói đùa như thế, không ngờ rằng ông Cấp Cô Độc lại nhận lời.
Ông Cấp Cô Độc mang vàng tới trải khắp khu vườn.
Hoàng thân vẫn không muốn bán, nhưng các cố vấn của Ngài nói rằng: “Ngài là hoàng thân quốc thích, thuộc gia đình hoàng tộc, Ngài không thể nuốt lời hứa.”
Hoàng thân Kỳ Đà tự hỏi không hiểu vị thầy tâm linh kia có gì xuất chúng tới độ ông Cấp Cô Độc chịu trả giá cao như thế để mua đất cúng dường.
Mọi người liền nói với Hoàng thân Kỳ Đà về Bụt, một đạo sư trẻ tuổi nhưng hoàn toàn tỉnh thức, và các bài giảng cùng lòng từ bi của Ngài không người nào có thể so sánh được. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Người tu sĩ hay cư sĩ đều có thể là người tốt và là bạn thân thiết của nhau.
Ông Cấp Cô Độc muốn tặng cho Bụt một miếng đất để xây tu viện tại Kosahala.
Sau khi tìm kiếm nhiều nơi, ông biết chỉ có một khu đất kia là khá đẹp.
Đó là một khu công viên xinh xắn của hoàng thân Kỳ Đà (Jeta).
Ông Cấp Cô Độc rất giàu có, nên tin rằng ông có thể thuyết phục hoàng thân bán miếng đất ấy cho ông.
Ông hoàng đã trồng nhiều thứ cây đẹp đẽ trên miếng đất nên nó đẹp như một cõi thiên đàng.
Khi ông Cấp Cô Độc tới hỏi mua thì hoàng thân từ chối.
Ông trả giá cao hơn nhưng vẫn bị từ chối.
Cuối cùng ông Cấp Cô Độc hỏi: “Hoàng thân muốn bao nhiêu tiền, tôi cũng sẵn sàng trả.” Ông hoàng trả lời: “Nếu ông có thể phủ kín đất bằng cách trải vàng lá lên đó, thì tôi sẽ bán.” Ông Hoàng nói đùa như thế, không ngờ rằng ông Cấp Cô Độc lại nhận lời.
Ông Cấp Cô Độc mang vàng tới trải khắp khu vườn.
Hoàng thân vẫn không muốn bán, nhưng các cố vấn của Ngài nói rằng: “Ngài là hoàng thân quốc thích, thuộc gia đình hoàng tộc, Ngài không thể nuốt lời hứa.”
Hoàng thân Kỳ Đà tự hỏi không hiểu vị thầy tâm linh kia có gì xuất chúng tới độ ông Cấp Cô Độc chịu trả giá cao như thế để mua đất cúng dường.
Mọi người liền nói với Hoàng thân Kỳ Đà về Bụt, một đạo sư trẻ tuổi nhưng hoàn toàn tỉnh thức, và các bài giảng cùng lòng từ bi của Ngài không người nào có thể so sánh được. | Mọi người liền nói với Hoàng thân Kỳ Đà về Bụt, một đạo sư trẻ tuổi nhưng hoàn toàn tỉnh thức, và các bài giảng cùng lòng từ bi của Ngài không người nào có thể so sánh được.
Thấy được sự kính tín và ngưỡng mộ của ông Cấp Cô Độc, Hoàng thân Kỳ Đà bảo ông ngừng, không cần trải thêm vàng ra nữa và nói: “Ông trả như vậy là quá đủ để mua đất rồi.
Tôi xin tặng Bụt tất cả cây cối tôi đã trồng, coi như tôi cúng dường Ngài.” Vì thế nên người ta gọi đó là vườn Kỳ Đà - Cấp Cô Độc.
Vườn do ông Cấp Cô Độc và cây do Hoàng thân Kỳ Đà hiến tặng cho Bụt.
Bụt rất thích khu vườn này và Ngài ở đó tới hai mươi mùa mưa an cư.
Bạn có thể tới viếng khu này và nay vẫn còn thấy những dấu tích cổ của các tu viện cổ tại đó.
Trong suốt các năm sau khi gặp Bụt, ông Cấp Cô Độc vẫn tiếp tục công việc giúp người nghèo và hỗ trợ Bụt, Pháp và Tăng.
Cả gia đình ông hàng tuần tới vườn Kỳ Đà nghe pháp và thực tập tỉnh thức.
Ông thường dẫn các bạn cùng ngành thương mại tới nghe Bụt giảng dạy.
Một lần ông dẫn tới hơn năm trăm thương gia để nghe Bụt dạy các cư sĩ thực tập chánh niệm.
Đa số các bạn ông thọ nhận ngũ giới.
Suốt cuộc đời, ông Cấp Cô Độc rất an lạc và hạnh phúc trong việc hỗ trợ Bụt, Pháp và Tăng.
Dù có nhiều thành công, ông Cấp Cô Độc cũng đã gặp nhiều khó khăn trong cuộc đời.
Có lần mất hết tài sản, sau nhờ các người cộng sự và bè bạn, ông lại trở nên giàu có.
Ba mươi lăm năm sau khi gặp Bụt lần đầu, ông Cấp Cô Độc bị đau nặng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Mọi người liền nói với Hoàng thân Kỳ Đà về Bụt, một đạo sư trẻ tuổi nhưng hoàn toàn tỉnh thức, và các bài giảng cùng lòng từ bi của Ngài không người nào có thể so sánh được.
Thấy được sự kính tín và ngưỡng mộ của ông Cấp Cô Độc, Hoàng thân Kỳ Đà bảo ông ngừng, không cần trải thêm vàng ra nữa và nói: “Ông trả như vậy là quá đủ để mua đất rồi.
Tôi xin tặng Bụt tất cả cây cối tôi đã trồng, coi như tôi cúng dường Ngài.” Vì thế nên người ta gọi đó là vườn Kỳ Đà - Cấp Cô Độc.
Vườn do ông Cấp Cô Độc và cây do Hoàng thân Kỳ Đà hiến tặng cho Bụt.
Bụt rất thích khu vườn này và Ngài ở đó tới hai mươi mùa mưa an cư.
Bạn có thể tới viếng khu này và nay vẫn còn thấy những dấu tích cổ của các tu viện cổ tại đó.
Trong suốt các năm sau khi gặp Bụt, ông Cấp Cô Độc vẫn tiếp tục công việc giúp người nghèo và hỗ trợ Bụt, Pháp và Tăng.
Cả gia đình ông hàng tuần tới vườn Kỳ Đà nghe pháp và thực tập tỉnh thức.
Ông thường dẫn các bạn cùng ngành thương mại tới nghe Bụt giảng dạy.
Một lần ông dẫn tới hơn năm trăm thương gia để nghe Bụt dạy các cư sĩ thực tập chánh niệm.
Đa số các bạn ông thọ nhận ngũ giới.
Suốt cuộc đời, ông Cấp Cô Độc rất an lạc và hạnh phúc trong việc hỗ trợ Bụt, Pháp và Tăng.
Dù có nhiều thành công, ông Cấp Cô Độc cũng đã gặp nhiều khó khăn trong cuộc đời.
Có lần mất hết tài sản, sau nhờ các người cộng sự và bè bạn, ông lại trở nên giàu có.
Ba mươi lăm năm sau khi gặp Bụt lần đầu, ông Cấp Cô Độc bị đau nặng. | Có lần mất hết tài sản, sau nhờ các người cộng sự và bè bạn, ông lại trở nên giàu có.
Ba mươi lăm năm sau khi gặp Bụt lần đầu, ông Cấp Cô Độc bị đau nặng.
Nghe tin ông bị ốm, Bụt tới thăm ông và nhắc ông thực tập thở khi nằm trên giường bệnh.
Rồi Bụt cử Thầy Xá Lợi Phất chăm sóc cho người bạn thân của Thầy.
Bụt bảo Thầy Xá Lợi Phất ở lại Koshala với ông Cấp Cô Độc để giúp ông chết một cách bình an.
Khi Thầy Xá Lợi Phất biết tin ông Cấp Cô Độc đang tiến dần tới cái chết, Ngài mời người sư đệ Ananda cùng đi thăm ông với Ngài.
Ananda là anh em bà con của Bụt và là người nhớ hết tất cả những bài giảng của Bụt.
Ngài là cái duyên chính khiến chúng ta được học giáo pháp của Bụt ngày nay.
Sau buổi khất thực, hai Ngài tới thăm ông Cấp Cô Độc tại nhà ông.
Khi hai vị tăng tới nơi, ông Cấp Cô Độc rất vui sướng được gặp hai người, vì ông cảm thấy rất cần gặp quý vị đó.
Ông cố hết sức để ngồi dậy đón tiếp hai Thầy cho phải phép, nhưng ông quá yếu nên không thể ngồi lên.
Thầy Xá Lợi Phật nói: “Ông bạn ơi, đừng cố ngồi dậy làm gì.
Hãy cứ nằm yên, chúng tôi sẽ mang ghế tới ngồi cạnh ông đây.” Rồi Thầy Xá Lợi Phất hỏi: “Ông bạn cảm thấy thế nào?
Cái đau nó tăng hay giảm?”
Ông Cấp Cô Độc trả lời: “Thưa Thầy, hình như cái đau trong thân tôi không giảm mà tăng lên hoài.”
Thầy Xá Lợi Phất liền nói: “Như vậy, tôi đề nghị ông thực tập thiền quán về Tam Bảo nhé.” Thầy giúp ông Cấp Cô Độc thiền quán về Bụt, Pháp và Tăng với sự trợ giúp của Thầy Ananda ngồi kế bên. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Có lần mất hết tài sản, sau nhờ các người cộng sự và bè bạn, ông lại trở nên giàu có.
Ba mươi lăm năm sau khi gặp Bụt lần đầu, ông Cấp Cô Độc bị đau nặng.
Nghe tin ông bị ốm, Bụt tới thăm ông và nhắc ông thực tập thở khi nằm trên giường bệnh.
Rồi Bụt cử Thầy Xá Lợi Phất chăm sóc cho người bạn thân của Thầy.
Bụt bảo Thầy Xá Lợi Phất ở lại Koshala với ông Cấp Cô Độc để giúp ông chết một cách bình an.
Khi Thầy Xá Lợi Phất biết tin ông Cấp Cô Độc đang tiến dần tới cái chết, Ngài mời người sư đệ Ananda cùng đi thăm ông với Ngài.
Ananda là anh em bà con của Bụt và là người nhớ hết tất cả những bài giảng của Bụt.
Ngài là cái duyên chính khiến chúng ta được học giáo pháp của Bụt ngày nay.
Sau buổi khất thực, hai Ngài tới thăm ông Cấp Cô Độc tại nhà ông.
Khi hai vị tăng tới nơi, ông Cấp Cô Độc rất vui sướng được gặp hai người, vì ông cảm thấy rất cần gặp quý vị đó.
Ông cố hết sức để ngồi dậy đón tiếp hai Thầy cho phải phép, nhưng ông quá yếu nên không thể ngồi lên.
Thầy Xá Lợi Phật nói: “Ông bạn ơi, đừng cố ngồi dậy làm gì.
Hãy cứ nằm yên, chúng tôi sẽ mang ghế tới ngồi cạnh ông đây.” Rồi Thầy Xá Lợi Phất hỏi: “Ông bạn cảm thấy thế nào?
Cái đau nó tăng hay giảm?”
Ông Cấp Cô Độc trả lời: “Thưa Thầy, hình như cái đau trong thân tôi không giảm mà tăng lên hoài.”
Thầy Xá Lợi Phất liền nói: “Như vậy, tôi đề nghị ông thực tập thiền quán về Tam Bảo nhé.” Thầy giúp ông Cấp Cô Độc thiền quán về Bụt, Pháp và Tăng với sự trợ giúp của Thầy Ananda ngồi kế bên. | Thầy Xá Lợi Phất liền nói: “Như vậy, tôi đề nghị ông thực tập thiền quán về Tam Bảo nhé.” Thầy giúp ông Cấp Cô Độc thiền quán về Bụt, Pháp và Tăng với sự trợ giúp của Thầy Ananda ngồi kế bên.
Thầy Xá Lợi Phất được coi là vị đệ tử xuất sắc nhất của Bụt, như là cánh tay mặt của Bụt vậy.
Ngài là sư huynh của hàng ngàn tăng ni.
Ngài biết ông Cấp Cô Độc đã có nhiều năm hạnh phúc khi hỗ trợ Bụt, Pháp và Tăng.
Ngài cũng biết rằng khi thiền quán về Tam bảo, ông Cấp Cô Độc sẽ tưới tẩm được các hạt giống hạnh phúc trong ông, ngay lúc khó khăn này.
Ngài cùng ông Cấp Cô Độc thiền quán nhớ tưởng tới bản chất huyền diệu của Bụt, Pháp và Tăng.
Chỉ sau sáu phút cơn đau của ông Cấp Cô Độc đã đỡ nhiều vì hạt giống an lạc trong ông đã được tưới tẩm.
Cơ thể ông được quân bình lại và ông Cấp Cô Độc mỉm cười.
Tưới tẩm những hạt giống của hạnh phúc là việc rất quan trọng cho người bệnh hay người sắp lìa đời.
Tất cả chúng ta đều có những hạt giống hạnh phúc trong mình.
Trong những lúc khó khăn như đau ốm hay sắp chết, cần có bạn bè ngồi với ta để giúp ta tiếp xúc được với những hạt giống tốt đó.
Nếu không các hạt giống sợ hãi, hối tiếc hay thất vọng sẽ xâm chiếm chúng ta dễ dàng.
Khi ông Cấp Cô Độc có thể mỉm cười, Thầy Xá Lợi Phất biết đã có sự quân bằng giữa cái đau và niềm vui.
Ngài mời ông Cấp Cô Độc tiếp tục thiền quán theo Ngài hướng dẫn.
“Bạn hãy thực tập theo tôi và Ananda như sau: Thở vào tôi thấy thân này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào nơi thân này.
Tôi là sự sống thênh thang. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thầy Xá Lợi Phất liền nói: “Như vậy, tôi đề nghị ông thực tập thiền quán về Tam Bảo nhé.” Thầy giúp ông Cấp Cô Độc thiền quán về Bụt, Pháp và Tăng với sự trợ giúp của Thầy Ananda ngồi kế bên.
Thầy Xá Lợi Phất được coi là vị đệ tử xuất sắc nhất của Bụt, như là cánh tay mặt của Bụt vậy.
Ngài là sư huynh của hàng ngàn tăng ni.
Ngài biết ông Cấp Cô Độc đã có nhiều năm hạnh phúc khi hỗ trợ Bụt, Pháp và Tăng.
Ngài cũng biết rằng khi thiền quán về Tam bảo, ông Cấp Cô Độc sẽ tưới tẩm được các hạt giống hạnh phúc trong ông, ngay lúc khó khăn này.
Ngài cùng ông Cấp Cô Độc thiền quán nhớ tưởng tới bản chất huyền diệu của Bụt, Pháp và Tăng.
Chỉ sau sáu phút cơn đau của ông Cấp Cô Độc đã đỡ nhiều vì hạt giống an lạc trong ông đã được tưới tẩm.
Cơ thể ông được quân bình lại và ông Cấp Cô Độc mỉm cười.
Tưới tẩm những hạt giống của hạnh phúc là việc rất quan trọng cho người bệnh hay người sắp lìa đời.
Tất cả chúng ta đều có những hạt giống hạnh phúc trong mình.
Trong những lúc khó khăn như đau ốm hay sắp chết, cần có bạn bè ngồi với ta để giúp ta tiếp xúc được với những hạt giống tốt đó.
Nếu không các hạt giống sợ hãi, hối tiếc hay thất vọng sẽ xâm chiếm chúng ta dễ dàng.
Khi ông Cấp Cô Độc có thể mỉm cười, Thầy Xá Lợi Phất biết đã có sự quân bằng giữa cái đau và niềm vui.
Ngài mời ông Cấp Cô Độc tiếp tục thiền quán theo Ngài hướng dẫn.
“Bạn hãy thực tập theo tôi và Ananda như sau: Thở vào tôi thấy thân này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào nơi thân này.
Tôi là sự sống thênh thang. | “Bạn hãy thực tập theo tôi và Ananda như sau: Thở vào tôi thấy thân này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào nơi thân này.
Tôi là sự sống thênh thang.
Tôi chưa bao giờ từng sinh cũng chưa bao giờ từng diệt.”
Khi bạn sắp chết, có lẽ bạn không tỉnh thức gì mấy về cái thân mình.
Bạn có thể bị tê bại, và bạn bị kẹt vào ý niệm cái thân ấy là bạn.
Bạn bị kẹt vào ý tưởng là khi thân đó chết thì bạn cũng bị diệt.
Vì vậy mà bạn sợ hãi.
Bạn sợ trở thành hư vô.
Sự hoại diệt của cái thân người không thể đụng tới bản chất thật sự của người đó.
Bạn cần giải thích cho người đó hiểu rằng anh ta có một đời sống không có giới hạn.
Cái thân này chỉ là một biểu hiện, như đám mây.
Khi đám mây không còn là mây nữa, nó cũng không mất đi đâu hết.
Nó không trở thành hư không mà chỉ chuyển hóa ra thành mưa mà thôi.
Vậy thì ta không nên đồng hóa ta với cái thân này.
“Thân này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào nơi thân ấy.
Tôi là sự sống thênh thang.”
Thật vậy, ta cần bắt đầu thực tập với mắt, rồi mũi, tai, lưỡi, thân và ý.
“Mắt này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào đôi mắt này.
Tôi là sự sống thênh thang.
Tai này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào đôi tai này.
Tôi là sự sống thênh thang.
Mũi này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào cái mũi này.
Tôi là sự sống thênh thang... ”
Thực tập như vậy giúp ta không tự đồng hóa mình với cặp mắt, đôi tai, cái lưỡi, cái mũi hay cái thân mình.
Ta khám phá ra các thức của những ngũ quan đó và thấy ta không phải chỉ là các giác quan. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | “Bạn hãy thực tập theo tôi và Ananda như sau: Thở vào tôi thấy thân này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào nơi thân này.
Tôi là sự sống thênh thang.
Tôi chưa bao giờ từng sinh cũng chưa bao giờ từng diệt.”
Khi bạn sắp chết, có lẽ bạn không tỉnh thức gì mấy về cái thân mình.
Bạn có thể bị tê bại, và bạn bị kẹt vào ý niệm cái thân ấy là bạn.
Bạn bị kẹt vào ý tưởng là khi thân đó chết thì bạn cũng bị diệt.
Vì vậy mà bạn sợ hãi.
Bạn sợ trở thành hư vô.
Sự hoại diệt của cái thân người không thể đụng tới bản chất thật sự của người đó.
Bạn cần giải thích cho người đó hiểu rằng anh ta có một đời sống không có giới hạn.
Cái thân này chỉ là một biểu hiện, như đám mây.
Khi đám mây không còn là mây nữa, nó cũng không mất đi đâu hết.
Nó không trở thành hư không mà chỉ chuyển hóa ra thành mưa mà thôi.
Vậy thì ta không nên đồng hóa ta với cái thân này.
“Thân này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào nơi thân ấy.
Tôi là sự sống thênh thang.”
Thật vậy, ta cần bắt đầu thực tập với mắt, rồi mũi, tai, lưỡi, thân và ý.
“Mắt này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào đôi mắt này.
Tôi là sự sống thênh thang.
Tai này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào đôi tai này.
Tôi là sự sống thênh thang.
Mũi này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào cái mũi này.
Tôi là sự sống thênh thang... ”
Thực tập như vậy giúp ta không tự đồng hóa mình với cặp mắt, đôi tai, cái lưỡi, cái mũi hay cái thân mình.
Ta khám phá ra các thức của những ngũ quan đó và thấy ta không phải chỉ là các giác quan. | Thực tập như vậy giúp ta không tự đồng hóa mình với cặp mắt, đôi tai, cái lưỡi, cái mũi hay cái thân mình.
Ta khám phá ra các thức của những ngũ quan đó và thấy ta không phải chỉ là các giác quan.
Ta phong phú hơn sự biểu hiện của các giác quan đó nhiều.
Sự ngừng bặt của các biểu hiện kia không ảnh hưởng tới ta.
Chúng ta nhìn lại coi cái gì là tự tánh của ta.
Trên cơ thể và giác quan, có ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành và thức.
Nhìn sâu vào từng uẩn, ta nói: “Những thứ đó không phải là ta.” Nhận thức, cảm thọ, tư tưởng tới rồi đi, đó không thể là ta được.
Tâm thức cũng như vậy, chỉ là những biểu hiện.
Khi các duyên đầy đủ thì chúng biểu hiện.
Khi duyên không còn đầy đủ thì chúng không biểu hiện.
Dù có biểu hiện ra hay không, những thứ đó cũng không phải là ta.
Thầy Xá Lợi Phất hướng dẫn ông Cấp Cô Độc qua các thức của giác quan và qua năm uẩn, và ông Cấp Cô Độc thấy chúng không phải là mình.
Sau đó Thầy Xá Lợi Phất hướng dẫn ông thiền quán về tứ đại.
Thầy nói với ông Cấp Cô Độc: “Bạn ơi, chúng ta hãy tiếp tục thiền quán.
Đất không phải là tôi (đất đây nghĩa là tất cả các chất rắn như thịt, xương, các cơ quan, bắp thịt).
Lửa hay hơi nóng để giữ cho thân ấm áp và tiêu thức ăn không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào yếu tố lửa hay hơi nóng đó.
Chất nước trong tôi không phải là tôi.
Có nước cùng khắp trong thân tôi, nhưng tôi không bị ràng buộc vào nó.
Gió hay không khí trong tôi cũng không phải là tôi vì tôi không bị kiềm tỏa bởi biên giới nào hết.” Thầy Xá Lợi Phất tiếp tục như thế. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thực tập như vậy giúp ta không tự đồng hóa mình với cặp mắt, đôi tai, cái lưỡi, cái mũi hay cái thân mình.
Ta khám phá ra các thức của những ngũ quan đó và thấy ta không phải chỉ là các giác quan.
Ta phong phú hơn sự biểu hiện của các giác quan đó nhiều.
Sự ngừng bặt của các biểu hiện kia không ảnh hưởng tới ta.
Chúng ta nhìn lại coi cái gì là tự tánh của ta.
Trên cơ thể và giác quan, có ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành và thức.
Nhìn sâu vào từng uẩn, ta nói: “Những thứ đó không phải là ta.” Nhận thức, cảm thọ, tư tưởng tới rồi đi, đó không thể là ta được.
Tâm thức cũng như vậy, chỉ là những biểu hiện.
Khi các duyên đầy đủ thì chúng biểu hiện.
Khi duyên không còn đầy đủ thì chúng không biểu hiện.
Dù có biểu hiện ra hay không, những thứ đó cũng không phải là ta.
Thầy Xá Lợi Phất hướng dẫn ông Cấp Cô Độc qua các thức của giác quan và qua năm uẩn, và ông Cấp Cô Độc thấy chúng không phải là mình.
Sau đó Thầy Xá Lợi Phất hướng dẫn ông thiền quán về tứ đại.
Thầy nói với ông Cấp Cô Độc: “Bạn ơi, chúng ta hãy tiếp tục thiền quán.
Đất không phải là tôi (đất đây nghĩa là tất cả các chất rắn như thịt, xương, các cơ quan, bắp thịt).
Lửa hay hơi nóng để giữ cho thân ấm áp và tiêu thức ăn không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào yếu tố lửa hay hơi nóng đó.
Chất nước trong tôi không phải là tôi.
Có nước cùng khắp trong thân tôi, nhưng tôi không bị ràng buộc vào nó.
Gió hay không khí trong tôi cũng không phải là tôi vì tôi không bị kiềm tỏa bởi biên giới nào hết.” Thầy Xá Lợi Phất tiếp tục như thế. | Gió hay không khí trong tôi cũng không phải là tôi vì tôi không bị kiềm tỏa bởi biên giới nào hết.” Thầy Xá Lợi Phất tiếp tục như thế.
Cuối cùng ông Cấp Cô Độc được hướng dẫn thiền quán về sự tương duyên sinh: “Ông bạn thân, ta hãy nhìn sâu hơn nữa.
Khi nhân duyên đầy đủ, cái thân ta tự nó biểu hiện.
Nó không từ đâu tới, và sau khi hoại diệt nó cũng không đi tới đâu hết.” Khi một sự vật biểu hiện thật sự ta không thấy nó sinh ra.
Khi nó ngừng biểu hiện ta cũng không thể gọi là nó chết đi.
Chúng ta vượt thoát được các ý niệm tới-đi, có-không, sinh-diệt, giống nhau - khác nhau.
Nó cũng giống hệt như bài giảng mà ta đã học quán chiếu về đám mây, ngọn lửa hay hoa hướng dương.
Khi thực tập tới đó, ông Cấp Cô Độc bắt đầu khóc.
Thầy Ananda lấy làm ngạc nhiên.
Thầy Ananda trẻ hơn Thầy Xá Lợi Phất nhiều nên Thầy không thấy được sự chuyển hoá và giải thoát của ông Cấp Cô Độc vào lúc đó.
Thầy nghĩ rằng ông Cấp Cô Độc khóc vì còn tiếc nuối chuyện gì đó hoặc ông đã thực tập không thành công.
Thầy Ananda hỏi: “Tại sao bạn lại khóc?
Bạn có hối tiếc điều gì không?”
Ông Cấp Cô Độc trả lời: “Không, Thầy Ananda, tôi không có gì hối tiếc cả.”
Thầy Ananda lại hỏi: “Hay là bạn thực tập không thành công?”
Ông Cấp Cô Độc trả lời: “Không thưa Thầy Ananda, tôi thực tập rất thành công.”
Thầy Ananda: “Vậy tại sao bạn lại khóc?”
Ông Cấp Cô Độc ràn rụa nước mắt trả lời: “Thầy Ananda ơi, tôi khóc vì tôi sung sướng quá. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Gió hay không khí trong tôi cũng không phải là tôi vì tôi không bị kiềm tỏa bởi biên giới nào hết.” Thầy Xá Lợi Phất tiếp tục như thế.
Cuối cùng ông Cấp Cô Độc được hướng dẫn thiền quán về sự tương duyên sinh: “Ông bạn thân, ta hãy nhìn sâu hơn nữa.
Khi nhân duyên đầy đủ, cái thân ta tự nó biểu hiện.
Nó không từ đâu tới, và sau khi hoại diệt nó cũng không đi tới đâu hết.” Khi một sự vật biểu hiện thật sự ta không thấy nó sinh ra.
Khi nó ngừng biểu hiện ta cũng không thể gọi là nó chết đi.
Chúng ta vượt thoát được các ý niệm tới-đi, có-không, sinh-diệt, giống nhau - khác nhau.
Nó cũng giống hệt như bài giảng mà ta đã học quán chiếu về đám mây, ngọn lửa hay hoa hướng dương.
Khi thực tập tới đó, ông Cấp Cô Độc bắt đầu khóc.
Thầy Ananda lấy làm ngạc nhiên.
Thầy Ananda trẻ hơn Thầy Xá Lợi Phất nhiều nên Thầy không thấy được sự chuyển hoá và giải thoát của ông Cấp Cô Độc vào lúc đó.
Thầy nghĩ rằng ông Cấp Cô Độc khóc vì còn tiếc nuối chuyện gì đó hoặc ông đã thực tập không thành công.
Thầy Ananda hỏi: “Tại sao bạn lại khóc?
Bạn có hối tiếc điều gì không?”
Ông Cấp Cô Độc trả lời: “Không, Thầy Ananda, tôi không có gì hối tiếc cả.”
Thầy Ananda lại hỏi: “Hay là bạn thực tập không thành công?”
Ông Cấp Cô Độc trả lời: “Không thưa Thầy Ananda, tôi thực tập rất thành công.”
Thầy Ananda: “Vậy tại sao bạn lại khóc?”
Ông Cấp Cô Độc ràn rụa nước mắt trả lời: “Thầy Ananda ơi, tôi khóc vì tôi sung sướng quá. | Thầy Ananda: “Vậy tại sao bạn lại khóc?”
Ông Cấp Cô Độc ràn rụa nước mắt trả lời: “Thầy Ananda ơi, tôi khóc vì tôi sung sướng quá.
Tôi đã phục vụ Bụt, Pháp và Tăng ba chục năm qua và tôi chưa bao giờ được giảng dạy và thực tập giáo pháp mầu nhiệm như bài Thầy Xá Lợi Phất mới dạy tôi ngày hôm nay.
Tôi sung sướng quá, tôi thảnh thơi quá!”
Thầy Ananda liền nói với ông: “Bạn không biết rằng các tu sĩ chúng tôi được học giáo pháp này hàng ngày sao?”
Ông Cấp Cô Độc mỉm cười và nhỏ nhẹ nói với giọng yếu ớt: “Xin Thầy Ananda hãy trở về thưa với đức Thế Tôn là tôi hiểu bài giảng này.
Có lẽ nhiều cư sĩ quá bận rộn nên không tiếp nhận và thực hành được giáo pháp này nhưng cũng có nhiều vị có đủ thảnh thơi và thì giờ để học hỏi và tu tập.
Xin đức Thế Tôn hãy dạy giáo pháp này cho các cư sĩ nữa.”
Biết đây là lời yêu cầu cuối cùng của ông Cấp Cô Độc, Thầy Ananda nói: “Dĩ nhiên tôi sẽ làm như bạn yêu cầu, sẽ trình lên đức Thế Tôn ngay khi chúng tôi trở lại tu viện.” Sau khi hai thầy ra về ít lâu, ông Cấp Cô Độc đã chết một cách bình an và không đau đớn.
Câu chuyện này được ghi lại trong “Kinh Dành Cho Người Hấp Hối.” Tôi xin những ai có thể, đều nên học hỏi và hành trì kinh này.
Xin đừng để tới lúc đụng chuyện sống chết mới học và hành kinh đó.
Xin hãy tập nhìn sâu ngay bây giờ để có thể tiếp xúc được với bản chất không sinh - không diệt, không đến - không đi, không giống nhau - không khác nhau.
Làm được như vậy bạn sẽ hết đau buồn, khổ não. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thầy Ananda: “Vậy tại sao bạn lại khóc?”
Ông Cấp Cô Độc ràn rụa nước mắt trả lời: “Thầy Ananda ơi, tôi khóc vì tôi sung sướng quá.
Tôi đã phục vụ Bụt, Pháp và Tăng ba chục năm qua và tôi chưa bao giờ được giảng dạy và thực tập giáo pháp mầu nhiệm như bài Thầy Xá Lợi Phất mới dạy tôi ngày hôm nay.
Tôi sung sướng quá, tôi thảnh thơi quá!”
Thầy Ananda liền nói với ông: “Bạn không biết rằng các tu sĩ chúng tôi được học giáo pháp này hàng ngày sao?”
Ông Cấp Cô Độc mỉm cười và nhỏ nhẹ nói với giọng yếu ớt: “Xin Thầy Ananda hãy trở về thưa với đức Thế Tôn là tôi hiểu bài giảng này.
Có lẽ nhiều cư sĩ quá bận rộn nên không tiếp nhận và thực hành được giáo pháp này nhưng cũng có nhiều vị có đủ thảnh thơi và thì giờ để học hỏi và tu tập.
Xin đức Thế Tôn hãy dạy giáo pháp này cho các cư sĩ nữa.”
Biết đây là lời yêu cầu cuối cùng của ông Cấp Cô Độc, Thầy Ananda nói: “Dĩ nhiên tôi sẽ làm như bạn yêu cầu, sẽ trình lên đức Thế Tôn ngay khi chúng tôi trở lại tu viện.” Sau khi hai thầy ra về ít lâu, ông Cấp Cô Độc đã chết một cách bình an và không đau đớn.
Câu chuyện này được ghi lại trong “Kinh Dành Cho Người Hấp Hối.” Tôi xin những ai có thể, đều nên học hỏi và hành trì kinh này.
Xin đừng để tới lúc đụng chuyện sống chết mới học và hành kinh đó.
Xin hãy tập nhìn sâu ngay bây giờ để có thể tiếp xúc được với bản chất không sinh - không diệt, không đến - không đi, không giống nhau - không khác nhau.
Làm được như vậy bạn sẽ hết đau buồn, khổ não. | Xin hãy tập nhìn sâu ngay bây giờ để có thể tiếp xúc được với bản chất không sinh - không diệt, không đến - không đi, không giống nhau - không khác nhau.
Làm được như vậy bạn sẽ hết đau buồn, khổ não.
Nếu bạn cố gắng thực tập cho tinh chuyên, bạn sẽ nuôi dưỡng được sự vô úy trong bạn.
Bạn sẽ có thể chết một cách bình an và hạnh phúc.
Sống hạnh phúc, chết bình an là chuyện có thể làm được.
Ta sẽ được như thế khi ta nhìn thấy mình tiếp tục biểu hiện trong các hình thái khác.
Ta cũng có thể giúp người khác chết bình an nếu ta có những yếu tố vững chãi và vô úy trong ta.
Bao nhiêu người trong chúng ta có cái sợ sẽ thành hư vô.
Vì sợ hãi mà ta rất đau khổ.
Vì vậy mà ta cần giúp người sắp chết hiểu được cái chân lý: “ta chỉ là sự tiếp nối trong nhiều biểu hiện.” Như vậy ta sẽ không bị chuyện sống chết làm cho ta hoảng sợ, vì ta hiểu đó chỉ là những khái niệm mà thôi.
Đó là một cái nhìn rất quan trọng giúp cho ta hết sợ hãi.
Tôi đã lấy những lời lẽ của bài “Kinh Dành Cho Người Hấp Hối” (Anguttara Nikaya) để làm thành một bài hát.
Đó là một điệu ru, có thể hát cho người sắp chết nghe, khi họ sắp thở hơi cuối cùng:
“Thân này không phải là tôi
Tôi không kẹt vào nơi thân ấy
Tôi là sự sống thênh thang
Tôi chưa bao giờ từng sinh và cũng chưa bao giờ từng diệt
Này kia biển rộng trời cao
Muôn ngàn tinh tú lao xao
Tất cả đều biểu hiện tôi, từ nguồn linh tâm thức
Tự muôn đời tôi vẫn tự do
Tử sinh là cửa ngõ ra vào
Tử sinh là trò chơi cút bắt
Hãy cười cùng tôi
Hãy nắm tay tôi |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Xin hãy tập nhìn sâu ngay bây giờ để có thể tiếp xúc được với bản chất không sinh - không diệt, không đến - không đi, không giống nhau - không khác nhau.
Làm được như vậy bạn sẽ hết đau buồn, khổ não.
Nếu bạn cố gắng thực tập cho tinh chuyên, bạn sẽ nuôi dưỡng được sự vô úy trong bạn.
Bạn sẽ có thể chết một cách bình an và hạnh phúc.
Sống hạnh phúc, chết bình an là chuyện có thể làm được.
Ta sẽ được như thế khi ta nhìn thấy mình tiếp tục biểu hiện trong các hình thái khác.
Ta cũng có thể giúp người khác chết bình an nếu ta có những yếu tố vững chãi và vô úy trong ta.
Bao nhiêu người trong chúng ta có cái sợ sẽ thành hư vô.
Vì sợ hãi mà ta rất đau khổ.
Vì vậy mà ta cần giúp người sắp chết hiểu được cái chân lý: “ta chỉ là sự tiếp nối trong nhiều biểu hiện.” Như vậy ta sẽ không bị chuyện sống chết làm cho ta hoảng sợ, vì ta hiểu đó chỉ là những khái niệm mà thôi.
Đó là một cái nhìn rất quan trọng giúp cho ta hết sợ hãi.
Tôi đã lấy những lời lẽ của bài “Kinh Dành Cho Người Hấp Hối” (Anguttara Nikaya) để làm thành một bài hát.
Đó là một điệu ru, có thể hát cho người sắp chết nghe, khi họ sắp thở hơi cuối cùng:
“Thân này không phải là tôi
Tôi không kẹt vào nơi thân ấy
Tôi là sự sống thênh thang
Tôi chưa bao giờ từng sinh và cũng chưa bao giờ từng diệt
Này kia biển rộng trời cao
Muôn ngàn tinh tú lao xao
Tất cả đều biểu hiện tôi, từ nguồn linh tâm thức
Tự muôn đời tôi vẫn tự do
Tử sinh là cửa ngõ ra vào
Tử sinh là trò chơi cút bắt
Hãy cười cùng tôi
Hãy nắm tay tôi | Muôn ngàn tinh tú lao xao
Tất cả đều biểu hiện tôi, từ nguồn linh tâm thức
Tự muôn đời tôi vẫn tự do
Tử sinh là cửa ngõ ra vào
Tử sinh là trò chơi cút bắt
Hãy cười cùng tôi
Hãy nắm tay tôi
Hãy vẫy tay chào để rồi tức thì gặp lại
Gặp lại hôm nay
Gặp lại ngày mai
Chúng ta sẽ gặp nhau nơi suối nguồn
Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên muôn vàn nẻo sống.”
Hàng thứ nhất có thể được nhắc lại với các chữ: “Mắt này không phải là tôi, tôi không kẹt vào hai mắt đó... Mũi này... Tai này... Lưỡi này... Ý này... Các hình sắc này... Các âm thanh này... ” thay vào chữ “Thân này.”
Khi hát hay đọc bài này cho người hấp hối nghe, ta sẽ giúp họ thoát được ý nghĩ họ có một tự tánh thường hằng dính liền với một phần nào đó trong thân thể của họ.
Tất cả các hợp uẩn đều bị tan rã nhưng bản chất thực của ta sẽ không biến vào quên lãng.
Việc hướng dẫn thiền quán này sẽ giúp ta không bị vướng vào ý niệm ta là cái thân này, ta là cảm xúc hoặc tư tưởng kia.
Thật sự ta không phải là những thứ đó.
Ta là sự sống thênh thang.
Chúng ta không bị kẹt vào sinh, không bị kẹt vào tử, vào có hoặc vào không.
Đó là chân lý của thực tại.
Vậy, xin hãy đừng quá bận rộn trong đời sống hàng ngày.
Xin hãy dành thì giờ thực tập.
Hãy học cách sống hạnh phúc, bình an và sung sướng ngay hôm nay.
Hãy tập nhìn sâu để hiểu được bản chất thật của sinh tử, như vậy bạn sẽ được chết bình an, không sợ hãi.
Đây là điều ai cũng có thể làm được. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Muôn ngàn tinh tú lao xao
Tất cả đều biểu hiện tôi, từ nguồn linh tâm thức
Tự muôn đời tôi vẫn tự do
Tử sinh là cửa ngõ ra vào
Tử sinh là trò chơi cút bắt
Hãy cười cùng tôi
Hãy nắm tay tôi
Hãy vẫy tay chào để rồi tức thì gặp lại
Gặp lại hôm nay
Gặp lại ngày mai
Chúng ta sẽ gặp nhau nơi suối nguồn
Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên muôn vàn nẻo sống.”
Hàng thứ nhất có thể được nhắc lại với các chữ: “Mắt này không phải là tôi, tôi không kẹt vào hai mắt đó... Mũi này... Tai này... Lưỡi này... Ý này... Các hình sắc này... Các âm thanh này... ” thay vào chữ “Thân này.”
Khi hát hay đọc bài này cho người hấp hối nghe, ta sẽ giúp họ thoát được ý nghĩ họ có một tự tánh thường hằng dính liền với một phần nào đó trong thân thể của họ.
Tất cả các hợp uẩn đều bị tan rã nhưng bản chất thực của ta sẽ không biến vào quên lãng.
Việc hướng dẫn thiền quán này sẽ giúp ta không bị vướng vào ý niệm ta là cái thân này, ta là cảm xúc hoặc tư tưởng kia.
Thật sự ta không phải là những thứ đó.
Ta là sự sống thênh thang.
Chúng ta không bị kẹt vào sinh, không bị kẹt vào tử, vào có hoặc vào không.
Đó là chân lý của thực tại.
Vậy, xin hãy đừng quá bận rộn trong đời sống hàng ngày.
Xin hãy dành thì giờ thực tập.
Hãy học cách sống hạnh phúc, bình an và sung sướng ngay hôm nay.
Hãy tập nhìn sâu để hiểu được bản chất thật của sinh tử, như vậy bạn sẽ được chết bình an, không sợ hãi.
Đây là điều ai cũng có thể làm được. | Hãy tập nhìn sâu để hiểu được bản chất thật của sinh tử, như vậy bạn sẽ được chết bình an, không sợ hãi.
Đây là điều ai cũng có thể làm được.
Nếu bạn thực tập như vậy, không còn sợ hãi, thì khi có người thân quen sắp chết, bạn có thể giúp họ được.
Bạn phải biết thực sự bạn muốn làm gì và không muốn làm gì.
Bạn là người thông minh nên sẽ biết cách dùng thì giờ một cách khéo léo.
Bạn không cần mất thì giờ để làm những chuyện vô ích và tầm thường.
Bạn không cần giàu có, không cần phải có danh vọng hay quyền hành.
Điều bạn cần là tự do, vững chãi, bình an và hạnh phúc.
Bạn cần có thì giờ và năng lực để có thể chia sẻ những thứ đó với người khác.
Hạnh phúc của chúng ta không tùy thuộc vào chuyện ta có nhiều tiền của hay danh vọng.
Sự an toàn của chúng ta là do ta có thực tập chánh niệm hay không.
Một khi chúng ta có thực tập tỉnh thức thì Bụt, Pháp và Tăng sẽ chăm sóc ta và chúng ta sẽ có hạnh phúc.
Đôi mắt sáng, miệng cười tươi và bước chân ta vững chãi trên con đường thênh thang của cuộc sống tự do.
Hạnh phúc của ta sẽ nở hoa trên những người sống bên cạnh.
Chúng ta sẽ không dùng thì giờ vào những chuyện hời hợt.
Ta dùng thì giờ cho sự tu học để làm cho đời sống ta có phẩm chất hơn.
Đó là món quà quí nhất ta có thể tặng cho con cháu ta.
Đó là những tinh túy ta có thể chia sẻ với bạn bè.
Ta cần có thì giờ để tiếp nhận, học hỏi và thực hành những giáo pháp mầu nhiệm của Bụt, như bài dạy cho ông Cấp Cô Độc vào lúc ông hấp hối. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Hãy tập nhìn sâu để hiểu được bản chất thật của sinh tử, như vậy bạn sẽ được chết bình an, không sợ hãi.
Đây là điều ai cũng có thể làm được.
Nếu bạn thực tập như vậy, không còn sợ hãi, thì khi có người thân quen sắp chết, bạn có thể giúp họ được.
Bạn phải biết thực sự bạn muốn làm gì và không muốn làm gì.
Bạn là người thông minh nên sẽ biết cách dùng thì giờ một cách khéo léo.
Bạn không cần mất thì giờ để làm những chuyện vô ích và tầm thường.
Bạn không cần giàu có, không cần phải có danh vọng hay quyền hành.
Điều bạn cần là tự do, vững chãi, bình an và hạnh phúc.
Bạn cần có thì giờ và năng lực để có thể chia sẻ những thứ đó với người khác.
Hạnh phúc của chúng ta không tùy thuộc vào chuyện ta có nhiều tiền của hay danh vọng.
Sự an toàn của chúng ta là do ta có thực tập chánh niệm hay không.
Một khi chúng ta có thực tập tỉnh thức thì Bụt, Pháp và Tăng sẽ chăm sóc ta và chúng ta sẽ có hạnh phúc.
Đôi mắt sáng, miệng cười tươi và bước chân ta vững chãi trên con đường thênh thang của cuộc sống tự do.
Hạnh phúc của ta sẽ nở hoa trên những người sống bên cạnh.
Chúng ta sẽ không dùng thì giờ vào những chuyện hời hợt.
Ta dùng thì giờ cho sự tu học để làm cho đời sống ta có phẩm chất hơn.
Đó là món quà quí nhất ta có thể tặng cho con cháu ta.
Đó là những tinh túy ta có thể chia sẻ với bạn bè.
Ta cần có thì giờ để tiếp nhận, học hỏi và thực hành những giáo pháp mầu nhiệm của Bụt, như bài dạy cho ông Cấp Cô Độc vào lúc ông hấp hối. | Đó là những tinh túy ta có thể chia sẻ với bạn bè.
Ta cần có thì giờ để tiếp nhận, học hỏi và thực hành những giáo pháp mầu nhiệm của Bụt, như bài dạy cho ông Cấp Cô Độc vào lúc ông hấp hối.
Nương tựa vào gia đình, bè bạn và cộng đồng, tăng thân, ta thay đổi cuộc đời mình.
Ta phải sống an vui ngay được chứ không đợi tới mai sau.
Ta phải bắt đầu ngay lúc này, tại đây, sống an lạc vui vẻ ngay bây giờ.
Không có con đường dẫn tới hạnh phúc, hạnh phúc chính là con đường mình đi.
Bài giảng của Thầy Xá Lợi Phất có thể tặng cho bất cứ ai.
Ông Cấp Cơ Độc rất may mắn nhận được giáo pháp đó vào lúc cuối đời.
Mọi chuyện đều vô thường và ta không thể biết lúc nào ta sẽ thở hơi cuối cùng.
Ta có thể sẽ không may mắn như ông Cấp Cô Độc, có người bạn tâm linh bên cạnh để hướng dẫn khi ta sắp chết.
Vì vậy ta không nên để quá trễ.
Ta nên thực tập ngay để có thể tự hướng dẫn mình.
Câu chuyện về cái chết thời nay
Vào đầu thập niên 1990, trên đường tới trung tâm Omega thuộc tiểu bang Nữu Ước để hướng dẫn một khóa tu, tôi nhận được tin một người bạn cũ đang nằm hấp hối trong bệnh viện ở ngay phía bắc thành phố Nữu Ước.
Ông ta tên là Alfred Hassler.
Ông đã từng là giám đốc tổ chức Hòa Giải.
Trong những năm 1966 - 1967, ông và tôi thường đồng hành trên nhiều quốc gia để cố gắng vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam.
Sau này khi tôi không được phép trở về xứ nữa, tôi đã nói cho thế giới biết về các hành động vi phạm nhân quyền của cả hai miền Nam Bắc Việt. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Đó là những tinh túy ta có thể chia sẻ với bạn bè.
Ta cần có thì giờ để tiếp nhận, học hỏi và thực hành những giáo pháp mầu nhiệm của Bụt, như bài dạy cho ông Cấp Cô Độc vào lúc ông hấp hối.
Nương tựa vào gia đình, bè bạn và cộng đồng, tăng thân, ta thay đổi cuộc đời mình.
Ta phải sống an vui ngay được chứ không đợi tới mai sau.
Ta phải bắt đầu ngay lúc này, tại đây, sống an lạc vui vẻ ngay bây giờ.
Không có con đường dẫn tới hạnh phúc, hạnh phúc chính là con đường mình đi.
Bài giảng của Thầy Xá Lợi Phất có thể tặng cho bất cứ ai.
Ông Cấp Cơ Độc rất may mắn nhận được giáo pháp đó vào lúc cuối đời.
Mọi chuyện đều vô thường và ta không thể biết lúc nào ta sẽ thở hơi cuối cùng.
Ta có thể sẽ không may mắn như ông Cấp Cô Độc, có người bạn tâm linh bên cạnh để hướng dẫn khi ta sắp chết.
Vì vậy ta không nên để quá trễ.
Ta nên thực tập ngay để có thể tự hướng dẫn mình.
Câu chuyện về cái chết thời nay
Vào đầu thập niên 1990, trên đường tới trung tâm Omega thuộc tiểu bang Nữu Ước để hướng dẫn một khóa tu, tôi nhận được tin một người bạn cũ đang nằm hấp hối trong bệnh viện ở ngay phía bắc thành phố Nữu Ước.
Ông ta tên là Alfred Hassler.
Ông đã từng là giám đốc tổ chức Hòa Giải.
Trong những năm 1966 - 1967, ông và tôi thường đồng hành trên nhiều quốc gia để cố gắng vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam.
Sau này khi tôi không được phép trở về xứ nữa, tôi đã nói cho thế giới biết về các hành động vi phạm nhân quyền của cả hai miền Nam Bắc Việt. | Sau này khi tôi không được phép trở về xứ nữa, tôi đã nói cho thế giới biết về các hành động vi phạm nhân quyền của cả hai miền Nam Bắc Việt.
Hassler đã thay tôi qua Việt Nam để điều hợp các công việc tại đó.
Ông giúp các bạn tôi dựng những khu trại giúp nạn nhân chiến tranh.
Chúng tôi cùng nhau nuôi khoảng 8 ngàn trẻ mồ côi.
Khi tôi tới Mỹ vào năm 1966, hội Thân hữu Hòa Giải tổ chức các buổi nói chuyện cho tôi.
Khi cô Chân Không và tôi tới bệnh viện, Alfred đã hôn mê.
Vợ ông Dorothy, và con gái Laura của ông có mặt bên ông.
Laura là người làm việc tình nguyện cho phái đoàn Phật giáo Hòa Bình, khi cô còn rất trẻ.
Khi Dorothy và Laura nhìn thấy chúng tôi, họ rất sung sướng.
Laura ráng gọi để cha cô tỉnh lại: “Ba ơi, Thầy tới này - Cô Chân Không có đây này!” Nhưng Alfred không tỉnh lại, ông vẫn chìm trong cơn mê.
Tôi bảo cô Chân Không hát cho ông ta nghe.
Người sắp chết vẫn có khả năng nghe, dù ta không thấy được điều đó.
Cô Chân Không bắt đầu hát: “Thân này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào nơi thân ấy.
Tôi là sự sống thênh thang.
Tôi chưa bao giờ từng sinh cũng chưa bao giờ từng diệt.” Cô hát lại lần thứ hai, lần thứ ba.
Giữa bài lần sau này, Alfred tỉnh lại, mở mắt ra.
Laura rất sung sướng, cô bé gọi: “Ba, ba biết là Thầy có đây không?
Ba có biết Sư cô Chân Không cũng có đây không?” Alfred không nói được tiếng nào.
Nhìn vào mắt ông chúng tôi hiểu là ông biết chúng tôi đang có mặt. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Sau này khi tôi không được phép trở về xứ nữa, tôi đã nói cho thế giới biết về các hành động vi phạm nhân quyền của cả hai miền Nam Bắc Việt.
Hassler đã thay tôi qua Việt Nam để điều hợp các công việc tại đó.
Ông giúp các bạn tôi dựng những khu trại giúp nạn nhân chiến tranh.
Chúng tôi cùng nhau nuôi khoảng 8 ngàn trẻ mồ côi.
Khi tôi tới Mỹ vào năm 1966, hội Thân hữu Hòa Giải tổ chức các buổi nói chuyện cho tôi.
Khi cô Chân Không và tôi tới bệnh viện, Alfred đã hôn mê.
Vợ ông Dorothy, và con gái Laura của ông có mặt bên ông.
Laura là người làm việc tình nguyện cho phái đoàn Phật giáo Hòa Bình, khi cô còn rất trẻ.
Khi Dorothy và Laura nhìn thấy chúng tôi, họ rất sung sướng.
Laura ráng gọi để cha cô tỉnh lại: “Ba ơi, Thầy tới này - Cô Chân Không có đây này!” Nhưng Alfred không tỉnh lại, ông vẫn chìm trong cơn mê.
Tôi bảo cô Chân Không hát cho ông ta nghe.
Người sắp chết vẫn có khả năng nghe, dù ta không thấy được điều đó.
Cô Chân Không bắt đầu hát: “Thân này không phải là tôi.
Tôi không kẹt vào nơi thân ấy.
Tôi là sự sống thênh thang.
Tôi chưa bao giờ từng sinh cũng chưa bao giờ từng diệt.” Cô hát lại lần thứ hai, lần thứ ba.
Giữa bài lần sau này, Alfred tỉnh lại, mở mắt ra.
Laura rất sung sướng, cô bé gọi: “Ba, ba biết là Thầy có đây không?
Ba có biết Sư cô Chân Không cũng có đây không?” Alfred không nói được tiếng nào.
Nhìn vào mắt ông chúng tôi hiểu là ông biết chúng tôi đang có mặt. | Ba có biết Sư cô Chân Không cũng có đây không?” Alfred không nói được tiếng nào.
Nhìn vào mắt ông chúng tôi hiểu là ông biết chúng tôi đang có mặt.
Cô Chân Không bắt đầu nói chuyện với ông về những kinh nghiệm hoạt động chung của chúng tôi cho hòa bình Việt Nam.
“Alfred, ông nhớ thời gian ông ở Saigon và ráng gặp Thầy Trí Quang hay không?
Hoa Kỳ đã quyết định thả bom Hà Nội ngày hôm trước và Thầy Trí Quang giận quá nên nói là sẽ không gặp một người Tây phương nào nữa, dù họ là bồ câu hay diều hâu.”
“Khi ông tới, thầy không mở cửa.
Alfred, ông có nhớ đã ngồi ngoài cửa viết một đoạn ngắn: ‘Tôi là bạn, không phải kẻ thù, tới để giúp cho cuộc chiến sớm chấm dứt trên xứ Thầy.
Tôi sẽ không ăn hay uống gì hết cho tới khi Thầy mở cửa cho tôi.’ Ông đã đẩy thư qua khe cửa, Alfred, ông nhớ không?
Ông đã nói sẽ ngồi đó cho tới khi cửa mở.
Chỉ mười lăm phút sau, Thầy Trí Quang mở cửa, miệng cười tươi để mời ông vô phòng... Alfred, ông có nhớ không?
Khi ở La Mã, có một đêm không ngủ của ba trăm tu sĩ Thiên chúa giáo, mỗi người mang tên một vị sư Việt Nam đã bị tù vì không chịu gia nhập quân đội.”
Sư cô Chân Không tiếp tục nói với Alfred về những niềm vui mà chúng tôi đã cùng trải qua khi vận động hòa bình cho Việt Nam.
Chuyện này có hiệu quả thật mầu nhiệm.
Cô ráng làm như Thầy Xá Lợi Phất làm cho ông Cấp Cô Độc.
Cô cố gắng tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc cho Alfred.
Niềm vui của ông là lý tưởng phụng sự hòa bình và chấm dứt khổ đau cho người khác. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ba có biết Sư cô Chân Không cũng có đây không?” Alfred không nói được tiếng nào.
Nhìn vào mắt ông chúng tôi hiểu là ông biết chúng tôi đang có mặt.
Cô Chân Không bắt đầu nói chuyện với ông về những kinh nghiệm hoạt động chung của chúng tôi cho hòa bình Việt Nam.
“Alfred, ông nhớ thời gian ông ở Saigon và ráng gặp Thầy Trí Quang hay không?
Hoa Kỳ đã quyết định thả bom Hà Nội ngày hôm trước và Thầy Trí Quang giận quá nên nói là sẽ không gặp một người Tây phương nào nữa, dù họ là bồ câu hay diều hâu.”
“Khi ông tới, thầy không mở cửa.
Alfred, ông có nhớ đã ngồi ngoài cửa viết một đoạn ngắn: ‘Tôi là bạn, không phải kẻ thù, tới để giúp cho cuộc chiến sớm chấm dứt trên xứ Thầy.
Tôi sẽ không ăn hay uống gì hết cho tới khi Thầy mở cửa cho tôi.’ Ông đã đẩy thư qua khe cửa, Alfred, ông nhớ không?
Ông đã nói sẽ ngồi đó cho tới khi cửa mở.
Chỉ mười lăm phút sau, Thầy Trí Quang mở cửa, miệng cười tươi để mời ông vô phòng... Alfred, ông có nhớ không?
Khi ở La Mã, có một đêm không ngủ của ba trăm tu sĩ Thiên chúa giáo, mỗi người mang tên một vị sư Việt Nam đã bị tù vì không chịu gia nhập quân đội.”
Sư cô Chân Không tiếp tục nói với Alfred về những niềm vui mà chúng tôi đã cùng trải qua khi vận động hòa bình cho Việt Nam.
Chuyện này có hiệu quả thật mầu nhiệm.
Cô ráng làm như Thầy Xá Lợi Phất làm cho ông Cấp Cô Độc.
Cô cố gắng tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc cho Alfred.
Niềm vui của ông là lý tưởng phụng sự hòa bình và chấm dứt khổ đau cho người khác. | Cô ráng làm như Thầy Xá Lợi Phất làm cho ông Cấp Cô Độc.
Cô cố gắng tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc cho Alfred.
Niềm vui của ông là lý tưởng phụng sự hòa bình và chấm dứt khổ đau cho người khác.
Khi những hạt giống hạnh phúc được tưới tẩm, trong ông có sự thăng bằng về khổ và vui, nên ông tỏ ra bớt đau đớn.
Trong khi đó tôi thoa bóp chân Alfred.
Tôi nghĩ là một người hấp hối có thể không có ý thức gì mấy về cơ thể của họ vì nó đã bị tê.
Laura hỏi: “Ba, ba có biết là Thầy đang thoa bóp chân cho ba không?” Ông ta không nói được nhưng nhìn vào mắt ông, chúng tôi biết ông có nhận ra là chúng tôi đang hiện diện.
Bỗng nhiên ông mở miệng kêu lên: “Mầu nhiệm quá, mầu nhiệm quá!” Sau đó ông hôn mê lại và không bao giờ tỉnh nữa.
Đêm hôm đó tôi phải nói Pháp thoại hướng dẫn cho các thiền sinh tại Omega.
Chúng tôi từ biệt họ và bảo Dorothy cùng Laura hãy làm theo tôi và cô Chân Không, hãy nói chuyện và hát cho Alfred.
Sớm hôm sau tôi được tin Alfred đã chết rất bình an vài giờ sau khi chúng tôi rời ông.
Những người bị hôn mê vẫn có cách để nghe chúng ta nếu ta thật sự có mặt một cách bình an bên cạnh họ.
Mười năm trước đây có một sinh viên sống tại Bordeaux, bên Pháp, nghe tin mẹ anh đang hấp hối tại California, anh khóc thật nhiều.
Anh không biết khi bay về tới California thì mẹ còn sống hay không.
Sư cô Chân Không bảo anh bay ngay về và nếu thấy mẹ còn sống thì hãy làm giống như thầy Thầy Xá Lợi Phất đã làm cho ông Cấp Cô Độc. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cô ráng làm như Thầy Xá Lợi Phất làm cho ông Cấp Cô Độc.
Cô cố gắng tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc cho Alfred.
Niềm vui của ông là lý tưởng phụng sự hòa bình và chấm dứt khổ đau cho người khác.
Khi những hạt giống hạnh phúc được tưới tẩm, trong ông có sự thăng bằng về khổ và vui, nên ông tỏ ra bớt đau đớn.
Trong khi đó tôi thoa bóp chân Alfred.
Tôi nghĩ là một người hấp hối có thể không có ý thức gì mấy về cơ thể của họ vì nó đã bị tê.
Laura hỏi: “Ba, ba có biết là Thầy đang thoa bóp chân cho ba không?” Ông ta không nói được nhưng nhìn vào mắt ông, chúng tôi biết ông có nhận ra là chúng tôi đang hiện diện.
Bỗng nhiên ông mở miệng kêu lên: “Mầu nhiệm quá, mầu nhiệm quá!” Sau đó ông hôn mê lại và không bao giờ tỉnh nữa.
Đêm hôm đó tôi phải nói Pháp thoại hướng dẫn cho các thiền sinh tại Omega.
Chúng tôi từ biệt họ và bảo Dorothy cùng Laura hãy làm theo tôi và cô Chân Không, hãy nói chuyện và hát cho Alfred.
Sớm hôm sau tôi được tin Alfred đã chết rất bình an vài giờ sau khi chúng tôi rời ông.
Những người bị hôn mê vẫn có cách để nghe chúng ta nếu ta thật sự có mặt một cách bình an bên cạnh họ.
Mười năm trước đây có một sinh viên sống tại Bordeaux, bên Pháp, nghe tin mẹ anh đang hấp hối tại California, anh khóc thật nhiều.
Anh không biết khi bay về tới California thì mẹ còn sống hay không.
Sư cô Chân Không bảo anh bay ngay về và nếu thấy mẹ còn sống thì hãy làm giống như thầy Thầy Xá Lợi Phất đã làm cho ông Cấp Cô Độc. | Anh không biết khi bay về tới California thì mẹ còn sống hay không.
Sư cô Chân Không bảo anh bay ngay về và nếu thấy mẹ còn sống thì hãy làm giống như thầy Thầy Xá Lợi Phất đã làm cho ông Cấp Cô Độc.
Cô bảo anh ta hãy nói về những kỷ niệm đẹp đẽ giữa hai mẹ con.
Anh cũng nên nhắc tới thời mẹ mới lấy bố và những năm mẹ còn trẻ.
Nói với mẹ như thế, anh sẽ gợi lại cho mẹ những điều làm mẹ vui, dù cho mẹ không còn tỉnh.
Khi anh đó tới nhà thương thì mẹ anh đã hôn mê.
Dù không hoàn toàn tin rằng người mê man có thể nghe được nhưng anh ta đã làm những gì mà sư cô đã căn dặn.
Bác sĩ cho anh biết bà mẹ đã mê cả tuần trước và không hy vọng gì bà sẽ tỉnh lại trước khi chết.
Nhưng sau khi nói chuyện với mẹ khoảng một giờ rưỡi đồng hồ, bà tỉnh lại.
Khi ngồi bên giường người hấp hối, nếu bạn bình tĩnh và thân tâm bạn hoàn toàn hiện diện tại đó, bạn có thể giúp được người đó chết một cách an nhiên.
Vài năm trước đây, Sư cô Chân Không tới thăm chị cô bị đau rất nặng sau khi thay gan.
Sau hai năm cơ thể bà ta từ chối không nhận lá gan mới ghép đó nữa.
Khi vô tới nhà thương, cô Chân Không thấy cả nhà ai cũng như đầu hàng, thấy không còn giúp gì cho bà ấy được.
Dù hôn mê, người bệnh vẫn quằn quại, kêu rên và la hét vì quá đau đớn.
Tất cả các con bà, kể cả người con bác sĩ đều cảm thấy bất lực.
Sư cô Chân Không đã mang tới nhà thương cái băng niệm Bồ tát Quan Thế Âm của tăng ni Làng Mai.
Dù chị cô đã hôn mê, cô vẫn để cho máy chạy, mắc ống nghe vào tai bà và mở cho âm thanh lớn gần tới tối đa. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Anh không biết khi bay về tới California thì mẹ còn sống hay không.
Sư cô Chân Không bảo anh bay ngay về và nếu thấy mẹ còn sống thì hãy làm giống như thầy Thầy Xá Lợi Phất đã làm cho ông Cấp Cô Độc.
Cô bảo anh ta hãy nói về những kỷ niệm đẹp đẽ giữa hai mẹ con.
Anh cũng nên nhắc tới thời mẹ mới lấy bố và những năm mẹ còn trẻ.
Nói với mẹ như thế, anh sẽ gợi lại cho mẹ những điều làm mẹ vui, dù cho mẹ không còn tỉnh.
Khi anh đó tới nhà thương thì mẹ anh đã hôn mê.
Dù không hoàn toàn tin rằng người mê man có thể nghe được nhưng anh ta đã làm những gì mà sư cô đã căn dặn.
Bác sĩ cho anh biết bà mẹ đã mê cả tuần trước và không hy vọng gì bà sẽ tỉnh lại trước khi chết.
Nhưng sau khi nói chuyện với mẹ khoảng một giờ rưỡi đồng hồ, bà tỉnh lại.
Khi ngồi bên giường người hấp hối, nếu bạn bình tĩnh và thân tâm bạn hoàn toàn hiện diện tại đó, bạn có thể giúp được người đó chết một cách an nhiên.
Vài năm trước đây, Sư cô Chân Không tới thăm chị cô bị đau rất nặng sau khi thay gan.
Sau hai năm cơ thể bà ta từ chối không nhận lá gan mới ghép đó nữa.
Khi vô tới nhà thương, cô Chân Không thấy cả nhà ai cũng như đầu hàng, thấy không còn giúp gì cho bà ấy được.
Dù hôn mê, người bệnh vẫn quằn quại, kêu rên và la hét vì quá đau đớn.
Tất cả các con bà, kể cả người con bác sĩ đều cảm thấy bất lực.
Sư cô Chân Không đã mang tới nhà thương cái băng niệm Bồ tát Quan Thế Âm của tăng ni Làng Mai.
Dù chị cô đã hôn mê, cô vẫn để cho máy chạy, mắc ống nghe vào tai bà và mở cho âm thanh lớn gần tới tối đa. | Dù chị cô đã hôn mê, cô vẫn để cho máy chạy, mắc ống nghe vào tai bà và mở cho âm thanh lớn gần tới tối đa.
Năm sáu phút sau, điều kỳ diệu đã xảy ra: chị của sư cô nằm gần như yên lặng, không còn quằn quại kêu la gì nữa hết.
Bà ta được bình an như vậy cho tới lúc lìa đời, khoảng năm ngày sau đó.
Trong năm ngày chót đó, chị của Sư cô đã liên tục nghe tiếng niệm Bồ tát.
Bà ta đã tới chùa nhiều lần và thường nghe niệm như vậy.
Nghe lại khi hấp hối, là tưới tẩm được các hạt giống quý báu và an lạc khi bà còn sống.
Bà ta có đức tin và đã thấy được bình diện tâm linh trong cuộc đời, bà đã nghe tụng niệm và nghe Pháp thoại nhiều lần.
Cái băng và giọng tụng niệm của tăng ni đã khơi dậy những hạt giống hạnh phúc, những hạt giống mà bác sĩ không biết làm sao tiếp xúc cho được.
Ai cũng có thể làm như Sư cô Chân Không, nhưng không có ai nghĩ ra.
Tâm thức của chúng ta giống như cái máy truyền hình có nhiều đài.
Khi ta bấm một cái nút, đài ta chọn sẽ hiện ra.
Khi ta ngồi bên người hấp hối, ta phải biết nên chọn đài nào.
Người thân với bệnh nhân là người tốt nhất để làm việc này.
Nếu bạn ở cạnh người hấp hối, bạn nên dùng các hình ảnh và âm thanh có thể tưới tẩm những giờ phút hạnh phúc nhất của người đó.
Trong tâm thức của ai cũng có những hạt giống của Tịnh độ hay Niết bàn, của vương quốc Thượng đế hay Thiên đàng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Dù chị cô đã hôn mê, cô vẫn để cho máy chạy, mắc ống nghe vào tai bà và mở cho âm thanh lớn gần tới tối đa.
Năm sáu phút sau, điều kỳ diệu đã xảy ra: chị của sư cô nằm gần như yên lặng, không còn quằn quại kêu la gì nữa hết.
Bà ta được bình an như vậy cho tới lúc lìa đời, khoảng năm ngày sau đó.
Trong năm ngày chót đó, chị của Sư cô đã liên tục nghe tiếng niệm Bồ tát.
Bà ta đã tới chùa nhiều lần và thường nghe niệm như vậy.
Nghe lại khi hấp hối, là tưới tẩm được các hạt giống quý báu và an lạc khi bà còn sống.
Bà ta có đức tin và đã thấy được bình diện tâm linh trong cuộc đời, bà đã nghe tụng niệm và nghe Pháp thoại nhiều lần.
Cái băng và giọng tụng niệm của tăng ni đã khơi dậy những hạt giống hạnh phúc, những hạt giống mà bác sĩ không biết làm sao tiếp xúc cho được.
Ai cũng có thể làm như Sư cô Chân Không, nhưng không có ai nghĩ ra.
Tâm thức của chúng ta giống như cái máy truyền hình có nhiều đài.
Khi ta bấm một cái nút, đài ta chọn sẽ hiện ra.
Khi ta ngồi bên người hấp hối, ta phải biết nên chọn đài nào.
Người thân với bệnh nhân là người tốt nhất để làm việc này.
Nếu bạn ở cạnh người hấp hối, bạn nên dùng các hình ảnh và âm thanh có thể tưới tẩm những giờ phút hạnh phúc nhất của người đó.
Trong tâm thức của ai cũng có những hạt giống của Tịnh độ hay Niết bàn, của vương quốc Thượng đế hay Thiên đàng. | Trong tâm thức của ai cũng có những hạt giống của Tịnh độ hay Niết bàn, của vương quốc Thượng đế hay Thiên đàng.
Nếu chúng ta biết thực tập và thấm nhuần thực tại vô sinh bất diệt, nếu ta hiểu được rằng đến-đi, tới-lui chỉ là những ý niệm, và nếu ta hiện diện một cách vững chãi, bình an, thì ta có thể độ được người sắp chết.
Ta có thể giúp họ bớt hẳn sợ hãi và đau khổ.
Ta có thể giúp họ chết một cách bình an.
Ta có thể giúp chính ta hiểu rằng không có sự chết, nghĩa là không có sợ hãi.
Chỉ có sự tiếp tục mà thôi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Lời nói đầu của tác giả
Người tập thiền xưa nay vẫn biết nhìn bằng con mắt của mình và sử dụng ngôn ngữ của thế kỷ mình.
Sở dĩ như vậy vì tuệ giác là một dòng sống linh động chứ không phải là một cổ vật được cất giữ ở viện bảo tàng.
Bằng sự sống của chính mình, người thiền giả khơi nối được dòng tuệ giác và làm cho nó tuôn chảy về những thế hệ tương lai.
Công trình nối đuốc là công trình của tất cả chúng ta, tất cả những ai biết khai phá để mà đi tới.
Cái thấy của chúng ta và ngôn ngữ của chúng ta không thể tách rời ra khỏi thời đại trong đó chúng ta sống.
Ðã từ lâu Ðông Phương theo gót Tây Phương trên con đường văn minh kỹ thuật đến nỗi bỏ lửng công trình khơi mở và tiếp nối những truyền thống đạo học của mình.
Trên thế giới, kỹ thuật vẫn còn là sức mạnh của kinh tế và chinh trị, nhưng khoa học ở tuyến đầu khám phá của nó đã bắt đầu hé thấy những gì mà đạo học Ðông Phương đã từng thực nghiệm từ lâu.
Nếu qua cuộc khủng hoảng lớn lao nầy mà nhân loại còn sống sót được thì hố chia cách giữa khoa học và đạo học sẽ được lấp bằng và Ðông Tây sẽ cùng đi chung trên một con đường khám phá mói: đó là con đường khám phá chân tâm.
Ðã có sẵn hạt giống của nền văn hóa này, chúng ta hãy nhìn xa mà đóng góp ngay từ bây giờ bằng đời sống chính niệm hiện thực của chúng ta cho con đường đi lên đó.
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giả vì kiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày.
Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách. | Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giả vì kiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày.
Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
Nó muốn được là người bạn để nhắc nhở và khích lệ người độc giả trên bước đường thiền quán.
Trong xe buýt hoặc dưới métro, bạn có thể mang nó theo như mang theo một con chó con hoặc như một cây gậy trúc, hoặc một cái nón hay một chiếc khăn choàng.
Nó có thể cho bạn một niềm vui nhỏ bất cứ lúc nào .
Bạn có thể đọc năm bảy dòng rồi gấp nó lại, bỏ nó vào túi, để khi nào có hứng thì đem ra đọc thêm vài dòng khác.
Gặp vài đoạn hơi khó bạn cứ lướt qua để đọc đoạn kế kiếp.
Chừng nào thật rỗi rảnh, bạn hãy trở lại những đoạn ấy.
Bạn sẽ thấy những đoạn ấy không có gì là khó.
Chương 5 tức là chương cuối, rất dễ đọc và rất quan trọng, bạn có thể đọc bất cứ lúc nào.
Bạn hãy soi sáng những đoạn trong cuốn sách bầng kinh nghiệm sống của bạn.
Ðừng bị văn tự khuynh loát ; chế ngự được văn tự mói là bậc trượng phu.
Viết ở Rừng Othes, đầu mùa thu năm Tân Dậu.
Chương 1: Nắng trên lá xanh
Ly nước táo của bé Thủy
Hôm nay có ba em bé, hai gái và một trai, từ dưới làng lên chơi với Thanh Thủy.
Bốn đứa chạy chơi trên khu đồi phía sau nhà khoảng một giờ đồng hồ thì tìm vào để kiếm nước uống.
Tôi đi tìm chai nước táo cuối cùng còn lại và đem rót vào cho mỗi đứa một ly đầy.
Ly chót là của Thanh Thủy.
Ly này lợn cợn xác táo, không trong như ba ly trước.
Thanh Thủy phụng phịu chê, không uống.
Bốn đứa lại chạy lên đồi chơi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giả vì kiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày.
Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
Nó muốn được là người bạn để nhắc nhở và khích lệ người độc giả trên bước đường thiền quán.
Trong xe buýt hoặc dưới métro, bạn có thể mang nó theo như mang theo một con chó con hoặc như một cây gậy trúc, hoặc một cái nón hay một chiếc khăn choàng.
Nó có thể cho bạn một niềm vui nhỏ bất cứ lúc nào .
Bạn có thể đọc năm bảy dòng rồi gấp nó lại, bỏ nó vào túi, để khi nào có hứng thì đem ra đọc thêm vài dòng khác.
Gặp vài đoạn hơi khó bạn cứ lướt qua để đọc đoạn kế kiếp.
Chừng nào thật rỗi rảnh, bạn hãy trở lại những đoạn ấy.
Bạn sẽ thấy những đoạn ấy không có gì là khó.
Chương 5 tức là chương cuối, rất dễ đọc và rất quan trọng, bạn có thể đọc bất cứ lúc nào.
Bạn hãy soi sáng những đoạn trong cuốn sách bầng kinh nghiệm sống của bạn.
Ðừng bị văn tự khuynh loát ; chế ngự được văn tự mói là bậc trượng phu.
Viết ở Rừng Othes, đầu mùa thu năm Tân Dậu.
Chương 1: Nắng trên lá xanh
Ly nước táo của bé Thủy
Hôm nay có ba em bé, hai gái và một trai, từ dưới làng lên chơi với Thanh Thủy.
Bốn đứa chạy chơi trên khu đồi phía sau nhà khoảng một giờ đồng hồ thì tìm vào để kiếm nước uống.
Tôi đi tìm chai nước táo cuối cùng còn lại và đem rót vào cho mỗi đứa một ly đầy.
Ly chót là của Thanh Thủy.
Ly này lợn cợn xác táo, không trong như ba ly trước.
Thanh Thủy phụng phịu chê, không uống.
Bốn đứa lại chạy lên đồi chơi. | Ly chót là của Thanh Thủy.
Ly này lợn cợn xác táo, không trong như ba ly trước.
Thanh Thủy phụng phịu chê, không uống.
Bốn đứa lại chạy lên đồi chơi.
Chừng nửa giờ sau, đang ngồi tĩnh tọa ở phòng bên, tôi nghe tiếng Thủy gọi.
Cô bé muốn vặn nước lạnh trong vòi nước để uống, nhưng nhón gót mà cũng không với tới.
Tôi chỉ lên bàn, bảo: cháu uống ly nước táo này đi.
Ly nước táo bấy giờ trong vắt không còn một tí lợn cợn nào nữa, trông thật ngon lành.
Nó tới gần và đưa hai tay nâng ly nước táo lên uống.
Uống được chừng một phần ba ly, Thủy đặt ly xuống và ngước mắt nhìn tôi: "Có phải đây là một ly nước táo mới không thưa ông?"
Tôi trả lời: "Không, ly nước táo hồi nãy đó.
Nó ngồi yên một lúc lâu cho nên trở thành trong vắt và ngon lành như vậy đó cháu."
Thủy nhìn lại ly nước táo: "Ngon quá ông ơi.
Có phải ly nước táo bắt chước ông đang ngồi thiền không hả ông?”
Tôi bật cười vỗ nhẹ lên đầu nó.
Có lẽ nói rằng tôi đã bắt chước ly nước táo mà ngồi thiền thì đúng hơn.
Tối nào đến giờ bé Thanh Thủy đi ngủ thì tôi cũng ngồi thiền.
Tôi cho nó ngủ ngay trong thiền phòng, gần chỗ tôi ngồi.
Hai ông cháu giao hẹn với nhau là trong khi tôi ngồi thì Thủy nằm mà không lên tiếng hỏi chuyện.
Thường thường thì chỉ chừng năm mười phút sau là Thủy đã ngủ.
Trong khung cảnh thanh tịnh đó, giấc ngủ đến với Thủy một cách dễ dàng.
Mãn giờ thiền tọa, tôi chỉ cần đi lấy một cái mền đắp lên cho nó.
Thanh Thủy là một em bé thuộc giới "thuyền nhân" (boat people) chưa đầy bốn tuổi rưỡi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ly chót là của Thanh Thủy.
Ly này lợn cợn xác táo, không trong như ba ly trước.
Thanh Thủy phụng phịu chê, không uống.
Bốn đứa lại chạy lên đồi chơi.
Chừng nửa giờ sau, đang ngồi tĩnh tọa ở phòng bên, tôi nghe tiếng Thủy gọi.
Cô bé muốn vặn nước lạnh trong vòi nước để uống, nhưng nhón gót mà cũng không với tới.
Tôi chỉ lên bàn, bảo: cháu uống ly nước táo này đi.
Ly nước táo bấy giờ trong vắt không còn một tí lợn cợn nào nữa, trông thật ngon lành.
Nó tới gần và đưa hai tay nâng ly nước táo lên uống.
Uống được chừng một phần ba ly, Thủy đặt ly xuống và ngước mắt nhìn tôi: "Có phải đây là một ly nước táo mới không thưa ông?"
Tôi trả lời: "Không, ly nước táo hồi nãy đó.
Nó ngồi yên một lúc lâu cho nên trở thành trong vắt và ngon lành như vậy đó cháu."
Thủy nhìn lại ly nước táo: "Ngon quá ông ơi.
Có phải ly nước táo bắt chước ông đang ngồi thiền không hả ông?”
Tôi bật cười vỗ nhẹ lên đầu nó.
Có lẽ nói rằng tôi đã bắt chước ly nước táo mà ngồi thiền thì đúng hơn.
Tối nào đến giờ bé Thanh Thủy đi ngủ thì tôi cũng ngồi thiền.
Tôi cho nó ngủ ngay trong thiền phòng, gần chỗ tôi ngồi.
Hai ông cháu giao hẹn với nhau là trong khi tôi ngồi thì Thủy nằm mà không lên tiếng hỏi chuyện.
Thường thường thì chỉ chừng năm mười phút sau là Thủy đã ngủ.
Trong khung cảnh thanh tịnh đó, giấc ngủ đến với Thủy một cách dễ dàng.
Mãn giờ thiền tọa, tôi chỉ cần đi lấy một cái mền đắp lên cho nó.
Thanh Thủy là một em bé thuộc giới "thuyền nhân" (boat people) chưa đầy bốn tuổi rưỡi. | Mãn giờ thiền tọa, tôi chỉ cần đi lấy một cái mền đắp lên cho nó.
Thanh Thủy là một em bé thuộc giới "thuyền nhân" (boat people) chưa đầy bốn tuổi rưỡi.
Nó cùng với bố nó vượt biển sang tới Mã Lai hồi tháng tư năm ngoái.
Mẹ nó bị kẹt lại bên nhà.
Qua tới Pháp, bố nó đem gởi lại Phương Vân Am vài tháng để rảnh rang lên Paris lo giấy tờ và kiếm việc làm.
Tôi dạy cho Thủy vần quốc ngữ và những bài ca dao xưa.
Chỉ trong vòng mười lăm ngày, nó đã đánh vần và đọc từ từ cuốn "Vương Quốc Của Những Người Khùng", truyện ngụ ngôn của Leo Tolstoy, do tôi dịch.
Tối nào Thanh Thủy cũng thấy tôi ngồi.
Tôi bảo nó là tôi "ngồi thiền" và tôi không hề nói cho nó biết ngồi thiền là gì và ngồi như thế để làm gì.
Mỗi tối, khi thấy tôi rửa mặt, mặc áo tràng và đi thắp một cây nhang cho thơm thiền phòng là nó biết tôi sắp đi "ngồi thiền".
Nó cũng biết là đã đến giờ nó phải đi đánh răng, thay áo và leo lên chỗ nằm mà không nói chuyện.
Không lần nào nó đợi tôi nhắc.
Chắc rằng trong cái đầu tí hon của nó, bé Thanh Thủy nghĩ rằng ly nước táo ngồi yên một hồi lâu là để cho nó lắng trở lại, và ông của nó ngồi yên một hồi lâu chắc cũng là để cho lắng trong, cho khỏe khoắn như ly nước táo.
"Có phải ly nước táo bắt chước ông ngồi thiền không hả ông?"
Tôi nghĩ bé Thủy chưa đầy bốn tuổi rưỡi mà đã hiểu thế nào là ngồi thiền mà không cần ai giải thích gì cho nó.
Ly nước táo ngồi lâu thì lắng trong.
Theo cùng một định luật, ngồi lâu thì ta cũng lắng trong.
Lắng trong thì ta sẽ an hòa, khỏe khoắn và tươi mát hơn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Mãn giờ thiền tọa, tôi chỉ cần đi lấy một cái mền đắp lên cho nó.
Thanh Thủy là một em bé thuộc giới "thuyền nhân" (boat people) chưa đầy bốn tuổi rưỡi.
Nó cùng với bố nó vượt biển sang tới Mã Lai hồi tháng tư năm ngoái.
Mẹ nó bị kẹt lại bên nhà.
Qua tới Pháp, bố nó đem gởi lại Phương Vân Am vài tháng để rảnh rang lên Paris lo giấy tờ và kiếm việc làm.
Tôi dạy cho Thủy vần quốc ngữ và những bài ca dao xưa.
Chỉ trong vòng mười lăm ngày, nó đã đánh vần và đọc từ từ cuốn "Vương Quốc Của Những Người Khùng", truyện ngụ ngôn của Leo Tolstoy, do tôi dịch.
Tối nào Thanh Thủy cũng thấy tôi ngồi.
Tôi bảo nó là tôi "ngồi thiền" và tôi không hề nói cho nó biết ngồi thiền là gì và ngồi như thế để làm gì.
Mỗi tối, khi thấy tôi rửa mặt, mặc áo tràng và đi thắp một cây nhang cho thơm thiền phòng là nó biết tôi sắp đi "ngồi thiền".
Nó cũng biết là đã đến giờ nó phải đi đánh răng, thay áo và leo lên chỗ nằm mà không nói chuyện.
Không lần nào nó đợi tôi nhắc.
Chắc rằng trong cái đầu tí hon của nó, bé Thanh Thủy nghĩ rằng ly nước táo ngồi yên một hồi lâu là để cho nó lắng trở lại, và ông của nó ngồi yên một hồi lâu chắc cũng là để cho lắng trong, cho khỏe khoắn như ly nước táo.
"Có phải ly nước táo bắt chước ông ngồi thiền không hả ông?"
Tôi nghĩ bé Thủy chưa đầy bốn tuổi rưỡi mà đã hiểu thế nào là ngồi thiền mà không cần ai giải thích gì cho nó.
Ly nước táo ngồi lâu thì lắng trong.
Theo cùng một định luật, ngồi lâu thì ta cũng lắng trong.
Lắng trong thì ta sẽ an hòa, khỏe khoắn và tươi mát hơn. | Ly nước táo ngồi lâu thì lắng trong.
Theo cùng một định luật, ngồi lâu thì ta cũng lắng trong.
Lắng trong thì ta sẽ an hòa, khỏe khoắn và tươi mát hơn.
Ta tự cảm thấy tươi mát và người chung quanh ta cũng thấy ta tươi mát.
Một em bé ưa tới ngồi gần ta không hẳn là vì ta hay cho nó kẹo hoặc hay kể chuyện đời xưa cho nó nghe.
Có khi nó ưa tới ngồi gần ta chỉ vì ta tươi mát, có thế thôi.
Tối nay, Phương Vân Am có một ông khách.
Tôi rót nước táo còn lại ở trong chai cho đầy một ly và đặt ly nước táo ở trên chiếc bàn giữa thiền phòng.
Tôi mời ông bạn cùng ngồi yên, thật yên, như ly nước táo.
Dòng sông tâm tưởng
Chúng tôi mới ngồi được chừng bốn mươi phút.
Tôi thấy ông bạn đang mỉm cười nhìn ly nước táo.
Ly nước táo đã lắng trong rồi.
Dù chưa được như ly nước táo, nhưng bạn cũng đã thấy thân tâm bạn lắng trong được một phần nào rồi chứ?
Nụ cười chưa tắt trên môi bạn.
Hình như bạn ngờ rằng bạn sẽ không thể nào đạt đến sự lắng trong của ly nước táo dù bạn cố gắng ngồi thêm một vài giờ đồng hồ nữa.
Ly nước táo có một chân lý rất bằng, rất vững.
Còn bạn, bạn chưa có một thế ngồi thật vững chãi.
Trong khi những cái xác táo nhỏ tuyệt đối vâng theo luật tự nhiên mà từ từ để mình rơi nhẹ xuống đáy ly thì tư tưởng của bạn lại như một đàn ong bay loạn xạ lên, không vâng theo một mệnh lệnh nào cả để lắng xuống.
Đó, chính hai điều đó đã gây cho bạn cảm tưởng là bạn sẽ không làm được như ly nước táo. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ly nước táo ngồi lâu thì lắng trong.
Theo cùng một định luật, ngồi lâu thì ta cũng lắng trong.
Lắng trong thì ta sẽ an hòa, khỏe khoắn và tươi mát hơn.
Ta tự cảm thấy tươi mát và người chung quanh ta cũng thấy ta tươi mát.
Một em bé ưa tới ngồi gần ta không hẳn là vì ta hay cho nó kẹo hoặc hay kể chuyện đời xưa cho nó nghe.
Có khi nó ưa tới ngồi gần ta chỉ vì ta tươi mát, có thế thôi.
Tối nay, Phương Vân Am có một ông khách.
Tôi rót nước táo còn lại ở trong chai cho đầy một ly và đặt ly nước táo ở trên chiếc bàn giữa thiền phòng.
Tôi mời ông bạn cùng ngồi yên, thật yên, như ly nước táo.
Dòng sông tâm tưởng
Chúng tôi mới ngồi được chừng bốn mươi phút.
Tôi thấy ông bạn đang mỉm cười nhìn ly nước táo.
Ly nước táo đã lắng trong rồi.
Dù chưa được như ly nước táo, nhưng bạn cũng đã thấy thân tâm bạn lắng trong được một phần nào rồi chứ?
Nụ cười chưa tắt trên môi bạn.
Hình như bạn ngờ rằng bạn sẽ không thể nào đạt đến sự lắng trong của ly nước táo dù bạn cố gắng ngồi thêm một vài giờ đồng hồ nữa.
Ly nước táo có một chân lý rất bằng, rất vững.
Còn bạn, bạn chưa có một thế ngồi thật vững chãi.
Trong khi những cái xác táo nhỏ tuyệt đối vâng theo luật tự nhiên mà từ từ để mình rơi nhẹ xuống đáy ly thì tư tưởng của bạn lại như một đàn ong bay loạn xạ lên, không vâng theo một mệnh lệnh nào cả để lắng xuống.
Đó, chính hai điều đó đã gây cho bạn cảm tưởng là bạn sẽ không làm được như ly nước táo. | Đó, chính hai điều đó đã gây cho bạn cảm tưởng là bạn sẽ không làm được như ly nước táo.
Bạn nói rằng con người là một sinh vật, có tư tưởng và cảm giác, không giống như một ly nước táo.
Nhưng tôi biết rằng mình cũng có thể làm như ly nước táo, và hơn thế nữa, có thể làm hay hơn ly nước táo: bạn có thể đạt tới tình trạng lắng trong không những trong tư thế ngồi mà còn trong những tư thế đi, đứng và làm việc nữa.
Bởi vì trong bốn mươi lăm phút vừa qua bạn thấy bạn đã cố gắng khá nhiều mà không đạt tới sự an tĩnh mong đợi.
Bé Thanh Thủy đang ngủ an lành, hơi thở của bé rất nhẹ.
Chúng ta thắp thêm một ngọn bạch lạp nữa cho sáng đi, rồi hãy tiếp tục câu chuyện.
Bé Thanh Thủy ngủ an lành như thế mà không hề cố gắng.
Bạn có nhớ là mỗi khi không ngủ được mà ta "cố gắng" ngủ, thì ta lại càng không ngủ được, có phải không?
Bạn đã cố gắng để được yên tĩnh, và vì vậy, bạn cảm thấy có một sự chống cự bên trong.
Nhiều người ban đầu tập ngồi thiền cũng cảm thấy sự "chống cự" đó, càng muốn yên thì càng nhiều tạp niệm.
Họ cho đó là bị "ma" phá, hoặc bị cái "nghiệp nặng" tích lũy từ ngàn kiếp của họ phá.
Cái sức chống cự ấy sở dĩ có là do sự cố gắng của ta, và sự cố gắng ấy đã trở nên một sức đàn áp.
Tư tưởng và cảm giác ta xuôi đi như một dòng sông.
Ta chận dòng sông là ta tạo nên sức chống cự của nước.
Tốt hơn hết là ta nên đi theo dòng sông.
Ta lại có thể hướng dòng sông đi theo những ngõ ngách mà ta mong muốn, nhưng nhất định là ta không nên chận đường của nó. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Đó, chính hai điều đó đã gây cho bạn cảm tưởng là bạn sẽ không làm được như ly nước táo.
Bạn nói rằng con người là một sinh vật, có tư tưởng và cảm giác, không giống như một ly nước táo.
Nhưng tôi biết rằng mình cũng có thể làm như ly nước táo, và hơn thế nữa, có thể làm hay hơn ly nước táo: bạn có thể đạt tới tình trạng lắng trong không những trong tư thế ngồi mà còn trong những tư thế đi, đứng và làm việc nữa.
Bởi vì trong bốn mươi lăm phút vừa qua bạn thấy bạn đã cố gắng khá nhiều mà không đạt tới sự an tĩnh mong đợi.
Bé Thanh Thủy đang ngủ an lành, hơi thở của bé rất nhẹ.
Chúng ta thắp thêm một ngọn bạch lạp nữa cho sáng đi, rồi hãy tiếp tục câu chuyện.
Bé Thanh Thủy ngủ an lành như thế mà không hề cố gắng.
Bạn có nhớ là mỗi khi không ngủ được mà ta "cố gắng" ngủ, thì ta lại càng không ngủ được, có phải không?
Bạn đã cố gắng để được yên tĩnh, và vì vậy, bạn cảm thấy có một sự chống cự bên trong.
Nhiều người ban đầu tập ngồi thiền cũng cảm thấy sự "chống cự" đó, càng muốn yên thì càng nhiều tạp niệm.
Họ cho đó là bị "ma" phá, hoặc bị cái "nghiệp nặng" tích lũy từ ngàn kiếp của họ phá.
Cái sức chống cự ấy sở dĩ có là do sự cố gắng của ta, và sự cố gắng ấy đã trở nên một sức đàn áp.
Tư tưởng và cảm giác ta xuôi đi như một dòng sông.
Ta chận dòng sông là ta tạo nên sức chống cự của nước.
Tốt hơn hết là ta nên đi theo dòng sông.
Ta lại có thể hướng dòng sông đi theo những ngõ ngách mà ta mong muốn, nhưng nhất định là ta không nên chận đường của nó. | Tốt hơn hết là ta nên đi theo dòng sông.
Ta lại có thể hướng dòng sông đi theo những ngõ ngách mà ta mong muốn, nhưng nhất định là ta không nên chận đường của nó.
Được rồi nhé, chúng ta đi theo dòng sông.
Bất cứ một con nước nào sát nhập và dòng sông là ta phải biết.
Tất cả những tư tưởng và cảm giác nào có mặt trong ta là ta biết.
Ta ý thức được sự phát sinh, tồn tại và hoại diệt của từng tư tưởng, từng cảm giác và từng cảm xúc.
Bạn thấy không, sức "chống cự" đã biến mất.
Dòng sông tâm tư bây giờ vẫn trôi chảy như trước, nhưng không phải trong bóng tối mà dưới ánh sáng mặt trời ý thức.
Giữ cho mặt trời ý thức ấy sáng tỏ để soi rõ từng con nước, từng bờ cỏ, từng khúc quanh của dòng sông, ấy là thực hiện thiền quán, tức là "ngồi" thiền.
Thiền trước hết là theo dõi và quán sát.
Bây giờ đây ta có cảm tưởng là ta đã làm chủ được tình hình, dù dòng sông còn đó và tiếp tục trôi chảy.
Nhưng đây không phải là cái an tĩnh của ly nước táo.
Sự an tĩnh của tâm tư không phải là sự chết cứng hay hóa đá của mọi tư tưởng và cảm giác.
Cũng không phải là sự hoại diệt của tư tưởng và cảm giác; nói một cách khác hơn, sự an tĩnh của tâm tư không phải là sự vắng mặt của tâm tư.
Cố nhiên tâm không phải chỉ gồm có tư tưởng và cảm giác.
Những hiện tượng như giận, ghét, hổ thẹn, tin tưởng, nghi ngờ, ao ước, chán bỏ, buồn rầu, thắc mắc, nôn nao v..v... đều là tâm.
Những cái mà ta gọi là hoài vọng, ẩn ức, linh tính, bản năng, vô thức và tiềm thức cũng đều là tâm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tốt hơn hết là ta nên đi theo dòng sông.
Ta lại có thể hướng dòng sông đi theo những ngõ ngách mà ta mong muốn, nhưng nhất định là ta không nên chận đường của nó.
Được rồi nhé, chúng ta đi theo dòng sông.
Bất cứ một con nước nào sát nhập và dòng sông là ta phải biết.
Tất cả những tư tưởng và cảm giác nào có mặt trong ta là ta biết.
Ta ý thức được sự phát sinh, tồn tại và hoại diệt của từng tư tưởng, từng cảm giác và từng cảm xúc.
Bạn thấy không, sức "chống cự" đã biến mất.
Dòng sông tâm tư bây giờ vẫn trôi chảy như trước, nhưng không phải trong bóng tối mà dưới ánh sáng mặt trời ý thức.
Giữ cho mặt trời ý thức ấy sáng tỏ để soi rõ từng con nước, từng bờ cỏ, từng khúc quanh của dòng sông, ấy là thực hiện thiền quán, tức là "ngồi" thiền.
Thiền trước hết là theo dõi và quán sát.
Bây giờ đây ta có cảm tưởng là ta đã làm chủ được tình hình, dù dòng sông còn đó và tiếp tục trôi chảy.
Nhưng đây không phải là cái an tĩnh của ly nước táo.
Sự an tĩnh của tâm tư không phải là sự chết cứng hay hóa đá của mọi tư tưởng và cảm giác.
Cũng không phải là sự hoại diệt của tư tưởng và cảm giác; nói một cách khác hơn, sự an tĩnh của tâm tư không phải là sự vắng mặt của tâm tư.
Cố nhiên tâm không phải chỉ gồm có tư tưởng và cảm giác.
Những hiện tượng như giận, ghét, hổ thẹn, tin tưởng, nghi ngờ, ao ước, chán bỏ, buồn rầu, thắc mắc, nôn nao v..v... đều là tâm.
Những cái mà ta gọi là hoài vọng, ẩn ức, linh tính, bản năng, vô thức và tiềm thức cũng đều là tâm. | Những cái mà ta gọi là hoài vọng, ẩn ức, linh tính, bản năng, vô thức và tiềm thức cũng đều là tâm.
Duy Thức Học trong Phật học nói đến tám vua tâm (tâm vương) và năm mươi mốt tùy tùng của tâm (tâm sở), nếu có chút thì giờ bạn nên xem qua cho biết.
Mọi hiện tượng tâm lý đều được bao hàm trong các tâm vương sở ấy.
Nắng và lá cây xanh
Người tập thiền thường nghĩ rằng phải làm bặt tăm (im lặng) hết mọi tư tưởng và cảm giác (mà người ta gọi là vọng tâm) để làm điều kiện thuận lợi cho định tuệ xuất hiện (tức là chân tâm) xuất hiện.
Nghĩ như vậy cho nên mới tìm áp dụng những thủ thuật như các phép chỉ quán và sổ tức quán để ngăn chận tạp niệm và vọng tưởng.
Chỉ quán và sổ tức quán là những phép tu rất hay nhưng không nên đem dùng với mục đích là đàn áp tạp niệm và vọng tưởng.
Như ta đã biết, hễ có đàn áp là có sự phản kháng.
Vọng tâm và chân tâm là một, bỏ vọng tâm thì mất chân tâm.
Đàn áp vọng tâm cũng là đàn áp chân tâm.
Tâm của ta không thể đàn áp.
Tâm của ta chính là ta.
Ta phải đối xử với ta một cách kính trọng, hòa nhã và tuyệt đối bất bạo động.
Ta nào đã biết mặt mũi của tâm ta ra sao mà bảo nó là chân hay vọng mà đàn áp với không đàn áp.
Điều duy nhất mà ta có thể làm là ta đốt lên một mặt trời ý thức.
Tâm không phải chỉ là những hiện tượng tâm lý như nhận thức, cảm xúc, tư tưởng mà ta thấy xuất hiện trong ta.
Những nhận thức, cảm xúc và tư tưởng ấy chỉ là một phần của tâm, như hoa lá là một phần của cây, như sóng nước là một phần của dòng sông. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Những cái mà ta gọi là hoài vọng, ẩn ức, linh tính, bản năng, vô thức và tiềm thức cũng đều là tâm.
Duy Thức Học trong Phật học nói đến tám vua tâm (tâm vương) và năm mươi mốt tùy tùng của tâm (tâm sở), nếu có chút thì giờ bạn nên xem qua cho biết.
Mọi hiện tượng tâm lý đều được bao hàm trong các tâm vương sở ấy.
Nắng và lá cây xanh
Người tập thiền thường nghĩ rằng phải làm bặt tăm (im lặng) hết mọi tư tưởng và cảm giác (mà người ta gọi là vọng tâm) để làm điều kiện thuận lợi cho định tuệ xuất hiện (tức là chân tâm) xuất hiện.
Nghĩ như vậy cho nên mới tìm áp dụng những thủ thuật như các phép chỉ quán và sổ tức quán để ngăn chận tạp niệm và vọng tưởng.
Chỉ quán và sổ tức quán là những phép tu rất hay nhưng không nên đem dùng với mục đích là đàn áp tạp niệm và vọng tưởng.
Như ta đã biết, hễ có đàn áp là có sự phản kháng.
Vọng tâm và chân tâm là một, bỏ vọng tâm thì mất chân tâm.
Đàn áp vọng tâm cũng là đàn áp chân tâm.
Tâm của ta không thể đàn áp.
Tâm của ta chính là ta.
Ta phải đối xử với ta một cách kính trọng, hòa nhã và tuyệt đối bất bạo động.
Ta nào đã biết mặt mũi của tâm ta ra sao mà bảo nó là chân hay vọng mà đàn áp với không đàn áp.
Điều duy nhất mà ta có thể làm là ta đốt lên một mặt trời ý thức.
Tâm không phải chỉ là những hiện tượng tâm lý như nhận thức, cảm xúc, tư tưởng mà ta thấy xuất hiện trong ta.
Những nhận thức, cảm xúc và tư tưởng ấy chỉ là một phần của tâm, như hoa lá là một phần của cây, như sóng nước là một phần của dòng sông. | Những nhận thức, cảm xúc và tư tưởng ấy chỉ là một phần của tâm, như hoa lá là một phần của cây, như sóng nước là một phần của dòng sông.
Hoa lá chỉ là biểu hiện tất nhiên của cây cũng như sóng nước chỉ là biểu hiện tất nhiên của những con nước cuồn cuộn trong lòng sông.
Đàn áp chúng không có lợi ích gì cả, mà đàn áp cũng không được.
Chính nhờ có chúng mà ta sẽ thấy được và tìm về được gốc của chúng, nghĩa là của ta.
Mặt trời quán niệm cũng được ta lấy từ trong lòng của Tâm ra để chiếu sáng lại Tâm.
Nó soi tỏ không những mọi tư tưởng và cảm giác có mặt mà còn tự soi tỏ lấy mình nữa.
Tôi trở lại câu chuyện về sự an tĩnh của ly nước táo.
Dòng sông tâm tưởng của ta còn trôi chảy đó, nhưng vì mặt trời ý thức đã lên và đang chiếu dọi xuống cho nên nó trôi hiền hòa và do đó ta có sự an tĩnh.
Sự liên hệ giữa dòng sông tâm lý và mặt trời vật lý không giống sự liên hệ giữa dòng sông vật lý với mặt trời vật lý.
Dù đang nửa đêm hay giữa trưa đứng bóng, sông Đồng Nai vẫn là sông Đồng Nai, trôi chảy như nhau.
Nhưng khi mặt trời ý thức lên, dòng sông tâm tưởng thay đổi một cách lạ kỳ bởi vì nó cùng một bản chất tâm như là mặt trời ý thức.
Bạn thử nghĩ đến liên hệ giữa màu lá cây với ánh sáng mặt trời, hai thứ cùng một bản chất.
Bây giờ là nửa đêm, ánh sáng sao trăng chỉ cho phép ta thấy được hình dạng của những bụi cây và khóm lá ngoài sân.
Nhưng nếu mặt trời mọc lên, chiếu rạng, thì tự khắc ta thấy màu sắc trên lá cây biến đổi hẳn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Những nhận thức, cảm xúc và tư tưởng ấy chỉ là một phần của tâm, như hoa lá là một phần của cây, như sóng nước là một phần của dòng sông.
Hoa lá chỉ là biểu hiện tất nhiên của cây cũng như sóng nước chỉ là biểu hiện tất nhiên của những con nước cuồn cuộn trong lòng sông.
Đàn áp chúng không có lợi ích gì cả, mà đàn áp cũng không được.
Chính nhờ có chúng mà ta sẽ thấy được và tìm về được gốc của chúng, nghĩa là của ta.
Mặt trời quán niệm cũng được ta lấy từ trong lòng của Tâm ra để chiếu sáng lại Tâm.
Nó soi tỏ không những mọi tư tưởng và cảm giác có mặt mà còn tự soi tỏ lấy mình nữa.
Tôi trở lại câu chuyện về sự an tĩnh của ly nước táo.
Dòng sông tâm tưởng của ta còn trôi chảy đó, nhưng vì mặt trời ý thức đã lên và đang chiếu dọi xuống cho nên nó trôi hiền hòa và do đó ta có sự an tĩnh.
Sự liên hệ giữa dòng sông tâm lý và mặt trời vật lý không giống sự liên hệ giữa dòng sông vật lý với mặt trời vật lý.
Dù đang nửa đêm hay giữa trưa đứng bóng, sông Đồng Nai vẫn là sông Đồng Nai, trôi chảy như nhau.
Nhưng khi mặt trời ý thức lên, dòng sông tâm tưởng thay đổi một cách lạ kỳ bởi vì nó cùng một bản chất tâm như là mặt trời ý thức.
Bạn thử nghĩ đến liên hệ giữa màu lá cây với ánh sáng mặt trời, hai thứ cùng một bản chất.
Bây giờ là nửa đêm, ánh sáng sao trăng chỉ cho phép ta thấy được hình dạng của những bụi cây và khóm lá ngoài sân.
Nhưng nếu mặt trời mọc lên, chiếu rạng, thì tự khắc ta thấy màu sắc trên lá cây biến đổi hẳn. | Nhưng nếu mặt trời mọc lên, chiếu rạng, thì tự khắc ta thấy màu sắc trên lá cây biến đổi hẳn.
Cái màu lá xanh mơn mởn của tháng tư ấy sở dĩ có ra cũng là nhờ vừng mặt trời kia.
Có một hôm ngồi trong rừng tôi viết nhại theo Tâm Kinh Bát Nhã:
Nắng là lá cây xanh
Lá cây xanh là nắng
Nắng chẳng khác lá xanh
Lá xanh chẳng khác nắng
Bao nhiêu mầu sắc kia
Cũng đều như vậy cả.
[1]
Có mặt trời ý thức thắp lên thì đã có sự thay đổi lớn rồi.
Ngồi thiền là để thắp mặt trời cho dễ, để nhìn cho rõ.
Ta thấy như khi ta quán niệm ta có đến hai tâm: một dòng sông tư tưởng và cảm giác trôi chảy và một mặt trời quán niệm soi sáng.
Tâm nào là của ta, tâm nào CHÂN, tâm nào VỌNG, tâm nào CHÍNH, tâm nào TÀ?
Hãy buông lưỡi kiếm khái niệm xuống, đừng vội chém tâm bạn làm hai.
Không bên nào chân, không bên nào vọng.
Nếu vọng là vọng hết, nếu chân là chân hết.
Ta đã biết rằng ánh sáng với màu sắc không phải là hai thì dòng sông tâm và mặt trời tâm cũng vậy, không phải là hai.
Bạn ngồi lại với tôi đi, miệng giữ nụ cười hàm tiếu, thắp mặt trời của bạn lên và nếu cần thì nhắm mắt lại để nhìn tâm cho rõ.
Mặt trời quán chiếu của bạn cũng chỉ là một con nước trong các con nước khác của dòng sông tâm, có phải không?
Nó cũng chịu luật sinh diệt như mọi hiện tượng tâm lý khác.
Muốn quan sát những đối tượng dưới kính hiển vi, nhà bác học phải chiếu ánh sáng vào các đối tượng quán sát.
Muốn quán niệm tâm cũng vậy, bạn phải thắp mặt trời ý thức lên.
Mặt trời ý thức ấy nhà Phật gọi là CHÁNH NIỆM. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhưng nếu mặt trời mọc lên, chiếu rạng, thì tự khắc ta thấy màu sắc trên lá cây biến đổi hẳn.
Cái màu lá xanh mơn mởn của tháng tư ấy sở dĩ có ra cũng là nhờ vừng mặt trời kia.
Có một hôm ngồi trong rừng tôi viết nhại theo Tâm Kinh Bát Nhã:
Nắng là lá cây xanh
Lá cây xanh là nắng
Nắng chẳng khác lá xanh
Lá xanh chẳng khác nắng
Bao nhiêu mầu sắc kia
Cũng đều như vậy cả.
[1]
Có mặt trời ý thức thắp lên thì đã có sự thay đổi lớn rồi.
Ngồi thiền là để thắp mặt trời cho dễ, để nhìn cho rõ.
Ta thấy như khi ta quán niệm ta có đến hai tâm: một dòng sông tư tưởng và cảm giác trôi chảy và một mặt trời quán niệm soi sáng.
Tâm nào là của ta, tâm nào CHÂN, tâm nào VỌNG, tâm nào CHÍNH, tâm nào TÀ?
Hãy buông lưỡi kiếm khái niệm xuống, đừng vội chém tâm bạn làm hai.
Không bên nào chân, không bên nào vọng.
Nếu vọng là vọng hết, nếu chân là chân hết.
Ta đã biết rằng ánh sáng với màu sắc không phải là hai thì dòng sông tâm và mặt trời tâm cũng vậy, không phải là hai.
Bạn ngồi lại với tôi đi, miệng giữ nụ cười hàm tiếu, thắp mặt trời của bạn lên và nếu cần thì nhắm mắt lại để nhìn tâm cho rõ.
Mặt trời quán chiếu của bạn cũng chỉ là một con nước trong các con nước khác của dòng sông tâm, có phải không?
Nó cũng chịu luật sinh diệt như mọi hiện tượng tâm lý khác.
Muốn quan sát những đối tượng dưới kính hiển vi, nhà bác học phải chiếu ánh sáng vào các đối tượng quán sát.
Muốn quán niệm tâm cũng vậy, bạn phải thắp mặt trời ý thức lên.
Mặt trời ý thức ấy nhà Phật gọi là CHÁNH NIỆM. | Muốn quán niệm tâm cũng vậy, bạn phải thắp mặt trời ý thức lên.
Mặt trời ý thức ấy nhà Phật gọi là CHÁNH NIỆM.
Vừa rồi tôi có khuyên bạn buông thanh kiếm khái niệm xuống, đừng chém tâm ra làm hai.
Thật ra dù bạn có muốn chém tâm bạn ra làm hai, bạn cũng không chém được.
Bạn nghĩ bạn có thể tách rời ánh sáng mặt trời và mầu xanh của lá cây không?
Nếu không thì bạn cũng không thể tách rời tâm năng quán và tâm sở quán (l'esprit observateur et l'esprit observé) được.
Khi mặt trời quán chiếu có mặt, tự thân của các tư tưởng và cảm giác biến đổi hẳn.
Cũng như mầu xanh trên lá cây, chúng mang màu sắc quán chiếu của mặt trời chánh niệm, chúng trở thành MỘT với tâm năng quán.
MỘT mà vẫn là khác, bạn đừng từ cái lưới HAI mà nhảy vào cái lưới MỘT một cách vội vã.
Chính cái mặt trời quán niệm kia, có mặt trong thời gian, cũng là đối tượng của chính nó, cũng như cây đèn tự soi sáng mình.
"Tôi có ý thức là tôi đang có ý thức...".
Khi mà bạn khởi niệm: "Mặt trời quán niệm đã tắt mất trong tôi" thì đồng thời mặt trời ấy được thắp lại với một tốc độ mau hơn cả tốc độ ánh sáng.
Bóng tối thành ánh sáng
Bạn hãy quán sát những biến chuyển của tâm dưới ánh sáng quán niệm.
Ngay hơi thở của bạn cũng đã biến đổi rồi và cũng trở thành KHÔNG HAI ('bất nhị' - tôi không muốn dùng từ ngữ một) đối với tâm năng quán.
Các tư tưởng và cảm giác cũng vậy. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Muốn quán niệm tâm cũng vậy, bạn phải thắp mặt trời ý thức lên.
Mặt trời ý thức ấy nhà Phật gọi là CHÁNH NIỆM.
Vừa rồi tôi có khuyên bạn buông thanh kiếm khái niệm xuống, đừng chém tâm ra làm hai.
Thật ra dù bạn có muốn chém tâm bạn ra làm hai, bạn cũng không chém được.
Bạn nghĩ bạn có thể tách rời ánh sáng mặt trời và mầu xanh của lá cây không?
Nếu không thì bạn cũng không thể tách rời tâm năng quán và tâm sở quán (l'esprit observateur et l'esprit observé) được.
Khi mặt trời quán chiếu có mặt, tự thân của các tư tưởng và cảm giác biến đổi hẳn.
Cũng như mầu xanh trên lá cây, chúng mang màu sắc quán chiếu của mặt trời chánh niệm, chúng trở thành MỘT với tâm năng quán.
MỘT mà vẫn là khác, bạn đừng từ cái lưới HAI mà nhảy vào cái lưới MỘT một cách vội vã.
Chính cái mặt trời quán niệm kia, có mặt trong thời gian, cũng là đối tượng của chính nó, cũng như cây đèn tự soi sáng mình.
"Tôi có ý thức là tôi đang có ý thức...".
Khi mà bạn khởi niệm: "Mặt trời quán niệm đã tắt mất trong tôi" thì đồng thời mặt trời ấy được thắp lại với một tốc độ mau hơn cả tốc độ ánh sáng.
Bóng tối thành ánh sáng
Bạn hãy quán sát những biến chuyển của tâm dưới ánh sáng quán niệm.
Ngay hơi thở của bạn cũng đã biến đổi rồi và cũng trở thành KHÔNG HAI ('bất nhị' - tôi không muốn dùng từ ngữ một) đối với tâm năng quán.
Các tư tưởng và cảm giác cũng vậy. | Ngay hơi thở của bạn cũng đã biến đổi rồi và cũng trở thành KHÔNG HAI ('bất nhị' - tôi không muốn dùng từ ngữ một) đối với tâm năng quán.
Các tư tưởng và cảm giác cũng vậy.
Tự thân chúng và tác dụng của chúng dưới ánh sáng quán niệm tự nhiên biến đổi hẳn đi, liên đới với tâm năng quán, dù bạn không có chủ ý phê phán hay đàn áp chúng.
Có khi nào bạn bực bội và nỗi bực bội có thể kéo dài đến năm bảy phút không?
Bạn hãy thử ngồi yên, theo dõi hơi thở bạn, mỉm một nụ cười hàm tiếu và "thắp" ý thức lên trên nỗi bực bội của bạn.
Đừng có phê phán và đàn áp nỗi bực bội đó, vì nó là chính bạn.
Nỗi bực bội đó có nguyên nhân, nó phát sinh, trưởng thành rồi tiềm phục hoặc tiêu diệt.
Bạn hãy khoan đi tìm nguyên nhân nó và đừng chủ ý làm tiêu tán nó: hãy thắp đèn lên trên đó mà thôi.
Bạn sẽ nhận thấy nó biến từ từ, liên hệ với tâm năng quán, và hoà hợp với tâm năng quán.
Bất cứ một hiện tượng tâm lý nào đặt dưới tâm năng quán đều biến chuyển và mang mầu sắc của tâm năng quán.
Cũng như nhà vật lý học nói bất cứ vật thể cực vi nào khi bị quán sát cũng bị chi phối và mang mầu sắc của người quán sát.
Trong suốt thời gian ngồi thiền, bạn nuôi cho mặt trời chánh niệm có mặt thường trực.
Như mặt trời vật lý soi sáng mỗi lá cây ngọn cỏ, chánh niệm cũng soi tỏ mọi dòng suy tư và cảm giác.
Soi tỏ để nhận diện, để biết sự phát sinh, tồn tại và hủy diệt của chúng, chứ không phải để phán xét, đánh giá, mời mọc hay xua đuổi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ngay hơi thở của bạn cũng đã biến đổi rồi và cũng trở thành KHÔNG HAI ('bất nhị' - tôi không muốn dùng từ ngữ một) đối với tâm năng quán.
Các tư tưởng và cảm giác cũng vậy.
Tự thân chúng và tác dụng của chúng dưới ánh sáng quán niệm tự nhiên biến đổi hẳn đi, liên đới với tâm năng quán, dù bạn không có chủ ý phê phán hay đàn áp chúng.
Có khi nào bạn bực bội và nỗi bực bội có thể kéo dài đến năm bảy phút không?
Bạn hãy thử ngồi yên, theo dõi hơi thở bạn, mỉm một nụ cười hàm tiếu và "thắp" ý thức lên trên nỗi bực bội của bạn.
Đừng có phê phán và đàn áp nỗi bực bội đó, vì nó là chính bạn.
Nỗi bực bội đó có nguyên nhân, nó phát sinh, trưởng thành rồi tiềm phục hoặc tiêu diệt.
Bạn hãy khoan đi tìm nguyên nhân nó và đừng chủ ý làm tiêu tán nó: hãy thắp đèn lên trên đó mà thôi.
Bạn sẽ nhận thấy nó biến từ từ, liên hệ với tâm năng quán, và hoà hợp với tâm năng quán.
Bất cứ một hiện tượng tâm lý nào đặt dưới tâm năng quán đều biến chuyển và mang mầu sắc của tâm năng quán.
Cũng như nhà vật lý học nói bất cứ vật thể cực vi nào khi bị quán sát cũng bị chi phối và mang mầu sắc của người quán sát.
Trong suốt thời gian ngồi thiền, bạn nuôi cho mặt trời chánh niệm có mặt thường trực.
Như mặt trời vật lý soi sáng mỗi lá cây ngọn cỏ, chánh niệm cũng soi tỏ mọi dòng suy tư và cảm giác.
Soi tỏ để nhận diện, để biết sự phát sinh, tồn tại và hủy diệt của chúng, chứ không phải để phán xét, đánh giá, mời mọc hay xua đuổi. | Soi tỏ để nhận diện, để biết sự phát sinh, tồn tại và hủy diệt của chúng, chứ không phải để phán xét, đánh giá, mời mọc hay xua đuổi.
Điều cần nói ở đây là bạn đừng cho mặt trời chánh niệm là "phe chánh" đem tới đàn áp "phe tà" là các tạp niệm.
Đừng biến tâm bạn là một bãi chiến trường; đừng tạo cảnh "cốt nhục tương tàn", bởi vì tất cả những vui buồn giận ghét kia đều là bạn.
Chánh niệm xuất hiện như một người anh, một người chị từ hoà để nâng đỡ và soi sáng.
Chánh niệm là một sự có mặt từ hoà, sáng suốt, không kỳ thị, tuyệt đối bất bạo động.
Nhận diện và phân biệt thì có, nhưng xếp loại chánh và tà để làm thế trận thì không.
Người ta thường nói sự xung đột giữa chánh và tà như là sự xung đột giữa ánh sáng và bóng tối.
Hãy nhìn một cách khác: bóng tối không chạy đi đâu cả, bóng tối không tan biến đi đâu cả, bóng tối chỉ hòa hợp với ánh sáng, bóng tối trở thành ánh sáng.
Vừa rồi tôi có nhớ là mời ông khách nở một nụ cười hàm tiếu trên môi.
Ngồi thiền không phải là đánh một trận giặc.
Ngồi thiền chỉ là quán sát.
Nụ cười của bạn là để chứng tỏ điều ấy.
Nó cũng chứng tỏ thái độ từ hòa của bạn đối với chính bạn.
Nó cũng chứng tỏ sự có mặt của mặt trời quán niệm trong bạn.
Có nó tức là bạn có chủ quyền đối với tình hình.
Nói một cách khác hơn nữa, có nó thì bạn là bạn và bạn đạt tới một mức độ an lạc nào đó.
Chính sự an lạc đó làm cho bạn tươi mát, và làm cho một đứa bé muốn tới ngồi gần bạn.
Một bài thơ cho bạn cài nút áo
Nhưng không phải là khi ngồi xuống ta mới có an lạc. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Soi tỏ để nhận diện, để biết sự phát sinh, tồn tại và hủy diệt của chúng, chứ không phải để phán xét, đánh giá, mời mọc hay xua đuổi.
Điều cần nói ở đây là bạn đừng cho mặt trời chánh niệm là "phe chánh" đem tới đàn áp "phe tà" là các tạp niệm.
Đừng biến tâm bạn là một bãi chiến trường; đừng tạo cảnh "cốt nhục tương tàn", bởi vì tất cả những vui buồn giận ghét kia đều là bạn.
Chánh niệm xuất hiện như một người anh, một người chị từ hoà để nâng đỡ và soi sáng.
Chánh niệm là một sự có mặt từ hoà, sáng suốt, không kỳ thị, tuyệt đối bất bạo động.
Nhận diện và phân biệt thì có, nhưng xếp loại chánh và tà để làm thế trận thì không.
Người ta thường nói sự xung đột giữa chánh và tà như là sự xung đột giữa ánh sáng và bóng tối.
Hãy nhìn một cách khác: bóng tối không chạy đi đâu cả, bóng tối không tan biến đi đâu cả, bóng tối chỉ hòa hợp với ánh sáng, bóng tối trở thành ánh sáng.
Vừa rồi tôi có nhớ là mời ông khách nở một nụ cười hàm tiếu trên môi.
Ngồi thiền không phải là đánh một trận giặc.
Ngồi thiền chỉ là quán sát.
Nụ cười của bạn là để chứng tỏ điều ấy.
Nó cũng chứng tỏ thái độ từ hòa của bạn đối với chính bạn.
Nó cũng chứng tỏ sự có mặt của mặt trời quán niệm trong bạn.
Có nó tức là bạn có chủ quyền đối với tình hình.
Nói một cách khác hơn nữa, có nó thì bạn là bạn và bạn đạt tới một mức độ an lạc nào đó.
Chính sự an lạc đó làm cho bạn tươi mát, và làm cho một đứa bé muốn tới ngồi gần bạn.
Một bài thơ cho bạn cài nút áo
Nhưng không phải là khi ngồi xuống ta mới có an lạc. | Chính sự an lạc đó làm cho bạn tươi mát, và làm cho một đứa bé muốn tới ngồi gần bạn.
Một bài thơ cho bạn cài nút áo
Nhưng không phải là khi ngồi xuống ta mới có an lạc.
Như tôi đã nói: ta có thể làm hơn ly nước táo ở chỗ ta có thể làm cho ta tự lắng trong, không những trong tư thế ngồi mà còn trong các tư thế đi, đứng, nằm, và làm việc nữa.
Ai cấm không cho bạn thắp mặt trời quán niệm lên khi bạn đang đi bách bộ, hoặc khi bạn đang pha một bình trà, giặt một cái áo?
Ngày tôi mới vào làm thiền sinh ở chùa Từ Hiếu, tôi được dạy thực tập quán niệm trong khi làm cỏ ngoài vườn sân, quét lá quanh bờ hồ và rửa chén bát ở nhà bếp.
Tôi quán niệm theo phương pháp của thiền sư Độc Thể trong cuốn sách Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu.
Sách này dạy ta phải ý thức về mọi động tác của cơ thể ta: thức dậy thì biết thức dậy, cài nút áo thì biết cài nút áo, rửa tay thì biết rửa tay.
Thiền sinh lại còn làm những bài thơ nhỏ để ta thầm đọc khi ta rửa tay hoặc cài nút áo nữa, với mục đích giúp ta sống vững trãi trong chánh niệm.
Đây là bài thơ để cho bạn cài áo:
Chỉnh y thúc đới
Đương nguyện chúng sanh
Phục thắng thiện căn
Bất linh tán thất!
(giải này buộc, nút này gài
thiện tâm gìn giữ đêm ngày chẳng rơi)
Như vậy mặt trời quán niệm không những soi tâm mà còn soi thân nữa.
Mọi tư thế và động tác của cơ thể cũng cần được đặt dưới sự soi sáng của ý thức.
Hồi bé tôi thường nghe mẹ tôi dạy chị tôi: con gái làm cái gì cũng phải có ý có tứ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chính sự an lạc đó làm cho bạn tươi mát, và làm cho một đứa bé muốn tới ngồi gần bạn.
Một bài thơ cho bạn cài nút áo
Nhưng không phải là khi ngồi xuống ta mới có an lạc.
Như tôi đã nói: ta có thể làm hơn ly nước táo ở chỗ ta có thể làm cho ta tự lắng trong, không những trong tư thế ngồi mà còn trong các tư thế đi, đứng, nằm, và làm việc nữa.
Ai cấm không cho bạn thắp mặt trời quán niệm lên khi bạn đang đi bách bộ, hoặc khi bạn đang pha một bình trà, giặt một cái áo?
Ngày tôi mới vào làm thiền sinh ở chùa Từ Hiếu, tôi được dạy thực tập quán niệm trong khi làm cỏ ngoài vườn sân, quét lá quanh bờ hồ và rửa chén bát ở nhà bếp.
Tôi quán niệm theo phương pháp của thiền sư Độc Thể trong cuốn sách Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu.
Sách này dạy ta phải ý thức về mọi động tác của cơ thể ta: thức dậy thì biết thức dậy, cài nút áo thì biết cài nút áo, rửa tay thì biết rửa tay.
Thiền sinh lại còn làm những bài thơ nhỏ để ta thầm đọc khi ta rửa tay hoặc cài nút áo nữa, với mục đích giúp ta sống vững trãi trong chánh niệm.
Đây là bài thơ để cho bạn cài áo:
Chỉnh y thúc đới
Đương nguyện chúng sanh
Phục thắng thiện căn
Bất linh tán thất!
(giải này buộc, nút này gài
thiện tâm gìn giữ đêm ngày chẳng rơi)
Như vậy mặt trời quán niệm không những soi tâm mà còn soi thân nữa.
Mọi tư thế và động tác của cơ thể cũng cần được đặt dưới sự soi sáng của ý thức.
Hồi bé tôi thường nghe mẹ tôi dạy chị tôi: con gái làm cái gì cũng phải có ý có tứ. | Mọi tư thế và động tác của cơ thể cũng cần được đặt dưới sự soi sáng của ý thức.
Hồi bé tôi thường nghe mẹ tôi dạy chị tôi: con gái làm cái gì cũng phải có ý có tứ.
Hồi đó tôi mừng, tự nhủ rằng con trai thì không cần phải có ý tứ nhiều như con gái.
Ai ngờ khi vào học thiền, tôi bị các thầy bắt "có ý tứ" nhiều hơn chị tôi hồi đó gấp bội.
Không phải có ý tứ trong mọi động tác mà còn phải có ý tứ trong mọi "ý" và mọi "tứ" nữa.
Mẹ tôi, cũng như các bà mẹ khác, biết rằng ý tứ làm cho một cô gái đẹp thêm lên.
Nhờ có ý tứ mà cô không còn hấp tấp, vụt chạc và vụng về.
Cô trở nên khoan thai, dịu dàng và duyên dáng.
Mẹ tôi, như thế cũng đã dạy thiền mà bà không biết.
Người tu thiền, theo nguyên tắc trên, là phải đẹp.
Nhìn vào một thiền sinh, quán sát thiền sinh ấy khi chú thỉnh chuông, quét sân, đặt bàn v.v... một thiền sư có thể đoán định thời gian hành đạo của thiền sinh.
Ông thấy được chất thiền nhiều hay ít trong tác phong và nhân cách của chú.
Cái chất thiền ấy là kết quả của sự thực tập quán niệm.
Ông gọi đó là thiền vị.
Ba giờ đồng hồ cho một ấm trà
Cái bí quyết của thiền là sống ý thức trong từng giây phút của sự sống, giữ cho mặt trời ý thức sáng tỏ, chiếu dọi trên tất cả những gì xảy đến về phương diện tâm lý cũng như về phương diện cơ thể và hoàn cảnh.
Trong khi ta uống một bình trà, tâm ta phải có mặt với ta trong sự uống trà.
Uống trà là một trong những niềm vui mà ta có hàng ngày; ta phải sống trọn niềm vui ấy.
Bạn để ra được bao nhiêu phút để uống trà? |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Mọi tư thế và động tác của cơ thể cũng cần được đặt dưới sự soi sáng của ý thức.
Hồi bé tôi thường nghe mẹ tôi dạy chị tôi: con gái làm cái gì cũng phải có ý có tứ.
Hồi đó tôi mừng, tự nhủ rằng con trai thì không cần phải có ý tứ nhiều như con gái.
Ai ngờ khi vào học thiền, tôi bị các thầy bắt "có ý tứ" nhiều hơn chị tôi hồi đó gấp bội.
Không phải có ý tứ trong mọi động tác mà còn phải có ý tứ trong mọi "ý" và mọi "tứ" nữa.
Mẹ tôi, cũng như các bà mẹ khác, biết rằng ý tứ làm cho một cô gái đẹp thêm lên.
Nhờ có ý tứ mà cô không còn hấp tấp, vụt chạc và vụng về.
Cô trở nên khoan thai, dịu dàng và duyên dáng.
Mẹ tôi, như thế cũng đã dạy thiền mà bà không biết.
Người tu thiền, theo nguyên tắc trên, là phải đẹp.
Nhìn vào một thiền sinh, quán sát thiền sinh ấy khi chú thỉnh chuông, quét sân, đặt bàn v.v... một thiền sư có thể đoán định thời gian hành đạo của thiền sinh.
Ông thấy được chất thiền nhiều hay ít trong tác phong và nhân cách của chú.
Cái chất thiền ấy là kết quả của sự thực tập quán niệm.
Ông gọi đó là thiền vị.
Ba giờ đồng hồ cho một ấm trà
Cái bí quyết của thiền là sống ý thức trong từng giây phút của sự sống, giữ cho mặt trời ý thức sáng tỏ, chiếu dọi trên tất cả những gì xảy đến về phương diện tâm lý cũng như về phương diện cơ thể và hoàn cảnh.
Trong khi ta uống một bình trà, tâm ta phải có mặt với ta trong sự uống trà.
Uống trà là một trong những niềm vui mà ta có hàng ngày; ta phải sống trọn niềm vui ấy.
Bạn để ra được bao nhiêu phút để uống trà? | Uống trà là một trong những niềm vui mà ta có hàng ngày; ta phải sống trọn niềm vui ấy.
Bạn để ra được bao nhiêu phút để uống trà?
Tôi nghĩ tới những tiệm cà phê ở Đông Kinh hoặc Nữu Ước, nơi đó người ta ngồi, gọi một tách trà, uống vội vã rồi trả tiền để còn đi làm "công chuyện".
Trong phòng trà, thường là có âm nhạc.
Tai nghe âm nhạc ấy, mắt nhìn những người uống trà khác cũng vội vã giống như mình, trí óc nghĩ tới những chuyện phải làm sau tách trà.
Một tách trà như vậy, không xứng đáng là một tách trà.
Bạn đã được pha trà hầu hai vị thiền sư đối ẩm chưa?
Hoặc bạn đã được dự một trà lễ chưa?
Người ta ngồi với nhau từ hai tới ba giờ đồng hồ để uống một ấm trà.
Mà không phải là người ta dùng thì giờ đó để trò chuyện đâu.
Chỉ để uống trà và ngồi bên nhau mà thôi đấy.
Chúng ta có thể đồng ý hay không đồng ý rằng những người này chỉ biết ham chơi, không biết lo đến nền độc lập chính trị và kinh tế quốc gia.
Nhưng chúng ta phải công nhận rằng họ là những người biết uống trà bên một người bạn thân.
Mỗi ngày mà để ra ba giờ đồng hồ để uống trà, tôi thú thật là, cũng như bạn, tôi thấy hơi nhiều.
Còn nhiều chuyện khác nữa để làm.
Như là trồng rau, giặt áo, rửa bát, đóng sách, viết văn.
Những chuyện đó có thể không dễ chịu bằng chuyện uống trà, ngồi thiền hoặc đi bách bộ trên đồi.
Nhưng nếu ta biết làm trong quán niệm thì chúng không còn là khó chịu nữa.
Hãy lấy ví dụ về việc rửa bát, mà nhiều người cho là một việc không dễ chịu, nhất là sau khi mới ăn xong và ăn hơi no. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Uống trà là một trong những niềm vui mà ta có hàng ngày; ta phải sống trọn niềm vui ấy.
Bạn để ra được bao nhiêu phút để uống trà?
Tôi nghĩ tới những tiệm cà phê ở Đông Kinh hoặc Nữu Ước, nơi đó người ta ngồi, gọi một tách trà, uống vội vã rồi trả tiền để còn đi làm "công chuyện".
Trong phòng trà, thường là có âm nhạc.
Tai nghe âm nhạc ấy, mắt nhìn những người uống trà khác cũng vội vã giống như mình, trí óc nghĩ tới những chuyện phải làm sau tách trà.
Một tách trà như vậy, không xứng đáng là một tách trà.
Bạn đã được pha trà hầu hai vị thiền sư đối ẩm chưa?
Hoặc bạn đã được dự một trà lễ chưa?
Người ta ngồi với nhau từ hai tới ba giờ đồng hồ để uống một ấm trà.
Mà không phải là người ta dùng thì giờ đó để trò chuyện đâu.
Chỉ để uống trà và ngồi bên nhau mà thôi đấy.
Chúng ta có thể đồng ý hay không đồng ý rằng những người này chỉ biết ham chơi, không biết lo đến nền độc lập chính trị và kinh tế quốc gia.
Nhưng chúng ta phải công nhận rằng họ là những người biết uống trà bên một người bạn thân.
Mỗi ngày mà để ra ba giờ đồng hồ để uống trà, tôi thú thật là, cũng như bạn, tôi thấy hơi nhiều.
Còn nhiều chuyện khác nữa để làm.
Như là trồng rau, giặt áo, rửa bát, đóng sách, viết văn.
Những chuyện đó có thể không dễ chịu bằng chuyện uống trà, ngồi thiền hoặc đi bách bộ trên đồi.
Nhưng nếu ta biết làm trong quán niệm thì chúng không còn là khó chịu nữa.
Hãy lấy ví dụ về việc rửa bát, mà nhiều người cho là một việc không dễ chịu, nhất là sau khi mới ăn xong và ăn hơi no. | Nhưng nếu ta biết làm trong quán niệm thì chúng không còn là khó chịu nữa.
Hãy lấy ví dụ về việc rửa bát, mà nhiều người cho là một việc không dễ chịu, nhất là sau khi mới ăn xong và ăn hơi no.
Thì giờ để tắm một đức Phật sơ sinh
Tôi thấy cái việc rửa bát chỉ có thể là khó chịu khi ta không rửa bát hoặc chưa rửa bát thôi, chứ khi đã đứng lên và xăn hai ống tay áo rồi thì việc rửa bát trở nên dễ chịu.
Tôi ưa rửa thong thả từng cái bát, lấy ý thức quán chiếu từng cái bát và từng cử động của tay.
Tôi biết rằng nếu tôi hối hả rửa cho xong chồng chén bát để mà đi uống trà thì như vậy thời gian rửa bát là thời gian khó chịu, không đáng cho ta sống.
Và như thế thật đáng tiếc.
Đời sống mầu nhiệm trong từng giây phút, biết vậy nên tôi thắp mặt trời ý thức của tôi lên chạn chén bát.
Sự kiện tôi đang đứng đây và rửa những chén bát này là một sự kiện mầu nhiệm.
Câu này tôi đã viết một lần trong cuốn Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức.
Mỗi cái bát tôi rửa cũng như mỗi câu thơ tôi làm, cũng như mỗi tiếng chuông tôi thỉnh.
Một hôm trong khi rửa bát, tôi có cảm tưởng rằng cử chỉ của tôi khi rửa cái bát cũng trịnh trọng và thiêng liêng như thể cử chỉ tôi tắm cho một đức Phật sơ sinh.
Đức Phật sơ sinh nghe tôi nói như thế chắc là mừng cho tôi và không trách tôi đã dám so sánh Ngài với một cái bát.
Mỗi tư tưởng mỗi động tác đặt dưới ánh sáng quán niệm đều trở thành một nghi lễ.
Mặt trời thiền quán thắp lên thì không còn ranh giới giữa sự thiêng liêng và trần tục nữa. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhưng nếu ta biết làm trong quán niệm thì chúng không còn là khó chịu nữa.
Hãy lấy ví dụ về việc rửa bát, mà nhiều người cho là một việc không dễ chịu, nhất là sau khi mới ăn xong và ăn hơi no.
Thì giờ để tắm một đức Phật sơ sinh
Tôi thấy cái việc rửa bát chỉ có thể là khó chịu khi ta không rửa bát hoặc chưa rửa bát thôi, chứ khi đã đứng lên và xăn hai ống tay áo rồi thì việc rửa bát trở nên dễ chịu.
Tôi ưa rửa thong thả từng cái bát, lấy ý thức quán chiếu từng cái bát và từng cử động của tay.
Tôi biết rằng nếu tôi hối hả rửa cho xong chồng chén bát để mà đi uống trà thì như vậy thời gian rửa bát là thời gian khó chịu, không đáng cho ta sống.
Và như thế thật đáng tiếc.
Đời sống mầu nhiệm trong từng giây phút, biết vậy nên tôi thắp mặt trời ý thức của tôi lên chạn chén bát.
Sự kiện tôi đang đứng đây và rửa những chén bát này là một sự kiện mầu nhiệm.
Câu này tôi đã viết một lần trong cuốn Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức.
Mỗi cái bát tôi rửa cũng như mỗi câu thơ tôi làm, cũng như mỗi tiếng chuông tôi thỉnh.
Một hôm trong khi rửa bát, tôi có cảm tưởng rằng cử chỉ của tôi khi rửa cái bát cũng trịnh trọng và thiêng liêng như thể cử chỉ tôi tắm cho một đức Phật sơ sinh.
Đức Phật sơ sinh nghe tôi nói như thế chắc là mừng cho tôi và không trách tôi đã dám so sánh Ngài với một cái bát.
Mỗi tư tưởng mỗi động tác đặt dưới ánh sáng quán niệm đều trở thành một nghi lễ.
Mặt trời thiền quán thắp lên thì không còn ranh giới giữa sự thiêng liêng và trần tục nữa. | Mỗi tư tưởng mỗi động tác đặt dưới ánh sáng quán niệm đều trở thành một nghi lễ.
Mặt trời thiền quán thắp lên thì không còn ranh giới giữa sự thiêng liêng và trần tục nữa.
Tôi rửa bát có chậm hơn người khác thật đấy, nhưng tôi được sống trọn vẹn trong thời gian rửa bát, và tôi rất bằng lòng về điểm đó.
Rửa bát vừa là phương tiện vừa là cứu cánh, nghĩa là rửa bát để vừa có bát sạch vừa sống trọn vẹn trong thời gian rửa bát.
Nếu không có khả năng sống an lạc trong khi rửa bát mà cứ mong rửa bát cho mau xong để ngồi uống trà thì đến khi uống trà ta cũng sẽ không có khả năng uống trà.
Nâng tách trà lên, ta sẽ nghĩ đến những chuyện khác và vì vậy, hương vị trà và thời gian thoải mái của tách trà cũng sẽ biến mất.
Ta sẽ luôn bị hút vào trong vị lai mà chẳng còn khả năng sống trong hiện tại.
Nuôi dưỡng chánh niệm trong những lúc làm việc
Công việc hàng ngày gọi là để "sinh sống” của ta, ta cũng có thể làm như ta rửa bát.
Tại Phương Vân Am tôi có nghề đóng sách.
Tôi dùng một bàn chải đánh răng, một cái dũa, một cái bánh xe lăn và một viên gạch réfractaire khá nặng chừng hai ký, và tôi có thể đóng và vào bìa mỗi ngày hàng trăm cuốn sách.
Nhưng trước khi đóng sách, tôi còn phải "lượm sách" nghĩa là phải thâu những tờ sách rồi gom lại theo thứ tự các trang để làm thành một tập.
Những trang này tôi sắp trên một cái bàn thật dài, và hễ đi một vòng quanh bàn thì tôi lượm đủ số trang cho một cuốn sách. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Mỗi tư tưởng mỗi động tác đặt dưới ánh sáng quán niệm đều trở thành một nghi lễ.
Mặt trời thiền quán thắp lên thì không còn ranh giới giữa sự thiêng liêng và trần tục nữa.
Tôi rửa bát có chậm hơn người khác thật đấy, nhưng tôi được sống trọn vẹn trong thời gian rửa bát, và tôi rất bằng lòng về điểm đó.
Rửa bát vừa là phương tiện vừa là cứu cánh, nghĩa là rửa bát để vừa có bát sạch vừa sống trọn vẹn trong thời gian rửa bát.
Nếu không có khả năng sống an lạc trong khi rửa bát mà cứ mong rửa bát cho mau xong để ngồi uống trà thì đến khi uống trà ta cũng sẽ không có khả năng uống trà.
Nâng tách trà lên, ta sẽ nghĩ đến những chuyện khác và vì vậy, hương vị trà và thời gian thoải mái của tách trà cũng sẽ biến mất.
Ta sẽ luôn bị hút vào trong vị lai mà chẳng còn khả năng sống trong hiện tại.
Nuôi dưỡng chánh niệm trong những lúc làm việc
Công việc hàng ngày gọi là để "sinh sống” của ta, ta cũng có thể làm như ta rửa bát.
Tại Phương Vân Am tôi có nghề đóng sách.
Tôi dùng một bàn chải đánh răng, một cái dũa, một cái bánh xe lăn và một viên gạch réfractaire khá nặng chừng hai ký, và tôi có thể đóng và vào bìa mỗi ngày hàng trăm cuốn sách.
Nhưng trước khi đóng sách, tôi còn phải "lượm sách" nghĩa là phải thâu những tờ sách rồi gom lại theo thứ tự các trang để làm thành một tập.
Những trang này tôi sắp trên một cái bàn thật dài, và hễ đi một vòng quanh bàn thì tôi lượm đủ số trang cho một cuốn sách. | Những trang này tôi sắp trên một cái bàn thật dài, và hễ đi một vòng quanh bàn thì tôi lượm đủ số trang cho một cuốn sách.
Tôi biết là tôi đang đi quanh, và không có gì đợi tôi phía trước, cho nên tôi đi chậm thôi, và lượm từng tờ sách thong thả trong quán niệm.
Tôi vừa làm vừa thở những hơi thở nhẹ nhàng, hơi dài và có ý thức.
Tôi có an lạc trong khi lượm sách, đóng sách và vào bìa sách.
Nếu thi đóng sách với những người thợ khác hoặc với máy đóng sách thì tôi thua, bởi vì tôi đóng được ít sách hơn.
Nhưng có một điều tôi biết chắc là tôi không chán ghét chuyện đóng sách.
Mình tiêu xài nhiều thì mình phải làm việc cho nhiều và cho nhanh.
Nếu mình sống đơn giản thì mình có thể làm ít và làm chậm trong quán niệm.
Tôi biết có rất nhiều người trẻ tuổi ưa làm việc ít thôi, mỗi ngày chừng bốn giờ, với số lương nhỏ có thể sống đơn giản nhưng hạnh phúc.
Biết đâu đây chẳng là con đường khai thông cho tình trạng bế tắc của xã hội ngày nay?
Bỏ bớt sự sản xuất những hóa phẩm không thiết yếu, san sẻ việc làm cho những người chưa có việc làm, sống đơn giản nhưng có hạnh phúc.
Đã có những cá nhân và những cộng đồng chứng minh được khả năng sống đơn giản mà hạnh phúc rồi, điều đó há không phải là một dấu hiệu đáng mừng hay sao?
Bạn hỏi tôi: trong khi rửa bát, làm vườn, đóng sách hoặc làm việc trong các xưởng các hãng, làm thế nào để nuôi dưỡng chánh niệm?
Tôi nghĩ là bạn phải tìm ra câu trả lời cho chính bạn.
Bạn làm thế nào mà mặt trời chánh niệm sáng mãi trong bạn thì làm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Những trang này tôi sắp trên một cái bàn thật dài, và hễ đi một vòng quanh bàn thì tôi lượm đủ số trang cho một cuốn sách.
Tôi biết là tôi đang đi quanh, và không có gì đợi tôi phía trước, cho nên tôi đi chậm thôi, và lượm từng tờ sách thong thả trong quán niệm.
Tôi vừa làm vừa thở những hơi thở nhẹ nhàng, hơi dài và có ý thức.
Tôi có an lạc trong khi lượm sách, đóng sách và vào bìa sách.
Nếu thi đóng sách với những người thợ khác hoặc với máy đóng sách thì tôi thua, bởi vì tôi đóng được ít sách hơn.
Nhưng có một điều tôi biết chắc là tôi không chán ghét chuyện đóng sách.
Mình tiêu xài nhiều thì mình phải làm việc cho nhiều và cho nhanh.
Nếu mình sống đơn giản thì mình có thể làm ít và làm chậm trong quán niệm.
Tôi biết có rất nhiều người trẻ tuổi ưa làm việc ít thôi, mỗi ngày chừng bốn giờ, với số lương nhỏ có thể sống đơn giản nhưng hạnh phúc.
Biết đâu đây chẳng là con đường khai thông cho tình trạng bế tắc của xã hội ngày nay?
Bỏ bớt sự sản xuất những hóa phẩm không thiết yếu, san sẻ việc làm cho những người chưa có việc làm, sống đơn giản nhưng có hạnh phúc.
Đã có những cá nhân và những cộng đồng chứng minh được khả năng sống đơn giản mà hạnh phúc rồi, điều đó há không phải là một dấu hiệu đáng mừng hay sao?
Bạn hỏi tôi: trong khi rửa bát, làm vườn, đóng sách hoặc làm việc trong các xưởng các hãng, làm thế nào để nuôi dưỡng chánh niệm?
Tôi nghĩ là bạn phải tìm ra câu trả lời cho chính bạn.
Bạn làm thế nào mà mặt trời chánh niệm sáng mãi trong bạn thì làm. | Tôi nghĩ là bạn phải tìm ra câu trả lời cho chính bạn.
Bạn làm thế nào mà mặt trời chánh niệm sáng mãi trong bạn thì làm.
Bạn có thể sáng tạo ra những phương thức thích hợp với bạn.
Hoặc giả bạn áp dụng thử một vài phương thức mà người khác đã làm.
Ví dụ bạn làm những bài thơ "cài nút áo" theo lối thiền sư Độc Thể.
Hoặc bạn theo dõi hơi thở của bạn.
Bạn nuôi chánh niệm bằng hơi thở ra và hơi thở vào, thở đến đâu thì bạn biết đến đấy.
Tư tưởng nào hoặc cảm thọ nào phát khởi bạn cũng cho xuôi dòng theo hơi thở.
Bạn nên thở thật nhẹ và hơi thở dài hơn lúc bình thường một tí.
Một tí thôi, đủ để chứng minh là bạn thực sự đang theo dõi hơi thở.
Nụ cười đáng giá ngàn vàng
Theo hơi thở, bạn nuôi dưỡng chánh niệm được lâu lắm.
Bạn thành công rồi phải không?
Vậy thì bạn hãy mỉm một nụ cười.
Để chứng tỏ bạn thành công.
Và giữ mãi nụ cười ấy trên môi đi, như một đức Phật vậy.
Nhìn thấy nụ cười, tôi biết ngay là bạn đang an trú trong chánh niệm.
Cái nụ cười hàm tiếu ấy, nhiều nghệ sĩ đã từng ngày đêm đem hết công phu để thể hiện trên các tượng Phật.
Bạn đã từng thấy nụ cười ấy trên nghệ thuật Gandhara hoặc trên nghệ thuật Đế Thiên Đế Thích chưa?
Tôi chắc rằng trong khi thực hiện nụ cười đó trên mặt một tượng Phật, các điêu khắc gia cũng đang duy trì nụ cười đó trên mặt mình.
Bạn có thể tưởng tượng được một điêu khắc gia nét mặt cau có đang thực hiện nụ cười hàm tiếu trên môi Phật không?
Tôi có quen biết điêu khắc gia đã thực hiện pho tượng Nhập Niết Bàn trên núi Trà Cú ở Phan Thiết. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tôi nghĩ là bạn phải tìm ra câu trả lời cho chính bạn.
Bạn làm thế nào mà mặt trời chánh niệm sáng mãi trong bạn thì làm.
Bạn có thể sáng tạo ra những phương thức thích hợp với bạn.
Hoặc giả bạn áp dụng thử một vài phương thức mà người khác đã làm.
Ví dụ bạn làm những bài thơ "cài nút áo" theo lối thiền sư Độc Thể.
Hoặc bạn theo dõi hơi thở của bạn.
Bạn nuôi chánh niệm bằng hơi thở ra và hơi thở vào, thở đến đâu thì bạn biết đến đấy.
Tư tưởng nào hoặc cảm thọ nào phát khởi bạn cũng cho xuôi dòng theo hơi thở.
Bạn nên thở thật nhẹ và hơi thở dài hơn lúc bình thường một tí.
Một tí thôi, đủ để chứng minh là bạn thực sự đang theo dõi hơi thở.
Nụ cười đáng giá ngàn vàng
Theo hơi thở, bạn nuôi dưỡng chánh niệm được lâu lắm.
Bạn thành công rồi phải không?
Vậy thì bạn hãy mỉm một nụ cười.
Để chứng tỏ bạn thành công.
Và giữ mãi nụ cười ấy trên môi đi, như một đức Phật vậy.
Nhìn thấy nụ cười, tôi biết ngay là bạn đang an trú trong chánh niệm.
Cái nụ cười hàm tiếu ấy, nhiều nghệ sĩ đã từng ngày đêm đem hết công phu để thể hiện trên các tượng Phật.
Bạn đã từng thấy nụ cười ấy trên nghệ thuật Gandhara hoặc trên nghệ thuật Đế Thiên Đế Thích chưa?
Tôi chắc rằng trong khi thực hiện nụ cười đó trên mặt một tượng Phật, các điêu khắc gia cũng đang duy trì nụ cười đó trên mặt mình.
Bạn có thể tưởng tượng được một điêu khắc gia nét mặt cau có đang thực hiện nụ cười hàm tiếu trên môi Phật không?
Tôi có quen biết điêu khắc gia đã thực hiện pho tượng Nhập Niết Bàn trên núi Trà Cú ở Phan Thiết. | Tôi có quen biết điêu khắc gia đã thực hiện pho tượng Nhập Niết Bàn trên núi Trà Cú ở Phan Thiết.
Trong suốt sáu tháng trời thực hiện pho tượng này, ông ăn chay, ngồi thiền và đọc kinh Đại Niết Bàn.
Trên khuôn mặt nàng Mona Lisa, Leonard Da Vinci có để một nụ cười thật nhẹ, nhẹ đến nỗi không hẳn là một nụ cười mà là một sự dợm cười (khuynh hướng muốn cười!).
Tuy nhiên một nụ cười như thế cũng đủ làm khoan thư hết cả những bắp thịt trên mặt và làm tiêu tán hết những lo lắng cau có và mệt nhọc trong người.
Nụ cười hàm tiếu của người hành thiền ngoài tác dụng nuôi dưỡng chánh niệm cũng có tác dụng khoan thư mầu nhiệm đó.
Nó trả lại cho ta sự an lạc mà ta đã đánh mất.
Trong lúc đi bách bộ trên đồi, nơi công viên hay dọc bờ sông, bạn có thể vừa theo dõi hơi thở vừa duy trì nụ cười hàm tiếu.
Vào những lúc cảm thấy mệt mỏi hoặc cau có, bạn có thể nằm duỗi dài hai chân hai tay, buông thả và khoan thư hết tất cả thân tâm, tất cả các bắp thịt, chỉ duy trì hơi thở và nụ cười.
Buông thả trong tư thế nằm này là một phương cách phục hồi sinh lực rất thần hiệu và nhanh chóng.
Nếu bạn không thực hành mỗi ngày ít ra là vài ba lần thì thật là uổng cho bạn.
Nuôi chánh niệm, theo dõi hơi thở và duy trì nụ cười, đó là những hạnh phúc bạn tự ban cho mình và phân phát cho người xung quanh bạn.
Bạn có thể xuất nhiều tiền để mua nhiều món quà cho từng người trong gia đình bạn.
Nhưng không món quà nào đem lại nhiều hạnh phúc cho họ bằng chánh niệm, hơi thở và nụ cười của bạn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tôi có quen biết điêu khắc gia đã thực hiện pho tượng Nhập Niết Bàn trên núi Trà Cú ở Phan Thiết.
Trong suốt sáu tháng trời thực hiện pho tượng này, ông ăn chay, ngồi thiền và đọc kinh Đại Niết Bàn.
Trên khuôn mặt nàng Mona Lisa, Leonard Da Vinci có để một nụ cười thật nhẹ, nhẹ đến nỗi không hẳn là một nụ cười mà là một sự dợm cười (khuynh hướng muốn cười!).
Tuy nhiên một nụ cười như thế cũng đủ làm khoan thư hết cả những bắp thịt trên mặt và làm tiêu tán hết những lo lắng cau có và mệt nhọc trong người.
Nụ cười hàm tiếu của người hành thiền ngoài tác dụng nuôi dưỡng chánh niệm cũng có tác dụng khoan thư mầu nhiệm đó.
Nó trả lại cho ta sự an lạc mà ta đã đánh mất.
Trong lúc đi bách bộ trên đồi, nơi công viên hay dọc bờ sông, bạn có thể vừa theo dõi hơi thở vừa duy trì nụ cười hàm tiếu.
Vào những lúc cảm thấy mệt mỏi hoặc cau có, bạn có thể nằm duỗi dài hai chân hai tay, buông thả và khoan thư hết tất cả thân tâm, tất cả các bắp thịt, chỉ duy trì hơi thở và nụ cười.
Buông thả trong tư thế nằm này là một phương cách phục hồi sinh lực rất thần hiệu và nhanh chóng.
Nếu bạn không thực hành mỗi ngày ít ra là vài ba lần thì thật là uổng cho bạn.
Nuôi chánh niệm, theo dõi hơi thở và duy trì nụ cười, đó là những hạnh phúc bạn tự ban cho mình và phân phát cho người xung quanh bạn.
Bạn có thể xuất nhiều tiền để mua nhiều món quà cho từng người trong gia đình bạn.
Nhưng không món quà nào đem lại nhiều hạnh phúc cho họ bằng chánh niệm, hơi thở và nụ cười của bạn. | Bạn có thể xuất nhiều tiền để mua nhiều món quà cho từng người trong gia đình bạn.
Nhưng không món quà nào đem lại nhiều hạnh phúc cho họ bằng chánh niệm, hơi thở và nụ cười của bạn.
Qúy giá lắm, mà lại không mất tiền mua!
Thở cùng một nhịp
Có người tâm trí loạn động hơi nhiều muốn duy trì chánh niệm đã dùng phép đếm hơi thở thay vì phép theo dõi hơi thở.
Trong thời gian thở ra rồi thở vào, người ấy đếm "một".
Duy trì ý niệm "một" đừng để rơi mất.
Tiếp đến, đếm "hai" trong hơi thở ra và hơi thở vào thứ hai.
Đếm đến mười thì trở lại đếm một.
Nếu từ một đến mười mà mất chánh niệm thì bắt đầu đếm "một" trở lại.
Khi tâm an định rồi thì bỏ đếm để mà theo dõi hơi thở.
Bạn đã từng phát cỏ bằng cái phảng (faux) chưa?
Cách đây năm sáu năm tôi có mua về một cái phảng và loay hoay tự tìm cách phát cỏ.
Mãi đến một tuần lễ sau tôi mới tìm ra được cách xử dụng đúng mức.
Thế đứng, cách cầm phảng và đi bàn của lưỡi phảng cố nhiên là quan trọng rồi.
Nhưng để cho lâu mệt, tôi phối hợp cử động của hai tay với hơi thở.
Nếu tôi phát thong thả theo nhịp thở, vừa làm vừa quán niệm thì tôi làm được khá lâu.
Nếu không, chỉ trong vòng mười phút là tôi đã mệt.
Sau đó, tôi có tiếp một ông cụ hàng xóm người gốc Ý và mời ông ta phát một vài đường để tôi quán sát.
Ông phát khéo hơn tôi, nhưng đại khái cũng áp dụng thế đứng đó và cử động đó.
Điều làm cho tôi ngạc nhiên nhất là ông cũng phối hợp hơi thở và cử động. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bạn có thể xuất nhiều tiền để mua nhiều món quà cho từng người trong gia đình bạn.
Nhưng không món quà nào đem lại nhiều hạnh phúc cho họ bằng chánh niệm, hơi thở và nụ cười của bạn.
Qúy giá lắm, mà lại không mất tiền mua!
Thở cùng một nhịp
Có người tâm trí loạn động hơi nhiều muốn duy trì chánh niệm đã dùng phép đếm hơi thở thay vì phép theo dõi hơi thở.
Trong thời gian thở ra rồi thở vào, người ấy đếm "một".
Duy trì ý niệm "một" đừng để rơi mất.
Tiếp đến, đếm "hai" trong hơi thở ra và hơi thở vào thứ hai.
Đếm đến mười thì trở lại đếm một.
Nếu từ một đến mười mà mất chánh niệm thì bắt đầu đếm "một" trở lại.
Khi tâm an định rồi thì bỏ đếm để mà theo dõi hơi thở.
Bạn đã từng phát cỏ bằng cái phảng (faux) chưa?
Cách đây năm sáu năm tôi có mua về một cái phảng và loay hoay tự tìm cách phát cỏ.
Mãi đến một tuần lễ sau tôi mới tìm ra được cách xử dụng đúng mức.
Thế đứng, cách cầm phảng và đi bàn của lưỡi phảng cố nhiên là quan trọng rồi.
Nhưng để cho lâu mệt, tôi phối hợp cử động của hai tay với hơi thở.
Nếu tôi phát thong thả theo nhịp thở, vừa làm vừa quán niệm thì tôi làm được khá lâu.
Nếu không, chỉ trong vòng mười phút là tôi đã mệt.
Sau đó, tôi có tiếp một ông cụ hàng xóm người gốc Ý và mời ông ta phát một vài đường để tôi quán sát.
Ông phát khéo hơn tôi, nhưng đại khái cũng áp dụng thế đứng đó và cử động đó.
Điều làm cho tôi ngạc nhiên nhất là ông cũng phối hợp hơi thở và cử động. | Ông phát khéo hơn tôi, nhưng đại khái cũng áp dụng thế đứng đó và cử động đó.
Điều làm cho tôi ngạc nhiên nhất là ông cũng phối hợp hơi thở và cử động.
Từ đó, thấy người nông dân nào trong vùng phát cỏ là tôi có cảm tưởng người ấy đang thực tập quán niệm.
Trước khi mua cái phảng, tôi cũng đã xử dụng những dụng cụ như cuốc, xẻng, cào v.v... theo kiểu phối hợp cử động với hơi thở.
Tôi thấy chỉ những khi phải làm những việc nặng như khuân vác hoặc đẩy xe, thì mới khó duy trì chánh niệm mà thôi.
Ngoài ra, xới đất, vun luống, làm cỏ, gieo hạt, bỏ phân, tưới nước v.v... những việc đó tôi có thể làm thong thả trong quán niệm.
Những năm gần đây tôi không bao giờ để cho thân thể tôi mệt đến nỗi tôi phải thở hào hển.
Tôi nghĩ là tôi không có quyền "đày ải" thân thể tôi: tôi phải đối xử với nó một cách trân trọng như người nhạc sĩ giữ gìn cây đàn của ông ta.
Tôi áp dụng một chính sách "bất bạo động" với thân thể tôi.
Nó không phải chỉ là "dụng cụ hành đạo", nó chính là "đạo".
Nó không phải chỉ là "đền thờ thánh", nó còn là "thánh".
Những dụng cụ làm vườn và đóng sách của tôi, tôi cũng yêu qúy và kính trọng chúng lắm.
Khi tôi xử dụng chúng theo nhịp thở của tôi, tôi có cảm tưởng rằng chúng tôi đang thở cùng một nhịp.
Bài thơ và cây tía tô
Công việc ban ngày của bạn là công việc gì, tôi chưa biết, nhưng tôi biết rằng có những công việc có thể đi đôi với quán niệm dễ dàng hơn những việc khác. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ông phát khéo hơn tôi, nhưng đại khái cũng áp dụng thế đứng đó và cử động đó.
Điều làm cho tôi ngạc nhiên nhất là ông cũng phối hợp hơi thở và cử động.
Từ đó, thấy người nông dân nào trong vùng phát cỏ là tôi có cảm tưởng người ấy đang thực tập quán niệm.
Trước khi mua cái phảng, tôi cũng đã xử dụng những dụng cụ như cuốc, xẻng, cào v.v... theo kiểu phối hợp cử động với hơi thở.
Tôi thấy chỉ những khi phải làm những việc nặng như khuân vác hoặc đẩy xe, thì mới khó duy trì chánh niệm mà thôi.
Ngoài ra, xới đất, vun luống, làm cỏ, gieo hạt, bỏ phân, tưới nước v.v... những việc đó tôi có thể làm thong thả trong quán niệm.
Những năm gần đây tôi không bao giờ để cho thân thể tôi mệt đến nỗi tôi phải thở hào hển.
Tôi nghĩ là tôi không có quyền "đày ải" thân thể tôi: tôi phải đối xử với nó một cách trân trọng như người nhạc sĩ giữ gìn cây đàn của ông ta.
Tôi áp dụng một chính sách "bất bạo động" với thân thể tôi.
Nó không phải chỉ là "dụng cụ hành đạo", nó chính là "đạo".
Nó không phải chỉ là "đền thờ thánh", nó còn là "thánh".
Những dụng cụ làm vườn và đóng sách của tôi, tôi cũng yêu qúy và kính trọng chúng lắm.
Khi tôi xử dụng chúng theo nhịp thở của tôi, tôi có cảm tưởng rằng chúng tôi đang thở cùng một nhịp.
Bài thơ và cây tía tô
Công việc ban ngày của bạn là công việc gì, tôi chưa biết, nhưng tôi biết rằng có những công việc có thể đi đôi với quán niệm dễ dàng hơn những việc khác. | Bài thơ và cây tía tô
Công việc ban ngày của bạn là công việc gì, tôi chưa biết, nhưng tôi biết rằng có những công việc có thể đi đôi với quán niệm dễ dàng hơn những việc khác.
Viết văn là một trong những việc khó đi đôi với quán niệm, dù tôi đã đạt đến chỗ viết xong câu nào là tôi "biết" tôi đã viết xong câu đó.
Còn trong khi viết câu đó thì tôi vẫn còn hay quên.
Cũng bởi vậy cho nên năm sáu năm nay tôi ít viết trở lại và ưa làm việc tay chân hơn.
Có bạn bảo tôi: "Trồng cà chua và xà lách thì ai trồng chả được, nhưng viết sách, viết truyện và làm thơ thì không ai cũng làm được như thầy.
Đừng phí thì giờ vô ích."
Tôi có phí thì giờ đâu.
Tôi đã nói là tôi sống trong khi rửa bát, xới đất và phát cỏ rồi mà... Trồng một cây tía tô, tôi thấy cũng đẹp như làm một bài thơ và cũng vĩnh cửu như làm một bài thơ.
Tôi không thấy bài thơ hơn cây tía tô ở chỗ nào.
Cây tía tô cũng cho tôi nhiều sung sướng như một bài thơ.
Đối với tôi, cây tía tô hoặc cây xà lách cũng có tác dụng vĩnh cửu trong không gian và trong thời gian ngang với một bài thơ.
Tôi thấy năm 1964 khi lập nên Viện Cao Đẳng Phật Học Sài Gòn tôi đã làm một lầm lỗi lớn.
Các sinh viên (trong đó có cả tăng ni trẻ tuổi) đến đó chỉ học bằng sách vở, chữ nghĩa và khái niệm.
Rốt cuộc họ chỉ có một mớ kiến thức và một mớ chứng chỉ hoặc bằng cấp.
Ngày xưa khi được chấp nhận vào thiền viện, người trẻ tuổi lập tức được đưa ra vườn tập phát cỏ, gánh nước, trồng rau theo chánh niệm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bài thơ và cây tía tô
Công việc ban ngày của bạn là công việc gì, tôi chưa biết, nhưng tôi biết rằng có những công việc có thể đi đôi với quán niệm dễ dàng hơn những việc khác.
Viết văn là một trong những việc khó đi đôi với quán niệm, dù tôi đã đạt đến chỗ viết xong câu nào là tôi "biết" tôi đã viết xong câu đó.
Còn trong khi viết câu đó thì tôi vẫn còn hay quên.
Cũng bởi vậy cho nên năm sáu năm nay tôi ít viết trở lại và ưa làm việc tay chân hơn.
Có bạn bảo tôi: "Trồng cà chua và xà lách thì ai trồng chả được, nhưng viết sách, viết truyện và làm thơ thì không ai cũng làm được như thầy.
Đừng phí thì giờ vô ích."
Tôi có phí thì giờ đâu.
Tôi đã nói là tôi sống trong khi rửa bát, xới đất và phát cỏ rồi mà... Trồng một cây tía tô, tôi thấy cũng đẹp như làm một bài thơ và cũng vĩnh cửu như làm một bài thơ.
Tôi không thấy bài thơ hơn cây tía tô ở chỗ nào.
Cây tía tô cũng cho tôi nhiều sung sướng như một bài thơ.
Đối với tôi, cây tía tô hoặc cây xà lách cũng có tác dụng vĩnh cửu trong không gian và trong thời gian ngang với một bài thơ.
Tôi thấy năm 1964 khi lập nên Viện Cao Đẳng Phật Học Sài Gòn tôi đã làm một lầm lỗi lớn.
Các sinh viên (trong đó có cả tăng ni trẻ tuổi) đến đó chỉ học bằng sách vở, chữ nghĩa và khái niệm.
Rốt cuộc họ chỉ có một mớ kiến thức và một mớ chứng chỉ hoặc bằng cấp.
Ngày xưa khi được chấp nhận vào thiền viện, người trẻ tuổi lập tức được đưa ra vườn tập phát cỏ, gánh nước, trồng rau theo chánh niệm. | Ngày xưa khi được chấp nhận vào thiền viện, người trẻ tuổi lập tức được đưa ra vườn tập phát cỏ, gánh nước, trồng rau theo chánh niệm.
Cuốn sách đầu tiên người ta giao cho là tập thơ "cài nút áo" của thiền sư Độc Thể.
Để mà tập quán niệm khi rửa tay, khi đi ngang qua dòng suối, khi lọc nước uống.
Sau này, thiền sinh có học kinh luận và có tham dự những buổi đại tham và tiểu tham, nhưng mà những thứ ấy luôn luôn được đặt trong khuôn khổ của sự thực hành.
Bây giờ nếu cần lập lại một viện Cao Đẳng Phật Học, tôi sẽ mô phỏng theo cách tổ chức của thiền viện ngày xưa.
Nó phải là một thứ ashram, như là Shanti Niketan.
Hoặc như Phương Bối Am hay Communauté de l'Arche.
Tất cả sinh viên đều phải nội trú, đều phải vận thủy bang sài (gánh nước, chở củi), đều sống đời sống hàng ngày dưới mặt trời quán niệm.
Tôi chắc những truyền thống tôn giáo lớn đều áp dụng phép tổ chức tương tự những trung tâm tu học.
Tạo lập một quê hương
Mỗi người trong chúng ta nên "thuộc về" một trung tâm như thế.
Một khu tĩnh cư, một ngôi chùa, một nhà thờ, hoặc một tu viện.
Khu tĩnh cư đó, ta xem như là "chỗ xuất phát" của ta.
Một “Alma Master” của đời sống tâm linh.
Ở đó, mỗi nét kiến trúc và mỗi cây cảnh hay mỗi tiếng chuông đều có hiệu lực thức tỉnh và nuôi dưỡng chánh niệm nơi ta.
Ở đây ta có quyền lâu lâu trở về, sống dăm ba bữa nửa tháng trong khung cảnh thanh tịnh để làm mới lại ta, để tái tạo sinh khí, để faire le plein. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ngày xưa khi được chấp nhận vào thiền viện, người trẻ tuổi lập tức được đưa ra vườn tập phát cỏ, gánh nước, trồng rau theo chánh niệm.
Cuốn sách đầu tiên người ta giao cho là tập thơ "cài nút áo" của thiền sư Độc Thể.
Để mà tập quán niệm khi rửa tay, khi đi ngang qua dòng suối, khi lọc nước uống.
Sau này, thiền sinh có học kinh luận và có tham dự những buổi đại tham và tiểu tham, nhưng mà những thứ ấy luôn luôn được đặt trong khuôn khổ của sự thực hành.
Bây giờ nếu cần lập lại một viện Cao Đẳng Phật Học, tôi sẽ mô phỏng theo cách tổ chức của thiền viện ngày xưa.
Nó phải là một thứ ashram, như là Shanti Niketan.
Hoặc như Phương Bối Am hay Communauté de l'Arche.
Tất cả sinh viên đều phải nội trú, đều phải vận thủy bang sài (gánh nước, chở củi), đều sống đời sống hàng ngày dưới mặt trời quán niệm.
Tôi chắc những truyền thống tôn giáo lớn đều áp dụng phép tổ chức tương tự những trung tâm tu học.
Tạo lập một quê hương
Mỗi người trong chúng ta nên "thuộc về" một trung tâm như thế.
Một khu tĩnh cư, một ngôi chùa, một nhà thờ, hoặc một tu viện.
Khu tĩnh cư đó, ta xem như là "chỗ xuất phát" của ta.
Một “Alma Master” của đời sống tâm linh.
Ở đó, mỗi nét kiến trúc và mỗi cây cảnh hay mỗi tiếng chuông đều có hiệu lực thức tỉnh và nuôi dưỡng chánh niệm nơi ta.
Ở đây ta có quyền lâu lâu trở về, sống dăm ba bữa nửa tháng trong khung cảnh thanh tịnh để làm mới lại ta, để tái tạo sinh khí, để faire le plein. | Ở đây ta có quyền lâu lâu trở về, sống dăm ba bữa nửa tháng trong khung cảnh thanh tịnh để làm mới lại ta, để tái tạo sinh khí, để faire le plein.
Và những lúc không trở về được, ta chỉ cần mỉm cười nghĩ tới nó là ta thấy mát mẻ an lạc.
Một nơi như thế cần được chủ trì bởi những người có nhân cách mát mẻ và an lạc.
Nghĩa là những người sống thường trực trong chánh niệm.
Những người này lúc nào cũng có mặt đó để săn sóc ta, an ủi ta, chữa lành những thương tích của ta.
Cũng như con cháu mỗi năm vào ngày kỵ giỗ của tổ tiên tìm về nhà người tộc trưởng, mỗi người trong chúng ta cũng nên có một quê hương của đời sống tinh thần mà tìm về.
Ngày xưa vào khoảng năm 1957-1958, năm bảy chúng tôi đã dựng nên Phương Bối Am ở rừng Đại Lão trên một khoảng đất rừng hai mươi lăm mẫu.
Chúng tôi đã tạo ra một quê hương như thế.
Sau này những đứa con của Phương Bối Am dù ra làm nhà xuất bản Lá Bối, trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Viện Cao Đẳng Phật Học Sài Gòn hay tu viện Thường Chiếu... cũng đều nhớ tới Phương Bối như quê hương tâm linh của mình, để rồi mỗi cơ sở mới lại trở thành một quê hương mới cho những người trẻ tuổi.
Những người trẻ đi ra đời làm việc xã hội rất cần một nơi nương tựa như thế, cho nên khi chiến tranh ngăn họ không cho trở về Phương Bối thì họ đã hướng về Thường Chiếu và chuẩn bị Làng Hồng.
Hát ca trong chánh niệm
Phần nhiều trong chúng ta có một đời sống quá bận rộn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ở đây ta có quyền lâu lâu trở về, sống dăm ba bữa nửa tháng trong khung cảnh thanh tịnh để làm mới lại ta, để tái tạo sinh khí, để faire le plein.
Và những lúc không trở về được, ta chỉ cần mỉm cười nghĩ tới nó là ta thấy mát mẻ an lạc.
Một nơi như thế cần được chủ trì bởi những người có nhân cách mát mẻ và an lạc.
Nghĩa là những người sống thường trực trong chánh niệm.
Những người này lúc nào cũng có mặt đó để săn sóc ta, an ủi ta, chữa lành những thương tích của ta.
Cũng như con cháu mỗi năm vào ngày kỵ giỗ của tổ tiên tìm về nhà người tộc trưởng, mỗi người trong chúng ta cũng nên có một quê hương của đời sống tinh thần mà tìm về.
Ngày xưa vào khoảng năm 1957-1958, năm bảy chúng tôi đã dựng nên Phương Bối Am ở rừng Đại Lão trên một khoảng đất rừng hai mươi lăm mẫu.
Chúng tôi đã tạo ra một quê hương như thế.
Sau này những đứa con của Phương Bối Am dù ra làm nhà xuất bản Lá Bối, trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Viện Cao Đẳng Phật Học Sài Gòn hay tu viện Thường Chiếu... cũng đều nhớ tới Phương Bối như quê hương tâm linh của mình, để rồi mỗi cơ sở mới lại trở thành một quê hương mới cho những người trẻ tuổi.
Những người trẻ đi ra đời làm việc xã hội rất cần một nơi nương tựa như thế, cho nên khi chiến tranh ngăn họ không cho trở về Phương Bối thì họ đã hướng về Thường Chiếu và chuẩn bị Làng Hồng.
Hát ca trong chánh niệm
Phần nhiều trong chúng ta có một đời sống quá bận rộn. | Hát ca trong chánh niệm
Phần nhiều trong chúng ta có một đời sống quá bận rộn.
Đứng về phương diện công việc làm ăn, có thể là công việc ngày nay ít nặng nhọc bằng ngày xưa, nhưng tại sao chúng ta lại có ít thì giờ cho chúng ta như thế?
Có người nói rằng họ không có thì giờ "dù là để ăn và để thở".
Còn cách nào hơn là trực tiếp giật lại thì giờ của chính chúng ta?
Thắp sáng ngọn đuốc chánh niệm lên và bắt đầu học lại cách uống trà, cách ngồi ăn cơm, cách rửa bát, cách đi bộ, cách ngồi, cách lái xe hơi và cách làm việc hàng ngày.
Đừng để hoàn cảnh kéo ta đi theo như một dòng nước lũ kéo theo tất cả những gì nằm trên lối đi qua của nó.
Được soi sáng bởi chánh niệm, những động tác trong công việc hàng ngày của ta trở nên có ý nghĩa.
Trong chánh niệm, ta thấy có ta hiện hữu mầu nhiệm trong đời sống mầu nhiệm và ta không còn là một cái máy chỉ biết lặp đi lặp lại những cử động của công việc hằng ngày.
Những lúc làm việc mà tâm trí vẩn vơ đầy tạp niệm, ta hãy hỏi ta: "Ta đang làm gì đây?
Và ta đang tiêu phí cuộc đời ta vào những cái này để làm gì?"
Hỏi như thế tức là chánh niệm được thắp lên, hơi thở được theo dõi, nụ cười nở trên môi và mỗi giây phút của công việc hằng ngày trở nên linh động.
Nếu muốn ca hát, bạn hãy ca hát trong chánh niệm.
Từ mê sang tỉnh
Một ông giáo sư chính trị học hỏi tôi trong khi ngồi thiền thì tôi "suy nghĩ gì".
Tôi trả lời là trong khi ngồi thiền tôi không "suy nghĩ" mà chỉ chú tâm nhìn cho rõ mọi sự việc đang xảy ra. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Hát ca trong chánh niệm
Phần nhiều trong chúng ta có một đời sống quá bận rộn.
Đứng về phương diện công việc làm ăn, có thể là công việc ngày nay ít nặng nhọc bằng ngày xưa, nhưng tại sao chúng ta lại có ít thì giờ cho chúng ta như thế?
Có người nói rằng họ không có thì giờ "dù là để ăn và để thở".
Còn cách nào hơn là trực tiếp giật lại thì giờ của chính chúng ta?
Thắp sáng ngọn đuốc chánh niệm lên và bắt đầu học lại cách uống trà, cách ngồi ăn cơm, cách rửa bát, cách đi bộ, cách ngồi, cách lái xe hơi và cách làm việc hàng ngày.
Đừng để hoàn cảnh kéo ta đi theo như một dòng nước lũ kéo theo tất cả những gì nằm trên lối đi qua của nó.
Được soi sáng bởi chánh niệm, những động tác trong công việc hàng ngày của ta trở nên có ý nghĩa.
Trong chánh niệm, ta thấy có ta hiện hữu mầu nhiệm trong đời sống mầu nhiệm và ta không còn là một cái máy chỉ biết lặp đi lặp lại những cử động của công việc hằng ngày.
Những lúc làm việc mà tâm trí vẩn vơ đầy tạp niệm, ta hãy hỏi ta: "Ta đang làm gì đây?
Và ta đang tiêu phí cuộc đời ta vào những cái này để làm gì?"
Hỏi như thế tức là chánh niệm được thắp lên, hơi thở được theo dõi, nụ cười nở trên môi và mỗi giây phút của công việc hằng ngày trở nên linh động.
Nếu muốn ca hát, bạn hãy ca hát trong chánh niệm.
Từ mê sang tỉnh
Một ông giáo sư chính trị học hỏi tôi trong khi ngồi thiền thì tôi "suy nghĩ gì".
Tôi trả lời là trong khi ngồi thiền tôi không "suy nghĩ" mà chỉ chú tâm nhìn cho rõ mọi sự việc đang xảy ra. | Một ông giáo sư chính trị học hỏi tôi trong khi ngồi thiền thì tôi "suy nghĩ gì".
Tôi trả lời là trong khi ngồi thiền tôi không "suy nghĩ" mà chỉ chú tâm nhìn cho rõ mọi sự việc đang xảy ra.
Ông có vẻ không tin, nhưng sự thật là thế.
Trong khi ngồi thiền, tôi ít vận dụng trí não để lý luận và tìm cách tháo gỡ những câu hỏi hóc búa như khi người ta tìm giải một phương trình toán học hay là một câu đố mẹo.
Cả khi tôi tham khán một thoại đầu cũng vậy, tôi cũng chỉ để thoại đầu nằm đó để quan sát nó mà thôi, chứ tôi không tìm cách giải thích nó, cắt nghĩa nó, bởi vì tôi biết thoại đầu không phải là một câu đố mẹo.
Quan sát theo nghĩa chánh niệm không có nghĩa là phân tích.
Nó chỉ có nghĩa là nhận diện thường trực mà thôi.
Suy nghĩ nhiều thì mới lao tâm, chứ chánh niệm hoặc nhận diện thì không.
Nghe nói tới ngồi thiền, người ta tưởng là phải vận dụng "chất xám" dữ lắm; thực ra thì không phải.
Thiền gia không phải là tư tưởng gia.
Thiền gia không "làm việc tinh thần".
Trái lại, thiền có tác dụng dưỡng thần.
Từ đầu câu chuyện đến giờ, tôi chưa mời ông bạn của tôi vận dụng chất xám của ông ta để tìm tòi gì hết, tôi chỉ mời ông đi xem, đi "nhận diện" sự việc với tôi mà thôi.
Sự chú ý trong công việc nhận diện không có tác dụng tìm tòi và suy diễn mà chỉ là một sự chú ý đơn thuần.
Chánh niệm là một động cơ biến trạng thái ngủ thành trạng thái thức. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Một ông giáo sư chính trị học hỏi tôi trong khi ngồi thiền thì tôi "suy nghĩ gì".
Tôi trả lời là trong khi ngồi thiền tôi không "suy nghĩ" mà chỉ chú tâm nhìn cho rõ mọi sự việc đang xảy ra.
Ông có vẻ không tin, nhưng sự thật là thế.
Trong khi ngồi thiền, tôi ít vận dụng trí não để lý luận và tìm cách tháo gỡ những câu hỏi hóc búa như khi người ta tìm giải một phương trình toán học hay là một câu đố mẹo.
Cả khi tôi tham khán một thoại đầu cũng vậy, tôi cũng chỉ để thoại đầu nằm đó để quan sát nó mà thôi, chứ tôi không tìm cách giải thích nó, cắt nghĩa nó, bởi vì tôi biết thoại đầu không phải là một câu đố mẹo.
Quan sát theo nghĩa chánh niệm không có nghĩa là phân tích.
Nó chỉ có nghĩa là nhận diện thường trực mà thôi.
Suy nghĩ nhiều thì mới lao tâm, chứ chánh niệm hoặc nhận diện thì không.
Nghe nói tới ngồi thiền, người ta tưởng là phải vận dụng "chất xám" dữ lắm; thực ra thì không phải.
Thiền gia không phải là tư tưởng gia.
Thiền gia không "làm việc tinh thần".
Trái lại, thiền có tác dụng dưỡng thần.
Từ đầu câu chuyện đến giờ, tôi chưa mời ông bạn của tôi vận dụng chất xám của ông ta để tìm tòi gì hết, tôi chỉ mời ông đi xem, đi "nhận diện" sự việc với tôi mà thôi.
Sự chú ý trong công việc nhận diện không có tác dụng tìm tòi và suy diễn mà chỉ là một sự chú ý đơn thuần.
Chánh niệm là một động cơ biến trạng thái ngủ thành trạng thái thức. | Sự chú ý trong công việc nhận diện không có tác dụng tìm tòi và suy diễn mà chỉ là một sự chú ý đơn thuần.
Chánh niệm là một động cơ biến trạng thái ngủ thành trạng thái thức.
Nghĩ mà không biết là mình nghĩ, cảm mà không biết mình cảm, giận mà không biết là mình giận, đi mà không biết là mình đi, ngồi mà không biết là mình ngồi... trạng thái đó là trạng thái mê ngủ.
Albert Camus, trong cuốn tiểu thuyết L’ Étranger, gọi đó là sống như một người chết (Il vit comme un mort).
Đó là một căn phòng tối ám.
Bật ngọn đèn chánh niệm lên, đó là chuyển từ trạng thái mê sang trạng thái tỉnh.
Động từ budh trong Phạn ngữ có nghĩa là tỉnh thức.
Danh từ Buddha có nghĩa là người tỉnh thức.
Vậy Phật cũng chỉ là một người, nhưng là một người thường trực có chánh niệm.
Ta thỉnh thoảng cũng có chánh niệm, cho nên "thỉnh thoảng" ta mới là Phật thôi.
Niệm, Định và Huệ
Nguyên chữ niệm (sati là tiếng Pali, smrti là tiếng Phạn) có nghĩa là có ý thức.
Ta có thể dịch là nhớ hay biết, nhưng những từ này phải được dùng trong nghĩa đang nhớ rằng, đang biết rằng.
Ta đã từng nói tới niệm như là một sự nhận diện, một sự chú ý đơn thuần (bare attention).
Nhưng niệm không phải chỉ có thế.
Trong niệm còn có yếu tố định (sự tập trung của tâm ý) và tuệ (sự thấy rõ của tâm ý) nữa.
Định và tuệ làm nên cường độ của niệm, và cũng là kết quả tất yếu của niệm.
Mỗi khi ta thắp lên ngọn đèn chánh niệm, tự nhiên ta thấy có các hiện tượng tập trung và thấy rõ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Sự chú ý trong công việc nhận diện không có tác dụng tìm tòi và suy diễn mà chỉ là một sự chú ý đơn thuần.
Chánh niệm là một động cơ biến trạng thái ngủ thành trạng thái thức.
Nghĩ mà không biết là mình nghĩ, cảm mà không biết mình cảm, giận mà không biết là mình giận, đi mà không biết là mình đi, ngồi mà không biết là mình ngồi... trạng thái đó là trạng thái mê ngủ.
Albert Camus, trong cuốn tiểu thuyết L’ Étranger, gọi đó là sống như một người chết (Il vit comme un mort).
Đó là một căn phòng tối ám.
Bật ngọn đèn chánh niệm lên, đó là chuyển từ trạng thái mê sang trạng thái tỉnh.
Động từ budh trong Phạn ngữ có nghĩa là tỉnh thức.
Danh từ Buddha có nghĩa là người tỉnh thức.
Vậy Phật cũng chỉ là một người, nhưng là một người thường trực có chánh niệm.
Ta thỉnh thoảng cũng có chánh niệm, cho nên "thỉnh thoảng" ta mới là Phật thôi.
Niệm, Định và Huệ
Nguyên chữ niệm (sati là tiếng Pali, smrti là tiếng Phạn) có nghĩa là có ý thức.
Ta có thể dịch là nhớ hay biết, nhưng những từ này phải được dùng trong nghĩa đang nhớ rằng, đang biết rằng.
Ta đã từng nói tới niệm như là một sự nhận diện, một sự chú ý đơn thuần (bare attention).
Nhưng niệm không phải chỉ có thế.
Trong niệm còn có yếu tố định (sự tập trung của tâm ý) và tuệ (sự thấy rõ của tâm ý) nữa.
Định và tuệ làm nên cường độ của niệm, và cũng là kết quả tất yếu của niệm.
Mỗi khi ta thắp lên ngọn đèn chánh niệm, tự nhiên ta thấy có các hiện tượng tập trung và thấy rõ. | Định và tuệ làm nên cường độ của niệm, và cũng là kết quả tất yếu của niệm.
Mỗi khi ta thắp lên ngọn đèn chánh niệm, tự nhiên ta thấy có các hiện tượng tập trung và thấy rõ.
Các danh từ định và tuệ là những danh từ được dùng về phương diện quả.
Về phương diện nhân, người ta hay dùng những danh từ chỉ và quán.
Chỉ là sự làm cho dừng lại, là cho tập trung lại, và quán là nhìn để thấy rõ.
Dừng lại thì tự nhiên thấy rõ.
Dừng sự quên lãng, sự tán loạn và tình trạng mê muội của tâm ý.
Tình trạng này, danh từ duy thức học là thất niệm tức là "mất chánh niệm", tức là sự vắng mặt của ý thức.
Ta thấy rõ: dừng lại ở đây không phải là một sự đàn áp mà là một sự chuyển quên thành nhớ, chuyển thất niệm thành niệm [2].
Bung một nồi ngô
Thiền tập không phải là những nỗ lực phân tích và suy diễn.
Phương pháp Niệm Định Tuệ hoặc phương pháp Chỉ Quán không phải là những phương pháp phân tích và suy diễn.
Lưỡi gươm phân tích và suy diễn ở đây không có chỗ sử dụng.
Khi ta bung một nồi ngô, ta tập trung lửa dưới đáy nồi, một vài giờ đồng hồ sau thì các hạt ngô bung ra.
Khi mặt trời chiếu rọi xuống tuyết liên tiếp trong nhiều giờ đồng hồ thì tuyết từ từ tan rã.
Khi một con gà mái ấp ủ lâu ngày những cái trứng của nó, thì những con gà con thành hình và mổ vỡ vỏ trứng chui ra.
Đó là những hình ảnh có thể đem ra ví dụ cho tác dụng của thiền quán.
Mục đích của thiền quán là để thấy được mặt mũi của thực tại, thực tại này là tâm và đối tượng nhận thức của tâm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Định và tuệ làm nên cường độ của niệm, và cũng là kết quả tất yếu của niệm.
Mỗi khi ta thắp lên ngọn đèn chánh niệm, tự nhiên ta thấy có các hiện tượng tập trung và thấy rõ.
Các danh từ định và tuệ là những danh từ được dùng về phương diện quả.
Về phương diện nhân, người ta hay dùng những danh từ chỉ và quán.
Chỉ là sự làm cho dừng lại, là cho tập trung lại, và quán là nhìn để thấy rõ.
Dừng lại thì tự nhiên thấy rõ.
Dừng sự quên lãng, sự tán loạn và tình trạng mê muội của tâm ý.
Tình trạng này, danh từ duy thức học là thất niệm tức là "mất chánh niệm", tức là sự vắng mặt của ý thức.
Ta thấy rõ: dừng lại ở đây không phải là một sự đàn áp mà là một sự chuyển quên thành nhớ, chuyển thất niệm thành niệm [2].
Bung một nồi ngô
Thiền tập không phải là những nỗ lực phân tích và suy diễn.
Phương pháp Niệm Định Tuệ hoặc phương pháp Chỉ Quán không phải là những phương pháp phân tích và suy diễn.
Lưỡi gươm phân tích và suy diễn ở đây không có chỗ sử dụng.
Khi ta bung một nồi ngô, ta tập trung lửa dưới đáy nồi, một vài giờ đồng hồ sau thì các hạt ngô bung ra.
Khi mặt trời chiếu rọi xuống tuyết liên tiếp trong nhiều giờ đồng hồ thì tuyết từ từ tan rã.
Khi một con gà mái ấp ủ lâu ngày những cái trứng của nó, thì những con gà con thành hình và mổ vỡ vỏ trứng chui ra.
Đó là những hình ảnh có thể đem ra ví dụ cho tác dụng của thiền quán.
Mục đích của thiền quán là để thấy được mặt mũi của thực tại, thực tại này là tâm và đối tượng nhận thức của tâm. | Đó là những hình ảnh có thể đem ra ví dụ cho tác dụng của thiền quán.
Mục đích của thiền quán là để thấy được mặt mũi của thực tại, thực tại này là tâm và đối tượng nhận thức của tâm.
Khi ta nói tâm và cảnh thì ta có ngay một quan niệm nhị nguyên về vũ trụ, nhưng khi ta nói tâm và đối tượng nhận thức của tâm thì ta đứng ở một bình diện khác và tránh được phần nào sự tác hại của lưỡi gươm phân biệt khái niệm.
Tác dụng của thiền quán là tác dụng chiếu rọi (mặt trời) nung nấu (lửa nấu bắp) và ấp ủ (hơi nóng của gà mẹ).
Trong cả ba trường hợp (nấu bắp, soi tuyết và ấp trứng) không có nỗ lực phân tích suy diễn mà chỉ có công phu tập trung bền bỉ.
Ta chỉ có thể làm cho thực tại hiển lộ mà không thể vẽ nên một bức hình của thực tại bằng những đường nét do tâm trí ta sáng tạo dù đó là toán học, hình học hay triết học.
Khán một thoại đầu
Ai nói rằng thực tại không thể miêu tả bằng khái niệm?
Chính là cái thấy (tuệ) của ta khi ta ngưng tụ tâm thần để quan sát.
Lưỡi gươm khái niệm nhiều khi chỉ có thể băm thực tại thành những mảnh nhỏ rời rạc không sinh khí.
Các nhà khoa học nhiều khi đã đồng ý về điểm này.
Nhiều phát minh khoa học lớn đã được thực hiện như một trực giác: những lập luận để chứng minh các phát minh kia không phải là những dụng cụ để khám phá mà chỉ là những phương tiện để bênh vực.
Những phát minh này đến với khoa học gia vào những lúc bất ngờ nhất, nghĩa là vào những lúc mà họ không suy nghĩ, lý luận và phân tích. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Đó là những hình ảnh có thể đem ra ví dụ cho tác dụng của thiền quán.
Mục đích của thiền quán là để thấy được mặt mũi của thực tại, thực tại này là tâm và đối tượng nhận thức của tâm.
Khi ta nói tâm và cảnh thì ta có ngay một quan niệm nhị nguyên về vũ trụ, nhưng khi ta nói tâm và đối tượng nhận thức của tâm thì ta đứng ở một bình diện khác và tránh được phần nào sự tác hại của lưỡi gươm phân biệt khái niệm.
Tác dụng của thiền quán là tác dụng chiếu rọi (mặt trời) nung nấu (lửa nấu bắp) và ấp ủ (hơi nóng của gà mẹ).
Trong cả ba trường hợp (nấu bắp, soi tuyết và ấp trứng) không có nỗ lực phân tích suy diễn mà chỉ có công phu tập trung bền bỉ.
Ta chỉ có thể làm cho thực tại hiển lộ mà không thể vẽ nên một bức hình của thực tại bằng những đường nét do tâm trí ta sáng tạo dù đó là toán học, hình học hay triết học.
Khán một thoại đầu
Ai nói rằng thực tại không thể miêu tả bằng khái niệm?
Chính là cái thấy (tuệ) của ta khi ta ngưng tụ tâm thần để quan sát.
Lưỡi gươm khái niệm nhiều khi chỉ có thể băm thực tại thành những mảnh nhỏ rời rạc không sinh khí.
Các nhà khoa học nhiều khi đã đồng ý về điểm này.
Nhiều phát minh khoa học lớn đã được thực hiện như một trực giác: những lập luận để chứng minh các phát minh kia không phải là những dụng cụ để khám phá mà chỉ là những phương tiện để bênh vực.
Những phát minh này đến với khoa học gia vào những lúc bất ngờ nhất, nghĩa là vào những lúc mà họ không suy nghĩ, lý luận và phân tích. | Những phát minh này đến với khoa học gia vào những lúc bất ngờ nhất, nghĩa là vào những lúc mà họ không suy nghĩ, lý luận và phân tích.
Những cái thấy này là do sức tập trung (định) của tâm ý khoa học gia trong nhiều tháng năm liên tiếp.
Nếu không có sự thiết tha và chú tâm thầm lặng và thường xuyên tới nghi án, kể cả những lúc đi đứng, nằm, ngồi, ăn, ngủ, v.v... thì cái thấy kia không bao giờ tới được.
Các thiền giả ôm ấp một thoại đầu cũng làm việc theo phương pháp ấy.
Danh từ thiền học là khán thoại đầu.
Tất cả những vấn đề của sự sống, từ những trạng thái tình cảm như đam mê, thù hận, buồn khổ cho đến những nghi vấn về tri thức như sinh, diệt, có, không v.v... đều có thể đưa ra làm đối tượng của chánh niệm, của chỉ quán.
Chánh niệm vừa là nhân vừa là quả
Như ta đã thấy, chánh niệm vừa là nhân vừa là quả, vừa là định vừa là tuệ, vừa là chỉ vừa là quán.
Chánh niệm vừa thắp lên, tâm đã được định và ta thấy được tâm ta rõ hơn.
Nhân và quả đồng thời, nhân và quả không lìa nhau.
Cũng như máy phát điện quay thì dòng điện hiện hữu và bóng đèn bật sáng.
Tuy vậy duy trì liên tục chính niệm còn có công dụng tích lũy định tuệ, cũng như khi máy điện chạy ta có thể tích lũy điện lực vào một bình ắc quy.
Trong giấc ngủ, chánh niệm vẫn còn tác dụng, và công án tiếp tục được "khán" một cách âm thầm.
Có thiền giả thấy được mình đang duy trì chánh niệm ngay cả trong giấc mơ.
Vào những thời gian thiền tập miên mật nhất thỉnh thoảng tôi cũng thấy mình có chánh niệm trong giấc mơ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Những phát minh này đến với khoa học gia vào những lúc bất ngờ nhất, nghĩa là vào những lúc mà họ không suy nghĩ, lý luận và phân tích.
Những cái thấy này là do sức tập trung (định) của tâm ý khoa học gia trong nhiều tháng năm liên tiếp.
Nếu không có sự thiết tha và chú tâm thầm lặng và thường xuyên tới nghi án, kể cả những lúc đi đứng, nằm, ngồi, ăn, ngủ, v.v... thì cái thấy kia không bao giờ tới được.
Các thiền giả ôm ấp một thoại đầu cũng làm việc theo phương pháp ấy.
Danh từ thiền học là khán thoại đầu.
Tất cả những vấn đề của sự sống, từ những trạng thái tình cảm như đam mê, thù hận, buồn khổ cho đến những nghi vấn về tri thức như sinh, diệt, có, không v.v... đều có thể đưa ra làm đối tượng của chánh niệm, của chỉ quán.
Chánh niệm vừa là nhân vừa là quả
Như ta đã thấy, chánh niệm vừa là nhân vừa là quả, vừa là định vừa là tuệ, vừa là chỉ vừa là quán.
Chánh niệm vừa thắp lên, tâm đã được định và ta thấy được tâm ta rõ hơn.
Nhân và quả đồng thời, nhân và quả không lìa nhau.
Cũng như máy phát điện quay thì dòng điện hiện hữu và bóng đèn bật sáng.
Tuy vậy duy trì liên tục chính niệm còn có công dụng tích lũy định tuệ, cũng như khi máy điện chạy ta có thể tích lũy điện lực vào một bình ắc quy.
Trong giấc ngủ, chánh niệm vẫn còn tác dụng, và công án tiếp tục được "khán" một cách âm thầm.
Có thiền giả thấy được mình đang duy trì chánh niệm ngay cả trong giấc mơ.
Vào những thời gian thiền tập miên mật nhất thỉnh thoảng tôi cũng thấy mình có chánh niệm trong giấc mơ. | Có thiền giả thấy được mình đang duy trì chánh niệm ngay cả trong giấc mơ.
Vào những thời gian thiền tập miên mật nhất thỉnh thoảng tôi cũng thấy mình có chánh niệm trong giấc mơ.
Suy tư về cái không thể suy tư
Phương pháp của khoa học từ trước đến nay là giới hạn đối tượng khảo cứu và một phạm vi nhỏ để tiện khảo cứu.
Đối tượng càng nhỏ thì sự chú ý càng lớn.
Nhưng đến khi đi vào địa hạt những cực vi siêu nguyên tử (sub-atomic particles) thì nhà khoa học khám phá ra rằng mỗi chất điểm (particle) được tạo thành bởi tất cả các chất điểm khác và tâm ý của nhà khoa học trong khi quán sát không còn là một thực tại biệt lập với các vật quan sát.
Trong giới khoa học vật lý cực vi ngày nay có ý niệm bootstrap.
Ý niệm này nhận rằng vạn vật nương vào nhau mà sinh khởi và hiện hữu, những "vật" cực vi mà từ lâu ta lầm tưởng là thực tế cơ bản của vật chất thực ra cũng nương nhau mà có và chúng cũng không có thực thể riêng biệt.
"Mỗi chất điểm là do tất cả những chất điểm khác tạo thành" (Chaque particule est faite de toutes les autres).
Ý niệm này không khác mấy với ý niệm "một là tất cả” của kinh Hoa Nghiêm [3].
Thực tại đã là "tương sinh tương lập" như thế thì suy tư thế nào được thực tướng của nó.
Phái thiền Tào Động căn dặn người tu thiền rằng chỉ nên quán chiếu mà không nên suy tư.
Phương châm của Phái Tào Động: "Suy tư về cái không thể suy tư thì làm sao suy tư được?
Không suy tư, ấy là chỗ thiết yếu của thiền" [4]. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Có thiền giả thấy được mình đang duy trì chánh niệm ngay cả trong giấc mơ.
Vào những thời gian thiền tập miên mật nhất thỉnh thoảng tôi cũng thấy mình có chánh niệm trong giấc mơ.
Suy tư về cái không thể suy tư
Phương pháp của khoa học từ trước đến nay là giới hạn đối tượng khảo cứu và một phạm vi nhỏ để tiện khảo cứu.
Đối tượng càng nhỏ thì sự chú ý càng lớn.
Nhưng đến khi đi vào địa hạt những cực vi siêu nguyên tử (sub-atomic particles) thì nhà khoa học khám phá ra rằng mỗi chất điểm (particle) được tạo thành bởi tất cả các chất điểm khác và tâm ý của nhà khoa học trong khi quán sát không còn là một thực tại biệt lập với các vật quan sát.
Trong giới khoa học vật lý cực vi ngày nay có ý niệm bootstrap.
Ý niệm này nhận rằng vạn vật nương vào nhau mà sinh khởi và hiện hữu, những "vật" cực vi mà từ lâu ta lầm tưởng là thực tế cơ bản của vật chất thực ra cũng nương nhau mà có và chúng cũng không có thực thể riêng biệt.
"Mỗi chất điểm là do tất cả những chất điểm khác tạo thành" (Chaque particule est faite de toutes les autres).
Ý niệm này không khác mấy với ý niệm "một là tất cả” của kinh Hoa Nghiêm [3].
Thực tại đã là "tương sinh tương lập" như thế thì suy tư thế nào được thực tướng của nó.
Phái thiền Tào Động căn dặn người tu thiền rằng chỉ nên quán chiếu mà không nên suy tư.
Phương châm của Phái Tào Động: "Suy tư về cái không thể suy tư thì làm sao suy tư được?
Không suy tư, ấy là chỗ thiết yếu của thiền" [4]. | Phương châm của Phái Tào Động: "Suy tư về cái không thể suy tư thì làm sao suy tư được?
Không suy tư, ấy là chỗ thiết yếu của thiền" [4].
Tôi ưa danh từ quán chiếu, bởi nó hàm ý rọi ánh sáng vào mà quán sát, quán sát mà không cần suy diễn.
Mặt trời chiếu rọi hồi lâu trên một bông sen thì cánh sen xòe nở và làm cho gương sen hiển lộ.
Cũng như thế, dưới tác dụng của quán chiếu, thực tại dần dần hiển lộ bản thân.
Tuy vậy, trong thiền quán, chủ thể quán chiếu và đối tượng quán chiếu không thể tách rời nhau.
Đây là điểm khác biệt căn bản xưa nay của thiền học và khoa học.
Hạt muối đi vào lòng biển mặn
Từ lâu, khoa học thường quen vạch một đường ranh giới giữa người nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu: nhà khoa học và con vi trùng dưới kính hiển vi là hai thực tại riêng biệt, độc lập.
Thiền học kỵ nhất điều đó.
Ta hãy nhớ lại sự liên hệ giữa ánh sáng mặt trời và mầu xanh trên lá cây.
Khi ta rọi chánh niệm và các đối tượng tâm ý khác, các đối tượng này biến thể và đồng nhất với chánh niệm.
Tôi đưa ra một hình ảnh để bạn thấy điều này.
Khi bạn ý thức rằng bạn đang vui, bạn thầm nghĩ: "Tôi có ý thức rằng tôi đang vui".
Nếu bạn vượt lên cao hơn một từng nữa và nói: "Tôi đang ý thức rằng tôi có ý thức về niềm vui của tôi" thì bạn thấy gì?
Bạn thấy có ba từng: niềm vui - ý thức về niềm vui - ý thức về sự có ý thức - Đó là ta vung thanh kiếm khái niệm để biểu diễn vài đường phân tích.
Sự thực trong bạn, cả ba đều nằm trong một. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Phương châm của Phái Tào Động: "Suy tư về cái không thể suy tư thì làm sao suy tư được?
Không suy tư, ấy là chỗ thiết yếu của thiền" [4].
Tôi ưa danh từ quán chiếu, bởi nó hàm ý rọi ánh sáng vào mà quán sát, quán sát mà không cần suy diễn.
Mặt trời chiếu rọi hồi lâu trên một bông sen thì cánh sen xòe nở và làm cho gương sen hiển lộ.
Cũng như thế, dưới tác dụng của quán chiếu, thực tại dần dần hiển lộ bản thân.
Tuy vậy, trong thiền quán, chủ thể quán chiếu và đối tượng quán chiếu không thể tách rời nhau.
Đây là điểm khác biệt căn bản xưa nay của thiền học và khoa học.
Hạt muối đi vào lòng biển mặn
Từ lâu, khoa học thường quen vạch một đường ranh giới giữa người nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu: nhà khoa học và con vi trùng dưới kính hiển vi là hai thực tại riêng biệt, độc lập.
Thiền học kỵ nhất điều đó.
Ta hãy nhớ lại sự liên hệ giữa ánh sáng mặt trời và mầu xanh trên lá cây.
Khi ta rọi chánh niệm và các đối tượng tâm ý khác, các đối tượng này biến thể và đồng nhất với chánh niệm.
Tôi đưa ra một hình ảnh để bạn thấy điều này.
Khi bạn ý thức rằng bạn đang vui, bạn thầm nghĩ: "Tôi có ý thức rằng tôi đang vui".
Nếu bạn vượt lên cao hơn một từng nữa và nói: "Tôi đang ý thức rằng tôi có ý thức về niềm vui của tôi" thì bạn thấy gì?
Bạn thấy có ba từng: niềm vui - ý thức về niềm vui - ý thức về sự có ý thức - Đó là ta vung thanh kiếm khái niệm để biểu diễn vài đường phân tích.
Sự thực trong bạn, cả ba đều nằm trong một. | Bạn thấy có ba từng: niềm vui - ý thức về niềm vui - ý thức về sự có ý thức - Đó là ta vung thanh kiếm khái niệm để biểu diễn vài đường phân tích.
Sự thực trong bạn, cả ba đều nằm trong một.
Kinh Niệm Xứ [5] một kinh dạy về chánh niệm, thường dùng những mệnh đề "quán niệm thân thể nơi thân thể", "quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ", "quán niệm tâm thức nơi tâm thức" và "quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức".
Tại sao có sự lặp lại những danh từ thân thể, cảm thọ, tâm thức và đối tượng tâm thức?
Một vài luận gia nói rằng đó là để nhấn mạnh về những danh từ nào đó.
Ý kinh là trong khi quán niệm, không cho đối tượng quán niệm là một cái gì biệt lập ngoài chủ thể năng quán.
Phải sống cái đối tượng đó, phải hoà hợp với đối tượng đó, như một hạt muối đi vào lòng đại dương để đo chất mặn của đại dương.
Một công án thiền cũng vậy.
Công án không phải là một bài toán mà ta có thể giải đáp bằng cách sử dụng trí lực (intellect) của mình.
Công án không phải là công án của kẻ khác.
Công án phải là công án của mình, là vấn đề sinh tử của đời mình.
Nó không thể tách rời khỏi đời sống hằng ngày của mình.
Công án phải được "cấy" vào trong thịt, trong xương, trong tủy của mình, và mình trở thành miếng đất nuôi dưỡng nó.
Có thế thì hoa trái của nó mang tới mới là hoa trái của tự tâm mình được.
Trong từ ngữ comprendre của tiếng Pháp, ta thấy có tiền từ com và động từ prendre, ý nói: hiểu một vật gì tức là cầm lấy vật ấy lên và đồng nhất với nó. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bạn thấy có ba từng: niềm vui - ý thức về niềm vui - ý thức về sự có ý thức - Đó là ta vung thanh kiếm khái niệm để biểu diễn vài đường phân tích.
Sự thực trong bạn, cả ba đều nằm trong một.
Kinh Niệm Xứ [5] một kinh dạy về chánh niệm, thường dùng những mệnh đề "quán niệm thân thể nơi thân thể", "quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ", "quán niệm tâm thức nơi tâm thức" và "quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức".
Tại sao có sự lặp lại những danh từ thân thể, cảm thọ, tâm thức và đối tượng tâm thức?
Một vài luận gia nói rằng đó là để nhấn mạnh về những danh từ nào đó.
Ý kinh là trong khi quán niệm, không cho đối tượng quán niệm là một cái gì biệt lập ngoài chủ thể năng quán.
Phải sống cái đối tượng đó, phải hoà hợp với đối tượng đó, như một hạt muối đi vào lòng đại dương để đo chất mặn của đại dương.
Một công án thiền cũng vậy.
Công án không phải là một bài toán mà ta có thể giải đáp bằng cách sử dụng trí lực (intellect) của mình.
Công án không phải là công án của kẻ khác.
Công án phải là công án của mình, là vấn đề sinh tử của đời mình.
Nó không thể tách rời khỏi đời sống hằng ngày của mình.
Công án phải được "cấy" vào trong thịt, trong xương, trong tủy của mình, và mình trở thành miếng đất nuôi dưỡng nó.
Có thế thì hoa trái của nó mang tới mới là hoa trái của tự tâm mình được.
Trong từ ngữ comprendre của tiếng Pháp, ta thấy có tiền từ com và động từ prendre, ý nói: hiểu một vật gì tức là cầm lấy vật ấy lên và đồng nhất với nó. | Trong từ ngữ comprendre của tiếng Pháp, ta thấy có tiền từ com và động từ prendre, ý nói: hiểu một vật gì tức là cầm lấy vật ấy lên và đồng nhất với nó.
Nếu ta chỉ phân tích một người như một đối tượng khảo cứu mà không sống với người ấy thì ta không thật sự hiểu được người ấy.
Nhà thần học Martin Buber cũng nói rằng liên hệ giữa con người với Thượng Đế không phải là một liên hệ chủ thể và đối tượng, bởi Thượng Đế không phải là đối tượng của tri thức.
Gần đây trong lãnh vực khoa học vật lý cực vi, các khoa học gia cũng đã công nhận rằng không thể có một hiện tượng nào tuyệt đối khách quan, nghĩa là độc lập với tâm ý người quan sát, và do đó mọi hiện tượng chủ quan cũng đều có mặt khách quan của chúng.
Chương 2: Ðiệu múa của loài ong
Ðừng giao phó thân mạng cho kẻ khác
Có một buổi chiều lộng gió đi núi về, tôi thấy các cửa sổ và cửa ra vào của am Phương Vân bị gió thổi bật tung.
Hồi trưa ra đi, tôi chỉ khép hờ các cửa.
Gió lộng vào nhà, lạnh lẽo.
Giấy tờ trên bàn viết của tôi bay tứ tán.
Tôi lập tức đi đóng hết các cửa, đốt cây đèn lớn giữa nhà rồi đi nhặt giấy tờ và sắp lại trên bàn.
Xong xuôi, tôi đi đốt lửa ở lò sưởi.
Một lúc sau, củi nổ lép bép và căn nhà ấm áp trở lại.
Có nhiều khi ở chốn đông người náo nhiệt, bạn cảm thấy mệt mỏi, lạnh lẽo và trống trải.
Bạn rút lui về một mình, sống với nội tâm và cảm thấy ấm áp như tôi đang ngồi trong một căn nhà có mái, có tường che gió che sương và bên một bếp lửa hồng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Trong từ ngữ comprendre của tiếng Pháp, ta thấy có tiền từ com và động từ prendre, ý nói: hiểu một vật gì tức là cầm lấy vật ấy lên và đồng nhất với nó.
Nếu ta chỉ phân tích một người như một đối tượng khảo cứu mà không sống với người ấy thì ta không thật sự hiểu được người ấy.
Nhà thần học Martin Buber cũng nói rằng liên hệ giữa con người với Thượng Đế không phải là một liên hệ chủ thể và đối tượng, bởi Thượng Đế không phải là đối tượng của tri thức.
Gần đây trong lãnh vực khoa học vật lý cực vi, các khoa học gia cũng đã công nhận rằng không thể có một hiện tượng nào tuyệt đối khách quan, nghĩa là độc lập với tâm ý người quan sát, và do đó mọi hiện tượng chủ quan cũng đều có mặt khách quan của chúng.
Chương 2: Ðiệu múa của loài ong
Ðừng giao phó thân mạng cho kẻ khác
Có một buổi chiều lộng gió đi núi về, tôi thấy các cửa sổ và cửa ra vào của am Phương Vân bị gió thổi bật tung.
Hồi trưa ra đi, tôi chỉ khép hờ các cửa.
Gió lộng vào nhà, lạnh lẽo.
Giấy tờ trên bàn viết của tôi bay tứ tán.
Tôi lập tức đi đóng hết các cửa, đốt cây đèn lớn giữa nhà rồi đi nhặt giấy tờ và sắp lại trên bàn.
Xong xuôi, tôi đi đốt lửa ở lò sưởi.
Một lúc sau, củi nổ lép bép và căn nhà ấm áp trở lại.
Có nhiều khi ở chốn đông người náo nhiệt, bạn cảm thấy mệt mỏi, lạnh lẽo và trống trải.
Bạn rút lui về một mình, sống với nội tâm và cảm thấy ấm áp như tôi đang ngồi trong một căn nhà có mái, có tường che gió che sương và bên một bếp lửa hồng. | Bạn rút lui về một mình, sống với nội tâm và cảm thấy ấm áp như tôi đang ngồi trong một căn nhà có mái, có tường che gió che sương và bên một bếp lửa hồng.
Giác quan của chúng ta là những cửa sổ mở ra bên ngoài và nhiều khi gió lộng vào, thổi bay tứ tán mọi vật trong nhà.
Nhiều người trong chúng ta đã quen mở rộng tất cả các cửa sổ giác quan, mặc tình cho hình sắc và âm thanh bên ngoài xâm chiếm.
Nhiều khi những luồng gió bên ngoài lộng vào tận những ngõ ngách sâu kín của tâm hồn và tạo nên một khung cảnh trống lạnh xác xơ trong nội tâm ta.
Có khi nào bạn lỡ xem một cái phim rất tồi trên máy truyền hình mà cứ dành tiếp tục để cho máy mở đến khi chuyện phim chấm dứt?
Tiếng la, tiếng hét, tiếng rên rỉ và tiếng súng nổ làm cho bạn khó chịu lắm phải không?
Tại sao bạn không đứng dậy tắt máy đi mà cứ để cho cái phim kia nó hành hạ bạn như thế?
Cái máy truyền hình của bạn là cái máy rẻ tiền chỉ nghe được độc nhất có một đài.
Bạn không thể chuyển sang đài khác.
Bạn không muốn đóng cái cửa sổ của bạn.
Bạn sợ cô độc, trống lạnh khi phải đối diện với chính bạn.
Bạn cũng biết rằng tâm tư ta là gì thì ta là cái ấy.
Nếu ta giận thì ta là cái giận, nếu ta yêu thì ta là cái yêu, nếu ta ngắm một đỉnh núi phủ tuyết thì ta là đỉnh núi phủ tuyết, nếu ta theo dõi một chuyện phim thì ta là truyện phim, nếu ta nằm mơ thì ta là giấc mơ.
Ta có một phép lạ vô song là có thể trở thành bất cứ thứ gì mà ta ước muốn, mà không cần đến cuốn sách ước hay là chiếc đũa phép của một nàng tiên. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bạn rút lui về một mình, sống với nội tâm và cảm thấy ấm áp như tôi đang ngồi trong một căn nhà có mái, có tường che gió che sương và bên một bếp lửa hồng.
Giác quan của chúng ta là những cửa sổ mở ra bên ngoài và nhiều khi gió lộng vào, thổi bay tứ tán mọi vật trong nhà.
Nhiều người trong chúng ta đã quen mở rộng tất cả các cửa sổ giác quan, mặc tình cho hình sắc và âm thanh bên ngoài xâm chiếm.
Nhiều khi những luồng gió bên ngoài lộng vào tận những ngõ ngách sâu kín của tâm hồn và tạo nên một khung cảnh trống lạnh xác xơ trong nội tâm ta.
Có khi nào bạn lỡ xem một cái phim rất tồi trên máy truyền hình mà cứ dành tiếp tục để cho máy mở đến khi chuyện phim chấm dứt?
Tiếng la, tiếng hét, tiếng rên rỉ và tiếng súng nổ làm cho bạn khó chịu lắm phải không?
Tại sao bạn không đứng dậy tắt máy đi mà cứ để cho cái phim kia nó hành hạ bạn như thế?
Cái máy truyền hình của bạn là cái máy rẻ tiền chỉ nghe được độc nhất có một đài.
Bạn không thể chuyển sang đài khác.
Bạn không muốn đóng cái cửa sổ của bạn.
Bạn sợ cô độc, trống lạnh khi phải đối diện với chính bạn.
Bạn cũng biết rằng tâm tư ta là gì thì ta là cái ấy.
Nếu ta giận thì ta là cái giận, nếu ta yêu thì ta là cái yêu, nếu ta ngắm một đỉnh núi phủ tuyết thì ta là đỉnh núi phủ tuyết, nếu ta theo dõi một chuyện phim thì ta là truyện phim, nếu ta nằm mơ thì ta là giấc mơ.
Ta có một phép lạ vô song là có thể trở thành bất cứ thứ gì mà ta ước muốn, mà không cần đến cuốn sách ước hay là chiếc đũa phép của một nàng tiên. | Ta có một phép lạ vô song là có thể trở thành bất cứ thứ gì mà ta ước muốn, mà không cần đến cuốn sách ước hay là chiếc đũa phép của một nàng tiên.
Vậy thì tại sao ta lại mở cửa sổ của ta để đón nhận một cái truyện phim ồn ào, vô duyên và đầy tính cách bức hại như thế?
Tôi không muốn động tới những phim hay.
Tôi chỉ muốn nói tới những nhà làm phim rẻ tiền, chuyên thao túng cảm giác của khán giả.
Họ kích thích cái sợ, cái lo và cái hồi hộp của bạn và họ tàn phá khán giả của họ, kể cả những khán giả rất trẻ.
Ai cho phép họ làm như vậy?
Chính là khán giả của họ.
Chúng ta dễ dãi quá, chúng ta xem bất cứ phim ảnh nào.
Và cũng tại vì chúng ta vừa có cảm giác cô dơn vừa có cảm giác lười biếng.
Chúng ta không muốn tạo ra sự sống của chúng ta.
Chúng ta mở máy truyền hình ra và giao phó chúng ta cho kẻ khác dắt dẫn, uốn nắn, tạo tác và phá phách.
Theo dõi một truyện phim, bị cuốn hút theo nó là chúng ta phó thác thân mạng chúng ta cho kẻ khác rồi.
Ta nên biết rằng có thể là sau một truyện phim như thế, thần kinh và tâm tư ta bị tàn hại và đầu độc không ít.
Bạn, tôi chỉ mới nói về một chuyện phim.
Xung quanh chúng ta còn có bao nhiêu cạm bẫy khác do chính đồng loại chúng ta và do cả bản thân chúng ta tạo dựng ra và gài sẵn đó.
Trong một ngày ta có thể tán thân thất mạng nhiều lần vì chúng.
Ta phải cẩn thận, và phải bảo trọng thân mạng và sự an ổn của ta.
Nói như vậy không phải là lúc nào ta cũng đóng im ỉm tất cả những cửa sổ giác quan của ta. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ta có một phép lạ vô song là có thể trở thành bất cứ thứ gì mà ta ước muốn, mà không cần đến cuốn sách ước hay là chiếc đũa phép của một nàng tiên.
Vậy thì tại sao ta lại mở cửa sổ của ta để đón nhận một cái truyện phim ồn ào, vô duyên và đầy tính cách bức hại như thế?
Tôi không muốn động tới những phim hay.
Tôi chỉ muốn nói tới những nhà làm phim rẻ tiền, chuyên thao túng cảm giác của khán giả.
Họ kích thích cái sợ, cái lo và cái hồi hộp của bạn và họ tàn phá khán giả của họ, kể cả những khán giả rất trẻ.
Ai cho phép họ làm như vậy?
Chính là khán giả của họ.
Chúng ta dễ dãi quá, chúng ta xem bất cứ phim ảnh nào.
Và cũng tại vì chúng ta vừa có cảm giác cô dơn vừa có cảm giác lười biếng.
Chúng ta không muốn tạo ra sự sống của chúng ta.
Chúng ta mở máy truyền hình ra và giao phó chúng ta cho kẻ khác dắt dẫn, uốn nắn, tạo tác và phá phách.
Theo dõi một truyện phim, bị cuốn hút theo nó là chúng ta phó thác thân mạng chúng ta cho kẻ khác rồi.
Ta nên biết rằng có thể là sau một truyện phim như thế, thần kinh và tâm tư ta bị tàn hại và đầu độc không ít.
Bạn, tôi chỉ mới nói về một chuyện phim.
Xung quanh chúng ta còn có bao nhiêu cạm bẫy khác do chính đồng loại chúng ta và do cả bản thân chúng ta tạo dựng ra và gài sẵn đó.
Trong một ngày ta có thể tán thân thất mạng nhiều lần vì chúng.
Ta phải cẩn thận, và phải bảo trọng thân mạng và sự an ổn của ta.
Nói như vậy không phải là lúc nào ta cũng đóng im ỉm tất cả những cửa sổ giác quan của ta. | Ta phải cẩn thận, và phải bảo trọng thân mạng và sự an ổn của ta.
Nói như vậy không phải là lúc nào ta cũng đóng im ỉm tất cả những cửa sổ giác quan của ta.
Thực ra, trong thế giới mà ta gọi là "bên ngoài", có biết bao điều mầu nhiệm.
Cửa sổ của ta hãy mở trên những mầu nhiệm đó.
Bạn phải chọn lựa và bạn phải thắp lên ngọn đèn quán niệm.
Ngồi bên một dòng nước trong, nghe một bản nhạc hay hoặc theo dõi một truyện phim đẹp, ta cũng đừng phó thác ta hoàn toàn cho dòng nước, khúc nhạc hoặc truyện phim.
Mặt trời ý thức mà được thắp lên là hầu hết mọi tai nạn ta đều tránh thoát được và dòng nước sẽ trong hơn, tiếng nhạc và truyện phim sẽ làm ta thấy rõ tâm tư của người nghệ sĩ hơn.
Người hành giả sơ tâm thường bỏ chợ búa xã hội vào ngồi trong rừng xanh là để đóng lại những cái cửa sổ thường làm cho người ấy loạn tâm, và suốt ngày thấy núi rừng yên tĩnh, do đó, có thể khôi phục lại được chính mình mà không để tự mình trôi lăn theo dòng thác lũ của "thế giới bên ngoài ".
Rừng cây im mát thanh tịnh giúp cho hành giả nhiếp tâm vào chánh niệm.
Một khi chánh niệm đã vững chãi rồi thì dù ngồi giữa chốn chợ búa hành giả cũng không còn bị xáo động.
Nhưng cho đến khi ấy, hành giả phải thận trọng, phải nuôi dưỡng chánh niệm hàng giờ, hàng ngày, phải chọn lựa những khung cảnh và những thực phẩm thích hợp cho bản thân mình.
Người bị cảm chưa được tắm nước lạnh
Nếu là một nhà phê bình văn nghệ, bạn sẽ đọc một cuốn truyện hoặc xem một cuốn phim bằng con mắt biết nhận xét của bạn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ta phải cẩn thận, và phải bảo trọng thân mạng và sự an ổn của ta.
Nói như vậy không phải là lúc nào ta cũng đóng im ỉm tất cả những cửa sổ giác quan của ta.
Thực ra, trong thế giới mà ta gọi là "bên ngoài", có biết bao điều mầu nhiệm.
Cửa sổ của ta hãy mở trên những mầu nhiệm đó.
Bạn phải chọn lựa và bạn phải thắp lên ngọn đèn quán niệm.
Ngồi bên một dòng nước trong, nghe một bản nhạc hay hoặc theo dõi một truyện phim đẹp, ta cũng đừng phó thác ta hoàn toàn cho dòng nước, khúc nhạc hoặc truyện phim.
Mặt trời ý thức mà được thắp lên là hầu hết mọi tai nạn ta đều tránh thoát được và dòng nước sẽ trong hơn, tiếng nhạc và truyện phim sẽ làm ta thấy rõ tâm tư của người nghệ sĩ hơn.
Người hành giả sơ tâm thường bỏ chợ búa xã hội vào ngồi trong rừng xanh là để đóng lại những cái cửa sổ thường làm cho người ấy loạn tâm, và suốt ngày thấy núi rừng yên tĩnh, do đó, có thể khôi phục lại được chính mình mà không để tự mình trôi lăn theo dòng thác lũ của "thế giới bên ngoài ".
Rừng cây im mát thanh tịnh giúp cho hành giả nhiếp tâm vào chánh niệm.
Một khi chánh niệm đã vững chãi rồi thì dù ngồi giữa chốn chợ búa hành giả cũng không còn bị xáo động.
Nhưng cho đến khi ấy, hành giả phải thận trọng, phải nuôi dưỡng chánh niệm hàng giờ, hàng ngày, phải chọn lựa những khung cảnh và những thực phẩm thích hợp cho bản thân mình.
Người bị cảm chưa được tắm nước lạnh
Nếu là một nhà phê bình văn nghệ, bạn sẽ đọc một cuốn truyện hoặc xem một cuốn phim bằng con mắt biết nhận xét của bạn. | Người bị cảm chưa được tắm nước lạnh
Nếu là một nhà phê bình văn nghệ, bạn sẽ đọc một cuốn truyện hoặc xem một cuốn phim bằng con mắt biết nhận xét của bạn.
Ít nhiều trong khi đọc hoặc trong khi xem bạn cũng ý thức được trách vụ của nhà phê bình nơi bạn cho nên bạn không là "nạn nhân" của cốt truyện đó hoặc chuyện phim đó.
Bạn có khả năng tự chủ.
Người sống trong chánh niệm là một người có tự chủ: tuy cửa sổ giác quan của họ mở ra trên thế giới, nhưng căn nhà tâm ý của họ không hề bị cướp đoạt.
Nói như vậy để chúng ta nhớ rằng thế giới hình sắc và âm thanh "bên ngoài" không phải là kẻ thù độc hại của chúng ta.
Nếu chúng ta giữ gìn những cửa sổ giác quan của chúng ta là tại vì chúng ta chưa đủ sức mạnh để đương đầu với thế giới ấy, cũng như ta bị cảm cúm thì ta chưa thể đi tắm nước lạnh.
Tôi nhớ ngày xưa trong một bữa cơm chay tại nhà Lá Bối, tôi được mời phát biểu ý kiến về văn nghệ.
Tôi nói theo tôi văn nghệ phải có tính cách khai thị và trị liệu.
Khai thị là mở bày cho người ta thấy tình trạng thật của con người và của xã hội, và trị liệu là đề ra đường lối chữa trị thích hợp.
Hôm ấy có nhiều văn nghệ sĩ, trong đó có ông Hồ Hữu Tường.
Ông Tường đứng lên nói nửa đùa nửa thật: "Ðó là ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang thuở xưa.
Văn nghệ trị liệu là Văn nghệ cứu người và cứu nước.
Tôi nhớ trong Ðạo Phật có nhiều khi người ta gọi Phật là y vương, tức là vua thầy thuốc, bởi vì sự giáo hóa của Phật được thực hiện trên sự chẩn định căn cơ tâm lý của từng chúng sanh. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Người bị cảm chưa được tắm nước lạnh
Nếu là một nhà phê bình văn nghệ, bạn sẽ đọc một cuốn truyện hoặc xem một cuốn phim bằng con mắt biết nhận xét của bạn.
Ít nhiều trong khi đọc hoặc trong khi xem bạn cũng ý thức được trách vụ của nhà phê bình nơi bạn cho nên bạn không là "nạn nhân" của cốt truyện đó hoặc chuyện phim đó.
Bạn có khả năng tự chủ.
Người sống trong chánh niệm là một người có tự chủ: tuy cửa sổ giác quan của họ mở ra trên thế giới, nhưng căn nhà tâm ý của họ không hề bị cướp đoạt.
Nói như vậy để chúng ta nhớ rằng thế giới hình sắc và âm thanh "bên ngoài" không phải là kẻ thù độc hại của chúng ta.
Nếu chúng ta giữ gìn những cửa sổ giác quan của chúng ta là tại vì chúng ta chưa đủ sức mạnh để đương đầu với thế giới ấy, cũng như ta bị cảm cúm thì ta chưa thể đi tắm nước lạnh.
Tôi nhớ ngày xưa trong một bữa cơm chay tại nhà Lá Bối, tôi được mời phát biểu ý kiến về văn nghệ.
Tôi nói theo tôi văn nghệ phải có tính cách khai thị và trị liệu.
Khai thị là mở bày cho người ta thấy tình trạng thật của con người và của xã hội, và trị liệu là đề ra đường lối chữa trị thích hợp.
Hôm ấy có nhiều văn nghệ sĩ, trong đó có ông Hồ Hữu Tường.
Ông Tường đứng lên nói nửa đùa nửa thật: "Ðó là ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang thuở xưa.
Văn nghệ trị liệu là Văn nghệ cứu người và cứu nước.
Tôi nhớ trong Ðạo Phật có nhiều khi người ta gọi Phật là y vương, tức là vua thầy thuốc, bởi vì sự giáo hóa của Phật được thực hiện trên sự chẩn định căn cơ tâm lý của từng chúng sanh. | Tôi nhớ trong Ðạo Phật có nhiều khi người ta gọi Phật là y vương, tức là vua thầy thuốc, bởi vì sự giáo hóa của Phật được thực hiện trên sự chẩn định căn cơ tâm lý của từng chúng sanh.
Tất Ðạt Đa cũng đã vào ngồi trong rừng và bên dòng Ni Liên Thuyền nhiều năm trước khi trở về với xã hội.
Con người hôm nay sống trong một xã hội đầy tiếng ồn, bụi bặm và sự chèn ép lẫn nhau, chỉ có thể thỉnh thoảng trốn vào công viên được một chút mà thôi.
Trong thời đại ta, âm nhạc, tiểu thuyết, quán rượu và những chương trình truyền hình có quá ít tính chất trị liệu.
Trái lại những thứ đó có thể là cho con người chán chường hơn, rách nát hơn, mệt mỏi hơn.
Vậy con người phải tìm cách tự vệ.
Phải biết sử dụng cách đóng mở những cửa sổ giác quan.
Ðối với sự thiền tập, đó là bước đầu rất quan trọng.
Tôi cần những khung cảnh và những phẩm vật thích hợp với tôi, có thể làm cho tôi an lạc, thanh tịnh, vui tươi, khỏe mạnh.
Tôi biết trong "thế giới bên ngoài", có những khung cảnh và những phẩm vật như thế.
Ví dụ một cảnh suối rừng, một đứa trẻ thơ, một người bạn thân, một cuốn sách hay, một khúc hòa tấu, một bữa cơm ngon và lành... Tôi biết tôi có thể tìm đến hoặc với tới những thứ ấy.
Nhưng tôi cũng biết rằng thiếu chánh niệm tôi cũng không thể thưởng thức và bảo vệ cho những thứ đó.
Hãy chăm bón cây lựu trước sân nhà
Khi ta mới tới ngồi bên một dòng suối, ta thấy sung sướng được nhìn dòng nước chảy, được nghe tiếng suối reo và được ngắm những tảng đá bụi cây hạt sỏi bên suối. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tôi nhớ trong Ðạo Phật có nhiều khi người ta gọi Phật là y vương, tức là vua thầy thuốc, bởi vì sự giáo hóa của Phật được thực hiện trên sự chẩn định căn cơ tâm lý của từng chúng sanh.
Tất Ðạt Đa cũng đã vào ngồi trong rừng và bên dòng Ni Liên Thuyền nhiều năm trước khi trở về với xã hội.
Con người hôm nay sống trong một xã hội đầy tiếng ồn, bụi bặm và sự chèn ép lẫn nhau, chỉ có thể thỉnh thoảng trốn vào công viên được một chút mà thôi.
Trong thời đại ta, âm nhạc, tiểu thuyết, quán rượu và những chương trình truyền hình có quá ít tính chất trị liệu.
Trái lại những thứ đó có thể là cho con người chán chường hơn, rách nát hơn, mệt mỏi hơn.
Vậy con người phải tìm cách tự vệ.
Phải biết sử dụng cách đóng mở những cửa sổ giác quan.
Ðối với sự thiền tập, đó là bước đầu rất quan trọng.
Tôi cần những khung cảnh và những phẩm vật thích hợp với tôi, có thể làm cho tôi an lạc, thanh tịnh, vui tươi, khỏe mạnh.
Tôi biết trong "thế giới bên ngoài", có những khung cảnh và những phẩm vật như thế.
Ví dụ một cảnh suối rừng, một đứa trẻ thơ, một người bạn thân, một cuốn sách hay, một khúc hòa tấu, một bữa cơm ngon và lành... Tôi biết tôi có thể tìm đến hoặc với tới những thứ ấy.
Nhưng tôi cũng biết rằng thiếu chánh niệm tôi cũng không thể thưởng thức và bảo vệ cho những thứ đó.
Hãy chăm bón cây lựu trước sân nhà
Khi ta mới tới ngồi bên một dòng suối, ta thấy sung sướng được nhìn dòng nước chảy, được nghe tiếng suối reo và được ngắm những tảng đá bụi cây hạt sỏi bên suối. | Hãy chăm bón cây lựu trước sân nhà
Khi ta mới tới ngồi bên một dòng suối, ta thấy sung sướng được nhìn dòng nước chảy, được nghe tiếng suối reo và được ngắm những tảng đá bụi cây hạt sỏi bên suối.
Ta với suối là một, và ta có được sự êm mát, thanh tịnh và trong sáng của suối.
Nhưng có thể ta sẽ chán dòng suối sau đó vì tâm ta không an.
Tâm ta nghĩ đến những việc khác và ta đồng nhất ta với những việc khác ấy, do đó ta không còn là dòng suối nữa.
Người thiền giả thân ở rừng mà tâm ở chợ thì rừng có cũng như không.
Khi ta sống bên một đứa trẻ thơ hoặc bên một người bạn hiền, ta thấy được sự tươi mát của đứa bé hoặc sự ấm áp của người bạn.
Ta được hưởng sự tươi mát đó hoặc sự ấm áp đó.
Ta là đứa bé, ta là người bạn.
Nhưng nếu tâm ta không an, thì đứa bé có đó cũng như không, người bạn có đó cũng như không.
Ta phải có ý thức về sự quý giá của đứa bé hay của người bạn và như thế ta mới thưởng thức được sự có mặt của họ, và mới bồi đắp và nuôi dưỡng được họ để họ mãi mãi còn là niềm hạnh phúc của ta.
Nếu ta vô tâm và dại dột, ta có thể sinh ra bất mãn, trách cứ, cãi cọ với họ, hoặc đòi hỏi quá đáng nơi họ, để cuối cùng ta mất họ.
Mà một khi mất họ rồi thì ta mới thấy họ quý giá, ta mới tiếc thương họ.
Khi còn họ thì ta không trân quý, khi mất họ rồi thì ta có tiếc thương cũng vô ích.
Quanh ta đầy dẫy những mầu nhiệm: một cốc nước, một tia nắng, một tờ lá, một con sâu, một bông hoa, một tiếng cười, một trận mưa.
Nếu ta có chánh niệm, ta sẽ dễ dàng thấy được sự mầu nhiệm của vạn vật. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Hãy chăm bón cây lựu trước sân nhà
Khi ta mới tới ngồi bên một dòng suối, ta thấy sung sướng được nhìn dòng nước chảy, được nghe tiếng suối reo và được ngắm những tảng đá bụi cây hạt sỏi bên suối.
Ta với suối là một, và ta có được sự êm mát, thanh tịnh và trong sáng của suối.
Nhưng có thể ta sẽ chán dòng suối sau đó vì tâm ta không an.
Tâm ta nghĩ đến những việc khác và ta đồng nhất ta với những việc khác ấy, do đó ta không còn là dòng suối nữa.
Người thiền giả thân ở rừng mà tâm ở chợ thì rừng có cũng như không.
Khi ta sống bên một đứa trẻ thơ hoặc bên một người bạn hiền, ta thấy được sự tươi mát của đứa bé hoặc sự ấm áp của người bạn.
Ta được hưởng sự tươi mát đó hoặc sự ấm áp đó.
Ta là đứa bé, ta là người bạn.
Nhưng nếu tâm ta không an, thì đứa bé có đó cũng như không, người bạn có đó cũng như không.
Ta phải có ý thức về sự quý giá của đứa bé hay của người bạn và như thế ta mới thưởng thức được sự có mặt của họ, và mới bồi đắp và nuôi dưỡng được họ để họ mãi mãi còn là niềm hạnh phúc của ta.
Nếu ta vô tâm và dại dột, ta có thể sinh ra bất mãn, trách cứ, cãi cọ với họ, hoặc đòi hỏi quá đáng nơi họ, để cuối cùng ta mất họ.
Mà một khi mất họ rồi thì ta mới thấy họ quý giá, ta mới tiếc thương họ.
Khi còn họ thì ta không trân quý, khi mất họ rồi thì ta có tiếc thương cũng vô ích.
Quanh ta đầy dẫy những mầu nhiệm: một cốc nước, một tia nắng, một tờ lá, một con sâu, một bông hoa, một tiếng cười, một trận mưa.
Nếu ta có chánh niệm, ta sẽ dễ dàng thấy được sự mầu nhiệm của vạn vật. | Nếu ta có chánh niệm, ta sẽ dễ dàng thấy được sự mầu nhiệm của vạn vật.
Trong ta cũng đầy dẫy những mầu nhiệm: mắt ta thấy được bao nhiêu hình dáng và mầu sắc, tai ta nghe được bao nhiêu âm thanh, óc ta suy tưởng được từ một hạt bụi cho đến một thiên hà, tim ta thổn thức theo được nhịp tim của bao nhiêu loài sinh vật khác... Những lúc mệt mỏi và chán nản vì cuộc sống vật lộn và ồn ào, ta thường không thấy được sự mầu nhiệm trong ta và trong vạn vật.
Cây lựu ở sân trước nhà bạn, bạn hãy nhìn nó trong chánh niệm: nó là một thực tại mầu nhiệm.
Bạn để ý lân mẫn và săn sóc nó thì bạn chia sẽ được sự mầu nhiệm của nó.
Mới có một tuần lễ được chăm bón mà nó tốt tươi hẳn lên.
Những người thân của bạn cũng vậy.
Dưới ảnh hưởng của chánh niệm, bạn trở thành cẩn trọng, hiểu biết ưu ái; phong thái của bạn không những nuôi dưỡng và làm đẹp cho bạn mà còn nuôi dưỡng và làm đẹp cho những người sống bên cạnh bạn.
Một người sống trong chánh niệm thì không những cả nhà được nhờ cậy mà xã hội cũng nhờ thế mà thay đổi.
Vì lý do vừa nêu ra đó, ta thấy tâm ta quyết định mọi đường.
Ðỉnh núi tuyết sáng rỡ và hùng vĩ kia ta ngắm nó thì ta với nó là một.
Muốn cho đỉnh núi đó còn thì tâm ta phải có mặt.
Tâm ta có mặt thì dù ta có nhắm mắt lại đỉnh tuyết ấy cũng còn đó.
Khi người thiền giả ngồi trong tư thế kiết già, tuy y có đóng bớt lại một vài cánh của sổ giác quan, y vẫn cảm thấy sự có mặt của tất cả vũ trụ bỏi vì tâm y có mặt.
Nhiều khi y nhắm mắt chỉ là để nhìn thấy cho rõ, như tôi đã nói một lần. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nếu ta có chánh niệm, ta sẽ dễ dàng thấy được sự mầu nhiệm của vạn vật.
Trong ta cũng đầy dẫy những mầu nhiệm: mắt ta thấy được bao nhiêu hình dáng và mầu sắc, tai ta nghe được bao nhiêu âm thanh, óc ta suy tưởng được từ một hạt bụi cho đến một thiên hà, tim ta thổn thức theo được nhịp tim của bao nhiêu loài sinh vật khác... Những lúc mệt mỏi và chán nản vì cuộc sống vật lộn và ồn ào, ta thường không thấy được sự mầu nhiệm trong ta và trong vạn vật.
Cây lựu ở sân trước nhà bạn, bạn hãy nhìn nó trong chánh niệm: nó là một thực tại mầu nhiệm.
Bạn để ý lân mẫn và săn sóc nó thì bạn chia sẽ được sự mầu nhiệm của nó.
Mới có một tuần lễ được chăm bón mà nó tốt tươi hẳn lên.
Những người thân của bạn cũng vậy.
Dưới ảnh hưởng của chánh niệm, bạn trở thành cẩn trọng, hiểu biết ưu ái; phong thái của bạn không những nuôi dưỡng và làm đẹp cho bạn mà còn nuôi dưỡng và làm đẹp cho những người sống bên cạnh bạn.
Một người sống trong chánh niệm thì không những cả nhà được nhờ cậy mà xã hội cũng nhờ thế mà thay đổi.
Vì lý do vừa nêu ra đó, ta thấy tâm ta quyết định mọi đường.
Ðỉnh núi tuyết sáng rỡ và hùng vĩ kia ta ngắm nó thì ta với nó là một.
Muốn cho đỉnh núi đó còn thì tâm ta phải có mặt.
Tâm ta có mặt thì dù ta có nhắm mắt lại đỉnh tuyết ấy cũng còn đó.
Khi người thiền giả ngồi trong tư thế kiết già, tuy y có đóng bớt lại một vài cánh của sổ giác quan, y vẫn cảm thấy sự có mặt của tất cả vũ trụ bỏi vì tâm y có mặt.
Nhiều khi y nhắm mắt chỉ là để nhìn thấy cho rõ, như tôi đã nói một lần. | Nhiều khi y nhắm mắt chỉ là để nhìn thấy cho rõ, như tôi đã nói một lần.
Vậy hình sắc và âm thanh của "thế giới bên ngoài" không phải là giặc.
Giặc chính là thất niệm, nghĩa là sự vắng mặt của tâm.
Ðừng trở thành một thuộc địa
Thợ thuyền Pháp, và cả đảng Xã Hội đang cầm quyền nữa, hiện đang tranh đấu để rút thời giờ làm việc hàng tuần từ bốn mươi giờ xuống ba mươi lăm giờ.
Cuộc tranh đấu thật cam go.
Nhưng năm giờ đồng hồ đạt được đó, chúng ta sẽ sử dụng như thế nào?
Nếu chúng ta cũng sử dụng nó như buổi chiều thứ bảy, nghĩa là để ngồi hết buổi trước máy truyền hình hoặc trong một quán rượu thì oan uổng biết mấy.
Cố nhiên là ta cần thời giờ để nghỉ ngơi, để sống.
Ta có thói quen: hễ rảnh tay là ta mở máy truyền hình mà theo dõi một truyện phim trinh thám hay gì cũng được, để khỏi phải "ở không", nghĩa là để khỏi phải đối diện với chính ta.
Nhiều khi máy truyền hình làm ta mệt thêm, cáu thêm nhức đầu thêm… Thì giờ tự do mà ta tranh đấu được có thể bị các công ty phim ảnh, quảng cáo và tuyên truyền chính trị cướp đoạt, rồi cuối cùng ta sẽ bị biến thành những thuộc địa của kẻ khác.
Ta phải tìm cách sử dụng thì giờ nghỉ ngơi quý báu của ta cho hợp lý, để ta thực sự được nghỉ ngơi và có được sự an lạc.
Bạn chọn những chương trình hay trên các đài truyền hình và chỉ mở máy để nghe những chương trình ấy mà thôi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhiều khi y nhắm mắt chỉ là để nhìn thấy cho rõ, như tôi đã nói một lần.
Vậy hình sắc và âm thanh của "thế giới bên ngoài" không phải là giặc.
Giặc chính là thất niệm, nghĩa là sự vắng mặt của tâm.
Ðừng trở thành một thuộc địa
Thợ thuyền Pháp, và cả đảng Xã Hội đang cầm quyền nữa, hiện đang tranh đấu để rút thời giờ làm việc hàng tuần từ bốn mươi giờ xuống ba mươi lăm giờ.
Cuộc tranh đấu thật cam go.
Nhưng năm giờ đồng hồ đạt được đó, chúng ta sẽ sử dụng như thế nào?
Nếu chúng ta cũng sử dụng nó như buổi chiều thứ bảy, nghĩa là để ngồi hết buổi trước máy truyền hình hoặc trong một quán rượu thì oan uổng biết mấy.
Cố nhiên là ta cần thời giờ để nghỉ ngơi, để sống.
Ta có thói quen: hễ rảnh tay là ta mở máy truyền hình mà theo dõi một truyện phim trinh thám hay gì cũng được, để khỏi phải "ở không", nghĩa là để khỏi phải đối diện với chính ta.
Nhiều khi máy truyền hình làm ta mệt thêm, cáu thêm nhức đầu thêm… Thì giờ tự do mà ta tranh đấu được có thể bị các công ty phim ảnh, quảng cáo và tuyên truyền chính trị cướp đoạt, rồi cuối cùng ta sẽ bị biến thành những thuộc địa của kẻ khác.
Ta phải tìm cách sử dụng thì giờ nghỉ ngơi quý báu của ta cho hợp lý, để ta thực sự được nghỉ ngơi và có được sự an lạc.
Bạn chọn những chương trình hay trên các đài truyền hình và chỉ mở máy để nghe những chương trình ấy mà thôi. | Bạn chọn những chương trình hay trên các đài truyền hình và chỉ mở máy để nghe những chương trình ấy mà thôi.
Và bạn chọn những khung cảnh đẹp đẽ và êm mát, những buổi sum họp thân mật với những người bạn yêu mến, những cuốn sách và những đĩa hát bạn ưa thích v.v... Tất cả những gì bạn đã chọn, bạn hãy sống thật thoải mái và có ý thức với chúng.
Bạn nhớ rằng: mình chọn những cái gì thì mình sẽ là cái ấy.
Có khi nào ở trước bãi biển lúc mặt trời mọc hoặc trên núi cao lúc giữa trưa, bạn vươn vai thở một hơi dài hít vào đầy phổi không khí trong sạch của bầu trời lồng lộng nơi ấy?
Có phải là bạn thấy mình là một với trời biển và núi sông không?
Nếu bạn nghĩ rằng bạn ở xa biển, xa núi quá thì bạn hãy ngồi lại trong tư thế hoa sen, và làm như người hành giả kia, thở một hơi thở vừa nhẹ vừa dài, và đưa biển, núi và thái hư về trong bạn.
Hoặc bạn ra bờ sông hoặc ra công viên gần nơi bạn cư trú.
Ðối tượng nhận thức không thể tách rời khỏi chủ thể nhận thức
Ý thức là ý thức về một cái gì, vì vậy đối tượng quán chiếu của tâm cũng là tâm.
Khi quán chiếu núi thì tâm là núi, khi quán chiếu biển thì tâm là biển.
Duy thức học nhấn mạnh đến điểm đó: nhận thức bao hàm cả chủ thể nhận thức lẫn đối tượng nhận thức.
Khi ta quán chiếu thân thể ta thì ta giới hạn nhận thức của ta trong phạm vi thân thể ta, và ta là thân thể ta, dù rằng thân thể ta không phải là một thực thể riêng biệt, độc lập, có thể tồn tại độc lập với vũ trụ. |