id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19852747 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Wat%20Phichai%20Yat | Wat Phichai Yat | Wat Phichaya Yatikaram Worawihan, còn gọi là Wat Phichai Yat () là một chùa Phật giáo Thái ở Băng Cốc, được xem là một trong những ngôi chùa đẹp và nổi bật nhất ở Băng Cốc và phía Thonburi. Ngôi chùa nằm dọc theo bờ Khlong Somdet Chao Phraya ở Khlong San gần Wongwian Lek hiện tại.
Wat Phichai Yat đã được đăng ký di tích cổ quốc gia bởi Cục Mỹ thuật vào năm 1949.
Hình ảnh
Tham khảo
Quận Khlong San
Chùa ở Bangkok
Di tích cổ đã được đăng ký ở Bangkok |
19852757 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Nom%20yen | Nom yen | Nom yen (, ) là một thức uống Thái làm từ siro salak và sữa lạnh. Trong tiếng Thái, nom có nghĩa là 'sữa' và yen nghĩa là 'lạnh'. Có hai loại sữa dùng để làm nom yen. Nom sot là sữa tươi, nom khon là sữa đặc, và nom khon wan là sữa đặc có đường. Có hai cách phục vụ nom yen: đá và ướp lạnh. Đây là đồ uống có thể tìm thấy mọi nơi tại Thái Lan từ các gian hàng trên đường phố. Giá dao động từ 15 THB (baht Thái) đến 25 THB hoặc từ 30 đến 60 THB tại một số cửa hàng cà phê. Người Thái cũng làm đồ ngọt từ nom yen. Một phong cách khác của nom yen có thể tìm thấy tại các cửa hàng đồ ngọt. Nó gọi là namkhaeng sai hoặc nom yen đá bào kiểu Thái. Nguyên liệu sẽ tương tự như nom yen, ngoại trừ đông đá chúng. Không giống nom yen, người Thái thường cân nhắc namkhaeng sai như một món ngọt tự làm bởi vì nó dễ và nguyên liệu có thể tìm thấy tại các khu vực địa phương.
Tham khảo
Thức uống Thái |
19852762 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Mu%20kratha | Mu kratha | Mu kratha (, , ) là một loại hình nấu ăn Đông Nam Á, bắt nguồn từ Thái Lan. Tại Philippines, Singapore và Malaysia, nó còn được gọi là mookata. Tại Lào, nó được gọi là sindad ().
Lịch sử
Mu kratha nghĩa là 'thịt lợn áp chảo' trong tiếng Thái (mu là 'lợn' hoặc 'thịt lợn' và kratha là 'chảo' hoặc 'chảo rán'). Mu kratha giống như thịt nướng Hàn Quốc và lẩu Nhật Bản hoặc Trung Quốc. Phiên bản Thái người ta sử dụng than củi. Khái niệm ăn uống này lan khắp Thái Lan đến Lào, Philippines, Malaysia, Indonesia và Singapore.
Chuẩn bị và phục vụ
Thịt lát (hầu hết là thịt lợn) được nướng trên vỉ nướng hình vòm trung tâm, xung quanh nó là rau và các nguyên liệu khác như cá viên, nấu trong súp (còn được gọi là Lẩu Thái). Nồi lẩu được đặt trên than bùng lửa dùng để nướng hoặc để nấu đồ ăn. Những thực phẩm tốt nhất dùng để nấu theo phương thức này gồm thịt heo, gà, thịt cừu, bê, hải sản, rau, và nấm. Mu kratha truyền thống địa phương Thái thường sử dụng chung với nam chim suki, một loại sốt nổi tiếng. Nó nổi tiếng với việc sử dụng tương ớt làm nguyên liệu chính. Một vài nhà hàng phục vụ nam chim hải sản ăn kèm với hải sản.
Khi nấu mu kratha, người ta thường nướng một lớp mỡ trên vỉ nướng để tránh đồ ăn dính trên mâm.
Đời sống văn hóa
Thái Lan có rất nhiều nhà hàng mu kratha vì nó rất dễ chuẩn bị và phù hợp với nhiều loại đồ ăn.
Xem thêm
Barbecue
Nướng hun khói
Ẩm thực Thái Lan
Tham khảo
Ẩm thực Thái Lan
Món lợn
Thịt nướng hun khói
Món ăn quốc gia |
19852766 | https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1%20m%C3%A0o%20g%C3%A0%20v%E1%BB%87n | Cá mào gà vện | Cá mào gà vện (danh pháp: Salarias fasciatus) là một loài cá biển thuộc chi Salarias trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1786.
Từ nguyên
Tính từ định danh fasciatus trong tiếng Latinh có nghĩa là “có sọc”, hàm ý đề cập đến các dải sọc màu sẫm trên thân và vây lưng của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
Cá mào gà vện có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Samoa và quần đảo Marshall, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu, phía nam đến Úc.
Ở Việt Nam, cá mào gà vện được ghi nhận tại hòn Mê (Thanh Hóa), phá Tam Giang – đầm Cầu Hai, cù lao Chàm, vịnh Nha Trang, bờ biển Ninh Hải (Ninh Thuận), cù lao Câu (Bình Thuận), cùng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Cá mào gà vện xuất hiện ở đới mặt bằng rạn, trong đầm phá nông và trên các rạn san hô ngoài khơi đến độ sâu ít nhất là 8 m, nhưng cũng có thể tìm thấy chúng ở khu vực cửa sông giàu tảo.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở cá mào gà vện là 14 cm. Loài này có nhiều biến dị kiểu hình, nhưng thường thấy nhất là màu vàng lục đến nâu vàng với các vạch đen dọc hai bên lườn cùng nhiều vệt đốm trắng (nhiều đốm thân dưới lớm hơn mắt). Nhiều chấm xanh óng ở phía sau của thân trên.
Gai hậu môn của con đực thon dài hơn con cái, nhưng không thấy biểu hiện dị hình giới tính rõ ràng nào khác, cho thấy S. fasciatus biểu hiện mức độ dị hình giới tính thấp.
Số gai vây lưng: 12; Số tia vây lưng: 18–20; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 19–21; Số tia vây ngực: 14; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 3.
Sinh thái
Thức ăn của cá mào gà vện là tảo. Trứng của chúng có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ.
Ở đảo Okinawa, mùa sinh sản của cá mào gà vện kéo dài từ tháng 3 đến tháng 7, đạt đỉnh điểm là từ tháng 4 đến tháng 6.
Thương mại
Cá mào gà vện cũng được bán như cá cảnh.
Tham khảo
F
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá biển Đỏ
Cá Ả Rập
Cá Ai Cập
Cá Sudan
Cá Seychelles
Cá Maldives
Cá Thái Lan
Cá Việt Nam
Cá New Guinea
Cá Philippines
Cá Nhật Bản
Cá Fiji
Động vật được mô tả năm 1786 |
19852768 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Cionus%20marginatus | Cionus marginatus | Cionus marginatus là loài côn trùng thuộc nhóm Bọ cánh cứng. Loài này được Germar, E.F. mô tả lần đầu tiên vào năm 1818.
Tham khảo
Cionus |
19852769 | https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Ti%E1%BB%83u%20bang%20Texas | Đại học Tiểu bang Texas | Đại học Bang Texas (Texas State University hay viết tắt là TXST) là một trường đại học nghiên cứu công lập với cơ sở chính ở San Marcos, Texas và một cơ sở khác ở Round Rock. Kể từ khi thành lập vào năm 1899, trường đã phát triển thành một trong những trường đại học lớn nhất Hoa Kỳ.
Địa chỉ của trường: 601 University Dr, San Marcos, TX 78666, United States.
Lịch sử
Được cấp phép thành lập bởi Cơ quan lập pháp Texas (Texas Legislature) vào năm 1899, Trường Sư phạm Tây Nam Tiểu bang Texas (Southwest Texas State Normal School) mở cửa vào năm 1903. Trong thế kỷ đầu tiên, Cơ quan Lập pháp vẫn giữ nguyên tên gọi của khu vực Tây Nam trong tên trường, nhưng khi nhiệm vụ của nó thay đổi, nó trở thành Trường Cao đẳng Sư phạm (Normal College) đầu tiên, sau đó là Cao đẳng Sư phạm (Teachers College), Cao đẳng (College) và Đại học (University). Những thay đổi này phản ánh sự chuyển đổi từ một cơ sở đào tạo giáo viên sang một trường đại học khu vực. Năm 2003, Cơ quan lập pháp đã bỏ tên gọi khu vực và trường đã đổi tên trở thành Đại học Bang Texas-San Marcos (Texas State University-San Marcos), và vào năm 2013, tên địa điểm San Marcos đã bị loại bỏ khi Đại học Bang Texas trở thành một trường đại học nghiên cứu mới nổi trong bang, mang tên Đại học Bang Texas - Texas State University, viết tắt là TXST.
Thứ hạng
Trường có thứ hạng 280 trong bảng xếp hạng các trường Đại học Quốc gia hàng đầu Hoa Kỳ năm 2024, theo bảng xếp hạng U.S. News & World Report.
Chi phí học tập và học bổng
Trường có chi phí học tập trong một năm là 20,000$ với sinh viên ngoài tiểu bang Texas, bao gồm cả sinh viên quốc tế (non-resident), và 10,000$ với sinh viên là cư dân bang Texas. Học phí này áp dụng cho bậc Đại học, với 12 tín chỉ học tập/năm.
Sinh viên cũng có khả năng nhận các học bổng và hỗ trợ tài chính khi đáp ứng các điều kiện học bổng của trường.
Văn phòng tuyển sinh quốc tế
Trường duy trì văn phòng tuyển sinh quốc tế tại một số quốc gia, trong đó có một Văn phòng Tuyển sinh Quốc tế khu vực Đông Nam Á và Việt Nam, đặt tại TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam, nhằm mở rộng mối quan hệ hợp tác với các đối tác, đại học tại khu vực.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website trường (tiếng Anh)
Website trường (tiếng Việt)
__LUÔN_MỤC_LỤC__
__CHỈ_MỤC__
Hoa Kỳ
Giáo dục Hoa Kỳ
Giáo dục Hoa Kỳ theo tiểu bang
Giáo dục Hoa Kỳ theo thành phố
Trường đại học và cao đẳng ở Texas |
19852771 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2a%20b%C3%ACnh%20trong%20danh%20d%E1%BB%B1 | Hòa bình trong danh dự | "Hòa bình trong danh dự" () là cụm từ được Tổng thống Mỹ Richard Nixon sử dụng trong bài phát biểu ngày 23 tháng 1 năm 1973 để mô tả Hiệp định Hòa bình Paris nhằm chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Cụm từ này là một biến thể của lời hứa khi tranh cử mà Nixon đưa ra năm 1968: "Tôi cam kết với quý vị rằng chúng ta sẽ có một kết thúc vinh quang cho cuộc chiến ở Việt Nam". Hiệp định quy định rằng lệnh ngừng bắn sẽ diễn ra bốn ngày sau đó. Theo kế hoạch này, trong vòng 60 ngày kể từ ngày ngừng bắn, Bắc Việt sẽ thả tất cả tù binh Mỹ và toàn bộ quân đội Mỹ sẽ rút khỏi miền Nam Việt Nam. Ngày 29 tháng 3 năm 1973, người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân đội Bắc Việt chiếm được Sài Gòn.
Gắn liền với cụm từ này là ý tưởng mà Nixon tuyên bố vào năm 1968 có một kế hoạch bí mật nhằm chấm dứt chiến tranh. Nixon chưa bao giờ đưa ra tuyên bố như vậy trong chiến dịch tranh cử của mình, nhưng ông cũng không giải thích làm cách nào để đạt được hòa bình. Do đó, giả định rằng ông có một kế hoạch bí mật đã trở thành niềm tin phổ biến và thường bị hiểu sai thành một câu trích dẫn trực tiếp.
Sử dụng trước đó
49 TCN Cicero "Đợi đến lúc chúng ta biết liệu chúng ta sẽ có hòa bình mà không có danh dự hay chiến tranh với những tai họa của nó, tôi đã nghĩ tốt hơn hết là để họ ở lại nhà tôi tại Formiae và cả những chàng trai và cô gái nữa".
kh. 1145 Theobald II, Bá tước xứ Champagne "Hòa bình trong danh dự" viết trong một bức thư gửi vua Louis VII của Pháp.
1607 William Shakespeare "Rằng nó sẽ có tình hữu nghị qua hòa bình/trong danh dự, như trong chiến tranh".
1775 Edmund Burke "Quyền lực vượt trội có thể mang lại hòa bình trong danh dự cùng sự an toàn… Nhưng sự nhượng bộ của kẻ yếu là sự nhượng bộ của nỗi sợ hãi".
1878 Benjamin Disraeli (thủ tướng Anh) "Huân tước Salisbury và tôi đã mang lại hòa bình cho quý vị—nhưng nền hòa bình mà tôi hy vọng với danh dự, có thể làm hài lòng chủ quyền của chúng ta và hướng đến phúc lợi của nước mình". Nói khi trở về từ Hội nghị Berlin. Wags diễn giải điều này là "Hòa bình trong danh dự — và cả Síp nữa".
1916 Liên đoàn Doanh nhân Wilson "Wilson và hòa bình trong danh dự hay Hughes với Roosevelt và Chiến tranh?" Một phần trong chiến dịch tái tranh cử của Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson.
1934 A. A. Milne (nhà văn người Anh) "'Hòa bình trong danh dự' lời vạch trần chiến tranh".
1938 Neville Chamberlain (thủ tướng Anh) "Bạn thân mến của tôi, lần thứ hai trong lịch sử của chúng ta, một Thủ tướng Anh đã trở về từ Đức mang theo nền hòa bình trong danh dự. Tôi tin rằng đó là 'hòa bình cho thời đại chúng ta'. Về nhà và ngủ một giấc thật ngon nhé." Nói khi trở về từ Hội nghị Munich.
1938 Winston Churchill chỉ trích sự nhân nhượng của Chamberlain với Hitler, nhận xét rằng: "Ngài được lựa chọn giữa chiến tranh và nhục nhã. Ngài đã chọn sự nhục nhã, và ngài sẽ có chiến tranh".
1939 Józef Beck phát biểu tại Hạ viện vào ngày 5 tháng 5 năm 1939 để đáp lại yêu cầu của Hitler về việc sáp nhập Thành phố tự do Danzig vào Đế chế thứ Ba "Chúng tôi ở Ba Lan không biết ý nghĩa của hòa bình bằng mọi giá. Chỉ có một điều trong cuộc sống của con người, dân tộc và quốc gia thì đây là điều vô giá. Đó là niềm vinh dự".
Tham khảo
Liên kết ngoài
Toàn văn bài phát biểu của Nixon
Khẩu hiệu chính trị Mỹ
Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam
Nhiệm kỳ tổng thống Richard Nixon |
19852772 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87n%20%C4%91%E1%BA%A1i%20h%C3%B3a%20th%E1%BB%A9%20n%C4%83m | Hiện đại hóa thứ năm | "Hiện đại hóa thứ năm" là một bài tiểu luận của nhà hoạt động nhân quyền Ngụy Kinh Sinh, ban đầu được bắt đầu bằng một tấm áp phích treo tường có chữ ký đặt trên Bức tường Dân chủ ở Bắc Kinh vào ngày 5 tháng 12 năm 1978.
Tóm lược
Áp phích kêu gọi Đảng Cộng sản Trung Quốc bổ sung dân chủ vào danh sách Bốn hiện đại hóa, vốn đã bao gồm công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ và quốc phòng. Nó tuyên bố một cách công khai rằng dân chủ là một quá trình hiện đại hóa bổ sung cần được theo đuổi nếu Trung Quốc thực sự muốn hiện đại hóa chính mình.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tiểu luận Hiện đại hóa thứ năm của Ngụy Kinh Sinh
Tiểu luận năm 1978
Trung Quốc năm 1978
Phong trào dân chủ Trung Quốc
Hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc
Lịch sử kinh tế Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa |
19852774 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Cionus%20melanarius | Cionus melanarius | Cionus melanarius là loài côn trùng thuộc nhóm Bọ cánh cứng. Loài này được Germar, E.F. mô tả lần đầu tiên vào năm 1821.
Tham khảo
Cionus |
19852775 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Cionus%20meleagris | Cionus meleagris | Cionus meleagris là loài côn trùng thuộc nhóm Bọ cánh cứng. Loài này được Marshall mô tả lần đầu tiên vào năm 1926.
Tham khảo
Cionus |
19852776 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Cionus%20meticulatus | Cionus meticulatus | Cionus meticulatus là loài côn trùng thuộc nhóm Bọ cánh cứng.
Tham khảo
Cionus |
19852777 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A5n%20c%C3%B4ng%20th%E1%BB%B1c%20th%E1%BB%83%20b%C3%AAn%20ngo%C3%A0i%20XML | Tấn công thực thể bên ngoài XML | Tấn công thực thể bên ngoài XML, hay đơn giản là tấn công XXE, là một kiểu tấn công chống lại một ứng dụng phân tích cú pháp đầu vào XML. Cuộc tấn công này xảy ra khi đầu vào XML chứa tham chiếu đến một thực thể bên ngoài được xử lý bởi trình phân tích cú pháp XML được cấu hình yếu. Cuộc tấn công này có thể dẫn đến việc tiết lộ dữ liệu bí mật, các cuộc tấn công DoS, giả mạo yêu cầu phía máy chủ, quét cổng từ góc độ của máy nơi đặt trình phân tích cú pháp và các tác động khác đến hệ thống.
Mô tả
Tiêu chuẩn XML 1.0 xác định cấu trúc của một tài liệu XML. Tiêu chuẩn xác định một khái niệm gọi là thực thể, là thuật ngữ dùng để chỉ nhiều loại đơn vị dữ liệu. Một trong những loại thực thể đó là thực thể được phân tích cú pháp chung/tham số bên ngoài, thường được rút ngắn thành thực thể bên ngoài, có thể truy cập nội dung cục bộ hoặc từ xa thông qua mã định danh hệ thống được khai báo. Mã định danh hệ thống được coi là một URI có thể được bộ xử lý XML truy cập khi xử lý thực thể. Sau đó, bộ xử lý XML sẽ thay thế các lần xuất hiện của thực thể bên ngoài được đặt tên bằng nội dung được tham chiếu bởi mã định danh hệ thống. Nếu mã định danh hệ thống chứa dữ liệu bị nhiễm độc và bộ xử lý XML hủy tham chiếu dữ liệu bị nhiễm độc này thì bộ xử lý XML có thể tiết lộ thông tin bí mật mà ứng dụng thường không thể truy cập được. Các vectơ tấn công tương tự áp dụng việc sử dụng DTD bên ngoài, biểu định kiểu bên ngoài, lược đồ bên ngoài, v.v., khi được đưa vào, sẽ cho phép các cuộc tấn công kiểu bao gồm tài nguyên bên ngoài tương tự.
Các cuộc tấn công có thể bao gồm tiết lộ các tệp cục bộ, có thể chứa dữ liệu nhạy cảm như mật khẩu hoặc dữ liệu riêng tư của người dùng, sử dụng lược đồ file:// hoặc đường dẫn tương đối trong mã nhận dạng hệ thống. Vì cuộc tấn công xảy ra liên quan đến ứng dụng đang xử lý tài liệu XML nên kẻ tấn công có thể sử dụng ứng dụng đáng tin cậy này để chuyển sang các hệ thống nội bộ khác, có thể tiết lộ nội dung nội bộ khác thông qua các yêu cầu HTTP hoặc khởi động một cuộc tấn công CSRF vào bất kỳ dịch vụ nội bộ nào không được bảo vệ. Trong một số trường hợp, thư viện bộ xử lý XML dễ gặp phải các vấn đề hỏng bộ nhớ phía máy khách có thể bị khai thác bằng cách hủy tham chiếu URI độc hại, có thể cho phép thực thi mã tùy ý trong tài khoản ứng dụng. Các cuộc tấn công khác có thể truy cập vào tài nguyên cục bộ và không ngừng trả về dữ liệu, có thể ảnh hưởng đến tính khả dụng của ứng dụng nếu có quá nhiều luồng hoặc quy trình không được phát hành.
Ứng dụng không cần phải trả lại phản hồi rõ ràng cho kẻ tấn công để dễ bị tiết lộ thông tin. Kẻ tấn công có thể tận dụng thông tin DNS để lọc dữ liệu thông qua tên miền phụ đến máy chủ DNS dưới sự kiểm soát của chúng.
Các yếu tố rủi ro
Ứng dụng phân tích các tài liệu XML.
Dữ liệu bị nhiễm độc được cho phép trong phần định danh hệ thống của thực thể, trong định nghĩa loại tài liệu (DTD).
Bộ xử lý XML được cấu hình để xác thực và xử lý DTD.
Bộ xử lý XML được cấu hình để phân giải các thực thể bên ngoài trong DTD.
Ví dụ
Các ví dụ bên dưới là từ Thử nghiệm chèn XML của OWASP (WSTG-INPV-07).
Truy cập tài nguyên cục bộ có thể không quay trở lại
<?xml version="1.0" encoding="ISO-8859-1"?>
<!DOCTYPE foo [
<!ELEMENT foo ANY >
<!ENTITY xxe SYSTEM "file:///dev/random" >]><foo>&xxe;</foo>
Thực thi mã từ xa
Khi mô-đun PHP "mong đợi" được tải, việc thực thi mã từ xa có thể thực hiện được với tải trọng được sửa đổi. <?xml version="1.0" encoding="ISO-8859-1"?>
<!DOCTYPE foo [ <!ELEMENT foo ANY >
<!ENTITY xxe SYSTEM "expect://id" >]>
<creds>
<user>&xxe;</user>
<pass>mypass</pass>
</creds>
Tiết lộ /etc/passwd hoặc các tệp được nhắm mục tiêu khác
<?xml version="1.0" encoding="ISO-8859-1"?>
<!DOCTYPE foo [
<!ELEMENT foo ANY >
<!ENTITY xxe SYSTEM "file:///etc/passwd" >]><foo>&xxe;</foo>
<?xml version="1.0" encoding="ISO-8859-1"?>
<!DOCTYPE foo [
<!ELEMENT foo ANY >
<!ENTITY xxe SYSTEM "file:///etc/shadow" >]><foo>&xxe;</foo>
<?xml version="1.0" encoding="ISO-8859-1"?>
<!DOCTYPE foo [
<!ELEMENT foo ANY >
<!ENTITY xxe SYSTEM "file:///c:/boot.ini" >]><foo>&xxe;</foo>
<?xml version="1.0" encoding="ISO-8859-1"?>
<!DOCTYPE foo [
<!ELEMENT foo ANY >
<!ENTITY xxe SYSTEM "http://www.attacker.com/text.txt" >]><foo>&xxe;</foo>
Giảm nhẹ
Vì toàn bộ tài liệu XML được truyền từ một máy khách không đáng tin cậy nên thường không thể xác thực có chọn lọc hoặc thoát khỏi dữ liệu bị nhiễm độc trong mã định danh hệ thống trong DTD. Bộ xử lý XML có thể được cấu hình để sử dụng DTD tĩnh cục bộ và không cho phép bất kỳ DTD nào được khai báo có trong tài liệu XML.
Xem thêm
SQL injection
Blind SQL injection
Tham khảo
Khai thác bảo mật web |
19852783 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20th%E1%BB%8B%20Thu%E1%BA%ADn%20Ph%C3%A1t | Siêu thị Thuận Phát | Siêu thị Thuận Phát (; ; còn gọi là Siêu thị SF) là chuỗi siêu thị người Mỹ gốc Hoa gốc Việt ở khu vực Thung lũng San Gabriel ở California, Sacramento, California, San Pablo, California, Las Vegas, Nevada, Portland, Oregon và Garland, Texas.
Lịch sử
Siêu thị Thuận Phát được một doanh nhân gốc Việt tên Trần Tài Hiếu (陳才孝) thành lập vào giữa thập niên 1990. Cửa hàng đầu tiên của nó được mở tại cộng đồng người Mỹ gốc Hoa ở ngoại ô Monterey Park, California. Bất chấp sự thích thú của báo tiếng Anh, cái tên "Thuận Phát" thực sự có nghĩa là "sự thịnh vượng" trong tiếng Trung.
Chuỗi siêu thị châu Á bán các mặt hàng tạp hóa nhập khẩu từ châu Á - đặc biệt là Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan và Việt Nam - cũng như một số thương hiệu chính thống của Mỹ. Các địa điểm của nó có xu hướng ở các khu phố Tàu ngoại ô mới hơn cũng như ở các khu thương mại của người Mỹ gốc Việt đang phát triển.
Chuỗi chợ này cạnh tranh chủ yếu với 99 Ranch Market và Siêu thị Hồng Kông. Giống như hai chuỗi siêu thị này, Siêu thị Thuận Phát thường đóng vai trò là cửa hàng chủ chốt ở một số trung tâm mua sắm và khu thương mại nhỏ ở châu Á, trong một số trường hợp đã được Hiếu Trần cải tạo rộng rãi. Mấy "cửa tiệm lớn" ở Dallas, El Monte, Garden Grove, Las Vegas, San Gabriel và Westminster là những đại siêu thị độc đáo của người Hoa, vì họ bán quần áo, đồ điện tử nhỏ và các sản phẩm khác ngoài hàng tạp hóa, dù các gian hàng này do các nhà cung cấp độc lập nắm quyền điều hành với khoản thanh toán riêng.
Năm 2005, Siêu thị Thuận Phát đã mở một siêu thị rộng tại Little Saigon vùng Westminster, California, gia nhập cộng đồng thương mại siêu thị Việt Nam vốn đầy tính cạnh tranh cao. Tháng 6 năm 2013, Thuận Phát đã khai trương Dallas Superstore, đánh dấu lần mở rộng đầu tiên tại bang Texas. Năm 2017, Thuận Phát đã bán địa điểm Monterey Park và Rowland Heights cho Siêu thị Great Wall.
Tháng 6 năm 2019, siêu thị nổi tiếng châu Á này đã khai trương chi nhánh Oregon đầu tiên tại Quận Jade Đông Nam Portland tọa lạc trên Đại lộ 82 và Đường Foster, trước đây là cửa hàng Fred Meyer. Điều này đánh dấu địa điểm thứ mười lăm của Thuận Phát và là địa điểm đầu tiên ở vùng Tây Bắc nước Mỹ.
Địa điểm
California
South El Monte - 2650 Rosemead Blvd
Garden Grove - 13861 Brookhurst St
San Gabriel - 1635 S San Gabriel Blvd
San Diego - 6935 Linda Vista Rd
Westminster - 15440 Beach Blvd #123
Fresno - 4970 E Kings Canyon Rd
Sacramento - 4562 Mack Rd
Sacramento - 6930 65th St #123
Sacramento - 5820 South Land Park Dr
Stockton - 8004 West Ln
San Pablo - 2368 El Portal Dr
Nevada
Las Vegas - 4801 Spring Mountain Rd
Las Vegas - 5115 Spring Mountain Rd
Oregon
Portland - 5323 SE 82nd Ave
Texas
Garland - 3212 Jupiter Rd
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Siêu thị Hoa Kỳ
Siêu thị Trung Quốc
Ẩm thực người Mỹ gốc Việt
Siêu thị có trụ sở tại California
Văn hóa người Mỹ gốc Hoa ở California
Văn hóa người Mỹ gốc Việt ở California
Công ty có trụ sở tại Quận Los Angeles, California |
19852784 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20th%E1%BB%8B%20H%E1%BB%93ng%20K%C3%B4ng | Siêu thị Hồng Kông | Siêu thị Hồng Kông (; ) là chuỗi siêu thị người Mỹ gốc Á được thành lập ở vùng Thung lũng San Gabriel, Nam California. Nó hoạt động chủ yếu ở các cộng đồng người Hoa sinh sống tại khu ngoại ô mới hơn, đặc biệt là ở các khu vực Los Angeles, Philadelphia và Thành phố New York. Siêu thị Hồng Kông chuyên chủ yếu về hàng tạp hóa châu Á nhập khẩu. Nhiều mặt hàng đến từ Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Ma Cao, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Việt Nam, Indonesia và Philippines.
Siêu thị này chuyên phục vụ cho một đối tượng khách hàng cụ thể. Cửa hàng đầu tiên ở Monterey Park, California, là điểm đến phổ biến của người Trung Quốc đại lục di cư và Siêu thị Hồng Kông ở Thành phố New York tập trung vào khách hàng nhập cư Trung Quốc đại lục (cộng đồng lớn người đại lục ở Brooklyn).
Siêu thị Hồng Kông được Hồ Triệu Minh (Jeffrey Wu; 胡兆明) thành lập vào năm 1981 với cửa hàng hàng đầu trước đây nằm ở Monterey Park, California, nơi đây vẫn là một trong những siêu thị châu Á nổi tiếng và có trụ sở chính tại Thành phố New York. Nó hiện thuộc sở hữu của Hồ Triệu Minh và vợ ông, cựu nữ diễn viên Hồng Kông Diệp Ngọc Khanh (Veronica Yip; 叶玉卿). Ở Nam California, các đối thủ cạnh tranh chính của nó là 99 Ranch Market và Siêu thị Thuận Phát. Tại khu vực Thành phố New York, nó cạnh tranh với Kam Man Food, Siêu thị Good Fortune, New York Mart và Siêu thị Great Wall. Ở Boston, nó cạnh tranh với Kam Man, H Mart và C-Mart.
Năm 2009, Hồng Kông bỏ tiền ra mua lại Super 88, một chuỗi siêu thị châu Á đã đóng cửa ba trong số sáu cửa hàng vào năm 2008 do doanh thu kém. Super 88 cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng và khoản bồi thường 200.000 USD sau khi vi phạm luật tiền lương và giờ làm của tiểu bang.
Chuỗi này đã bán phần lớn cửa hàng của mình cho chuỗi Siêu thị Good Fortune.
Địa điểm
Georgia
Norcross - 5495 Đại lộ Jimmy Carter
Massachusetts
Boston - 1095 Đại lộ Commonwealth
Malden - 188 Phố Thương mại
New York
Chinatown, Manhattan - 157 Phố Hester
Địa điểm ngừng hoạt động
California
Monterey Park - Đại lộ 127 N Garfield(nay là Siêu thị Good Fortune)
Rowland Heights (nay là Khu ẩm thực HK2)
San Gabriel (nay là Siêu thị Good Fortune)
West Covina (nay là Khu ẩm thực HK2)
West Covina (nay là Siêu thị Thuận Phát)
Monrovia (nay là Siêu thị Good Fortune)
Massachusetts
Allston, Massachusetts
Dorchester, Massachusetts
New Jersey
South Plainfield (đóng cửa vào năm 2002)
East Brunswick
New York
Chinatown, Manhattan (East Broadway Location)(bị hỏa hoạn thiêu rụi vào ngày 14 tháng 5 năm 2009) (nay là Siêu thị Chinatown ở Manhattan và Khách sạn Fairfield Inn ở trên)
Sunset Park (nay là iFresh Market)
Elmhurst (nay là Siêu thị Mỹ)
Flushing (nay là Siêu thị SuperHK, một phần của Siêu thị Good Fortune)
Pennsylvania
Philadelphia (nay là Đại siêu thị Hồng Kông)
Louisiana
Gretna (nay là Chợ Thực phẩm Hồng Kông)
Tham khảo
Siêu thị Hoa Kỳ
Siêu thị Trung Quốc
Văn hóa Mỹ gốc Hồng Kông
Khởi đầu năm 1981 ở California
Công ty bán lẻ thành lập năm 1981
Văn hóa người Mỹ gốc Á ở California
Văn hóa người Mỹ gốc Hoa ở California
Công ty có trụ sở tại Quận Los Angeles, California |
19852787 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gh0st%20RAT | Gh0st RAT | Gh0st RAT là một Trojan dành cho nền tảng Windows mà những kẻ điều hành GhostNet đã sử dụng để xâm nhập vào nhiều mạng máy tính nhạy cảm. Đây là một chương trình máy tính gián điệp trên mạng, trong đó phần "RAT" trong tên đề cập đến khả năng hoạt động của phần mềm như một "Công cụ quản trị từ xa".
Hệ thống GhostNet phát tán phần mềm độc hại đến những người nhận được chọn thông qua mã máy tính được đính kèm với các email và địa chỉ bị đánh cắp, từ đó mở rộng mạng lưới bằng cách cho phép nhiều máy tính bị lây nhiễm hơn. Theo Infowar Monitor (IWM), sự lây nhiễm "GhostNet" khiến máy tính tải xuống một Trojan có tên "Gh0st RAT" cho phép kẻ tấn công giành quyền kiểm soát hoàn toàn, theo thời gian thực. Một máy tính như vậy có thể bị tin tặc kiểm soát hoặc kiểm tra và phần mềm thậm chí còn có khả năng bật camera và chức năng ghi âm của một máy tính bị nhiễm có khả năng như vậy, cho phép màn hình nhìn và nghe thấy những gì diễn ra trong phòng. Một biến thể ít được biết đến của Gh0st RAT là Gh0stBins, sở hữu cùng một bộ công cụ độc hại, bao gồm cả keylogging và khả năng thực hiện khởi động lại hệ thống.
Xem thêm
Giám sát máy tính
Máy tính không an toàn
Quy định an ninh mạng
Chiến tranh mạng
Phòng thủ mạng chủ động
Giám sát
Gián điệp
Lừa đảo
Nguồn tham khảo |
19852788 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Wushu%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022 | Wushu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 | Wushu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức tại Trung tâm Thể thao Tiêu Sơn Qua Lịch, Hàng Châu, Trung Quốc, từ ngày 24 đến ngày 28 tháng 9 năm 2023.
Quốc gia tham dự
Có tổng cộng 196 vận động viên đến từ 28 quốc gia tham gia thi đấu Wushu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022:
Lịch thi đấu
Danh sách huy chương
Biểu diễn nam
Đối kháng nam
Biểu diễn nữ
Đối kháng nữ
Bảng tổng sắp huy chương
Tham khảo |
19852795 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Chiyoda%2C%20Gunma | Chiyoda, Gunma | là thị trấn thuộc huyện Ōra, tỉnh Gunma, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 10.861 người và mật độ dân số là 500 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 21,73 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Gunma
Tatebayashi
Meiwa
Oizumi
Ōra
Saitama
Kumagaya
Gyōda
Hanyū
Tham khảo
Thị trấn của Gunma |
19852799 | https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20U-22%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202013 | Vòng loại giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013 | Vòng loại Giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013 là vòng loại của Giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013. Ban đầu, vòng loại dự kiến diễn ra từ ngày 23 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 2012, nhưng sau đó được đổi thành từ ngày 2 tháng 6 đến ngày 10 tháng 6 ở bảng D theo yêu cầu của Nepal. Các trận đấu sau đó được dời lại để bắt đầu vào ngày 16 tháng 6 và ngày 3 tháng 7 dành cho Indonesia.
Độ tuổi tham dự
Tất cả cầu thủ được sinh ra từ ngày trở về sau đều đủ điều kiện tham dự Vòng loại.
Thể thức
41 hiệp hội/liên đoàn bóng đá thành viên đã tham gia vòng loại để giành 15 suất tham dự Giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013 cùng với đội chủ nhà. Vòng loại sẽ được tổ chức tại 7 địa điểm tập trung (ở 7 thành phố thuộc 7 quốc gia khác nhau).
Các đội bóng được chia vào 6 bảng (5 bảng có 6 đội và bảng còn lại có 5 đội). Các đội thi đấu theo thể thức vòng tròn một lượt và chọn ra hai đội đứng đầu cùng với đội đứng thứ ba có thành tích tốt nhất trong tất cả các bảng tham dự Giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013. Chủ nhà Giải đấu (Oman) có suất vào thẳng mà không cần quan
Với việc Liên đoàn bóng đá châu Á trao quyền đăng cai Giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013 cho Oman vào ngày 18 tháng 7 năm 2012 và với việc Oman là đội đứng thứ ba có thành tích tốt nhất, điều này đã giúp đội đứng thứ ba có thành tích tốt thứ nhì (Yemen) vào vòng chung kết.
Quy tắc
Nếu hai hoặc nhiều hơn hai đội cùng điểm sau khi kết thúc vòng loại, các tiêu chí sau đây sẽ được áp dụng để xác định thứ hạng.
Số điểm đạt được nhiều hơn trong các trận đấu vòng bảng giữa các đội liên quan;
Hiệu số bàn thắng bại trong các trận đấu vòng bảng giữa các đội liên quan;
Số bàn thắng được ghi nhiều hơn trong các trận đấu vòng bảng giữa các đội liên quan;
Hiệu số bàn thắng bại ở tất cả các trận vòng bảng;
Số bàn thắng ghi được nhiều hơn trong tất cả các trận đấu vòng bảng;
Đá luân lưu nếu chỉ có hai đội bằng chỉ số phụ và cả hai đều có mặt trên sân thi đấu;
Điểm ít hơn được tính theo số thẻ vàng và thẻ đỏ nhận được trong các trận đấu vòng bảng;
Bốc thăm.
Các đội tham dự vòng loại
Các đội đủ điều kiện tham dự Giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013 được tô đậm.
Các đội không tham dự vòng loại
Các bảng đấu
Tây Á
Bảng A
Tất cả trận đấu đều diễn ra ở Muscat, Oman.
Múi giờ được liệt kê là UTC+4.
Bảng B
Tất cả trận đấu diễn ra ở Riyadh, Ả Rập Saudi.
Múi giờ được liệt kê là UTC+3.
Bảng C
Tất cả trận đấu diễn ra ở Malacca, Malaysia.
Múi giờ được liệt kê là UTC+8.
Bảng D
Tất cả trận đấu diễn ra ở Kathmandu, Nepal.
Múi giờ được liệt kê là UTC+5:45.
Đông Á
Bảng E
Tất cả trận đấu diễn ra ở Pekanbaru, Indonesia.
Múi giờ được liệt kê là UTC+7.
Bảng F
Tất cả trận đấu diễn ra ở Viêng Chăn, Lào.
Múi giờ được liệt kê là UTC+7.
Bảng G
Tất cả trận đấu diễn ra ở Yangon, Myanmar.
Múi giờ được liệt kê là UTC+6:30.
Các đội đứng thứ ba
Do bảng D chỉ có 5 đội nên kết quả đối đầu của các đội với đội đứng cuối bảng (với bảng 6 đội) sẽ không được tính.
Danh sách ghi bàn
Chú thích
Liên kết ngoài
AFC U-22 Championship, the-AFC.com
Tham khảo
Bóng đá châu Á năm 2012
Vòng loại giải vô địch bóng đá U-23 châu Á |
19852815 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Good%20trip | Good trip | Good trip có thể đề cập đến:
Một lời tạm biệt trong tiếng Anh
Một trải nghiệm thức thần cực kỳ dễ chịu |
19852836 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%BF%20t%E1%BB%AD%20bi%E1%BA%BFn%20m%E1%BA%A5t%20r%E1%BB%93i%21 | Thế tử biến mất rồi! | Thế tử biến mất rồi! () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc sắp ra mắt với sự tham gia của các diễn viên Suho, Hong Ye-ji, Myung Se-bin, Kim Joo-hun, and Kim Min-kyu. Bộ phim dự kiến sẽ được phát sóng vào khung giờ 21:40 (KST) thứ Bảy và Chủ nhật hàng tuần trên kênh truyền hình MBN từ ngày 9 tháng 3 năm 2024.
Nội dung
Bộ phim lấy bối cảnh thời kỳ Joseon, kể về vị Thế tử để hạ Lee Geon (Suho) vô tình gặp rắc rối khi bị Choi Myeong-Yoon (Hong Ye-ji) - người phụ nữ với định mệnh sẽ trở thành chính thất của anh - bắt cóc. Trên đường trốn chạy, mối tình lãng mạn nảy nở giữa hai người.
Diễn viên
Nhân vật chính
Suho vai Thế tử để hạ Lee Geon.
Hong Ye-ji vai Choi Myung-yoon
Cô có biệt tài cưỡi ngựa và chữa bệnh xuất sắc.
Myung Se-bin vai Vương đại phi Min Soo-ryun
Kim Joo-hun vai Choi Sang-rok
Cha của Choi Myung-yoon, là một ngự y của vương thất ở Nội Y Viện.
Kim Min-kyu vai Đại quân Do-seong
Em trai cùng cha khác mẹ của Lee Geon có kỹ năng võ thuật xuất sắc.
Nhân vật phụ
Jeon Jin Oh vai Quốc vương Haejong / Chúa thượng điện hạ
Yoo Se-rye vai Vương phi họ Yoon.
Người vợ chính thất thứ 2 của Quốc vương Haejong, là một người giàu tình cảm và đồng cảm.
Cha Kwang-soo vai Yoon Yi-gyeom
Kim Seol-jin vai Gab-seok
Sản xuất
Phát triển
"Thế tử biến mất rồi!" được chắp bút bởi bộ đôi biên kịch Kim Ji-soo và Park Chul, cả hai đều là biên kịch của bộ phim Bossam: Đánh Cắp Số Phận (2021); và được đạo diễn bởi Kim Jin-man, người cũng là đạo diễn của hai tác phẩm Kill Me, Heal Me (2015) và Stealer: The Treasure Keeper (2023). Quá trình quay phim được thực hiện trong năm 2023.
Vào tháng 10 năm 2023, các công ty sản xuất Chorokbaem Media và Superbook Co., Ltd. đã ký thỏa thuận kinh doanh với Thành phố Mungyeong để hỗ trợ sản xuất bộ phim.
Lựa chọn diễn viên
Các diễn viên Suho, Hong Ye-ji, Kim Min-kyu, và Myung Se-bin đã được lựa chọn vào tháng 9 và tháng 11 năm 2023. Cả ba cùng với nam diễn viên Kim Joo-hun đã được xác nhận chính thức rằng sẽ đóng các vai chính của bộ phim.
Phát sóng
MBN thông báo ngày dự kiến ra mắt của "Thế tử biến mất rồi!" là ngày 9 tháng 3 năm 2024 và bộ phim sẽ được phát sóng vào tối thứ Bảy và Chủ nhật hàng tuần.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên
Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2024
Phim truyền hình Hàn Quốc |
19852837 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20h%E1%BB%AFu%20ngh%E1%BB%8B%20Vi%E1%BB%87t%20Nam-Yemen | Hội hữu nghị Việt Nam-Yemen | Hội hữu nghị Việt Nam-Yemen () là một tổ chức ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Yemen, nhằm thúc đẩy quan hệ với Việt Nam. Năm 1981, Ali Nasir Bartoush là thư ký của hội. Năm 1987, Tiến sĩ Abdul Wasa Salam, Bộ trưởng Bộ Tư pháp CHDCND Yemen, là chủ tịch của hội.
Tham khảo
Tổ chức có trụ sở tại Yemen |
19852839 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Chung%20k%E1%BA%BFt%20c%C3%BAp%20EFL%202024 | Chung kết cúp EFL 2024 | Chung kết cúp EFL 2024 là trận đấu cuối cùng của cúp EFL 2023-24, mùa giải thứ 64 của cúp EFL do Liên đoàn bóng đá Anh tổ chức. Trận đấu chứng kiến màn tranh tài giữa Chelsea và Liverpool, và được diễn ra tại sân vận động Wembley ở Luân Đôn, Anh vào ngày 25 tháng 2 năm 2024.
Liverpool giành chiến thắng với tỉ số 1–0 sau hiệp phụ để giành danh hiệu EFL Cup lần thứ 10 và là kỷ lục của giải đấu.
Đường đến trận chung kết
Chelsea
Là một câu lạc bộ Premier League không tham gia bất kỳ giải đấu nào của UEFA, Chelsea tham gia vòng 2, nơi họ bị cầm hòa trên sân nhà trước câu lạc bộ thi đấu tại giải EFL League Two là AFC Wimbledon. Trận đấu diễn ra tại Stamford Bridge vào ngày 30 tháng 8 năm 2023, nơi Chelsea thắng 2-1 nhờ các bàn thắng của Noni Madueke và Enzo Fernández. Ở vòng 3, họ gặp câu lạc bộ Premier League là Brighton & Hove Albion trên sân nhà Stamford Bridge vào ngày 27 tháng 9. Trận đấu kết thúc với tỷ số 1–0, với bàn thắng duy nhất đến từ tiền đạo Nicolas Jackson ở phút thứ 50. Ở vòng 4, Chelseatiếp tục thi đấu trên sân nhà trước câu lạc bộ EFL Championship là Blackburn Rovers diễn ra vào ngày 1 tháng 11. Trận đấu chứng kiến Chelsea thoải mái đánh bại Blackburn với tỷ số 2–0, với các bàn thắng đến từ Benoît Badiashile và Raheem Sterling.
Ở vòng tứ kết, Chelsea lần thứ tư liên tiếp thi đấu trên sân nhà trước câu lạc bộ Premier League và là đội vào chung kết năm 2023 Newcastle United vào ngày 19 tháng 12. Callum Wilson ghi bàn thắng sớm cho Newcastle, tuy nhiên sai lầm phòng ngự của Kieran Trippier đã dẫn đến bàn gỡ hòa ở phút bù giờ của cầu thủ vào thay người của Chelsea là Mykhailo Mudryk, khiến trận đấu phải chuyển sang loạt sút luân lưu. Chelsea thắng 4–2 trên chấm phạt đền với tỷ lệ chuyển đổi 100%, với Cole Palmer, Conor Gallagher, Christopher Nkunku và Mudryk đều ghi bàn cho The Blues. Wilson và Bruno Guimarães thực hiện quả phạt đền của họ cho Newcastle, khi Trippier sút trượt và Matt Ritchie bị Đorđe Petrović cản phá quả phạt đền quyết định.
Trận bán kết diễn ra theo hai lượt, Chelsea đã bị cầm hòa trước câu lạc bộ tại EFL Championship là Middlesbrough với trận lượt đi diễn ra trên sân khách Riverside Stadium vào ngày 9 tháng 1 năm 2024. Middlesbrough đã gây sốc cho The Blues khi đánh bại họ với tỷ số 1–0 với bàn thắng từ pha lập công của Hayden Hackney. Trận lượt về diễn ra tại Stamford Bridge vào ngày 23 tháng 1, Chelsea thắng 6–1 (tổng tỷ số 6–2) trong trận đấu buộc phải thắng, với bàn phản lưới nhà của Jonny Howson, các bàn thắng của Fernández, Axel Disasi, Madueke, và cú đúp của Palmer ấn định chiến thắng cho Chelsea, bất chấp việc Morgan Rogers của Middlesbrough ghi bàn thắng danh dự.
Liverpool
Là một câu lạc bộ Premier League và tham gia UEFA Europa League 2023–24, Liverpool thi đấu vòng ba, nơi họ thi đấu trên sân nhà trước câu lạc bộ tại EFL Championship là Leicester City. Trận đấu diễn ra tại Anfield vào ngày 27 tháng 9 năm 2023, Liverpool thắng 3-1 nhờ các bàn thắng của Cody Gakpo, Dominik Szoboszlai và Diogo Jota. Ở vòng 4, họ gặp câu lạc bộ Premier League là Bournemouth, thi đấu tại Dean Court vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Trận đấu kết thúc với chiến thắng 2-1 cho Liverpool, với Cody Gakpo và Darwin Núñez đều có tên trên bảng tỷ số. Ở vòng tứ kết, Liverpool thi đấu trên sân nhà trước câu lạc bộ Premier League là West Ham United vào ngày 20 tháng 12 năm 2023. Liverpool đã tạo ra một màn trình diễn vượt trội để giành chiến thắng 5–1, với các bàn thắng đến từ Dominik Szoboszlai, Curtis Jones, Cody Gakpo và Mohamed Salah. Jones ghi cú đúp, bàn thắng thứ hai của anh là bàn thắng thứ 500 cho Liverpool tại Cúp EFL. Trong trận bán kết diễn ra hai lượt, Liverpool gặp câu lạc bộ Premier League là Fulham với trận lượt đi diễn ra trên sân nhà Anfield vào ngày 10 tháng 1 năm 2024. Mặc dù bị dẫn trước trong hiệp một nhờ bàn thắng của Willian, Liverpool hoàn tất lội ngược dòng để giành chiến thắng 2-1 sau hai bàn thắng trong hiệp hai do công của Curtis Jones và Cody Gakpo. Trận lượt về diễn ra tại Craven Cottage vào ngày 24 tháng 1, trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 1-1 với pha lập công của Issa Diop và Luis Díaz. Kết quả là Liverpool đã giành chiến thắng chung cuộc 3–2 để tiến tới trận chung kết EFL Cup thứ hai sau ba mùa giải.
Trận đấu
Chi tiết
Số liệu thống kê
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ Cúp Liên đoàn Anh
2024
Sự kiện tại Sân vận động WembleyTrận đấu của Chelsea F.C.
Trận đấu của Liverpool F.C. |
19852855 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i%20M%C3%B9a%20h%C3%A8%202024%20%E2%80%93%20V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Nam | Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2024 – Vòng loại Nam | Tổng cộng có 16 đội sẽ thi đấu ở môn bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2024. Ngoài nước chủ nhà Pháp, 15 đội U-23 nam quốc gia khác đã hoặc sẽ vượt qua vòng loại từ các giải đấu của sáu liên đoàn châu lục.
Phân bổ
Vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, Hội đồng FIFA đã phê duyệt việc phân bổ suất tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024. Với tư cách là chủ nhà, Pháp tự động giành được một suất tham dự giải đấu. Đối với 15 suất còn lại, AFC và CAF nhận được 3,5 suất cho mỗi liên đoàn, UEFA nhận được 3 suất, CONCACAF và CONMEBOL nhận được 2 suất và OFC nhận được 1 suất.
Giải vô địch bóng đá U-20 Bắc, Trung Mỹ và Caribe 2022
Hai đội thắng trong hai trận bán kết vượt qua vòng loại.
Vòng đấu loại trực tiếp
Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2023
Ba đội đứng đầu (không bao gồm Anh và chủ nhà Thế vận hội Pháp) sẽ vượt qua vòng loại.
Anh là nhà vô địch Giải vô địch U-21 châu Âu 2023, tuy nhiên họ không thể tham dự vòng loại Thế vận hội cho Vương quốc Anh do không có thỏa thuận nào giữa các liên đoàn Anh, Bắc Ireland, Scotland và xứ Wales.
Vòng đấu loại trực tiếp
Cúp bóng đá U-23 các quốc gia châu Phi 2023
Đội thắng ở trận bán kết và trận tranh hạng ba sẽ giành quyền tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024.
Vòng đấu loại trực tiếp
Giải bóng đá vòng loại Thế vận hội châu Đại Dương 2023
New Zealand vượt qua vòng loại sau khi đánh bại Fiji trong trận chung kết.
Vòng đấu loại trực tiếp
Giải bóng đá tiền Thế vận hội Nam Mỹ 2024
Mười đội tham dự được chia thành hai bảng năm đội, thi đấu vòng tròn một lượt. Đội nhất và nhì mỗi bảng sẽ tiến vào vòng bảng cuối (cũng theo thể thức vòng tròn tính điểm), chọn ra hai đội đứng đầu giành quyền tham dự Thế vận hội.
Cúp bóng đá U-23 châu Á 2024
15 đội sẽ cùng đội chủ nhà Qatar thi đấu ở bốn bảng theo thể thức vòng tròn một lượt. Đội đứng nhất và nhì mỗi bảng sẽ vào vòng loại trực tiếp, đội thắng ở trận bán kết và trận tranh hạng ba sẽ giành quyền tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024.
Vòng bảng
Play-off AFC–CAF
Trận play-off sẽ xác định đội cuối cùng được tham dự Thế vận hội, diễn ra giữa đội đứng thứ 4 đến từ châu Phi (Guinea), và đội đứng thứ 4 của châu Á (hiện vẫn chưa xác định).
Tham khảo
Vòng loại bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2024
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2024 - Vòng loại nam |
19852866 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tri%E1%BB%81u%20%C4%91%E1%BA%A1i%20Pahlavi | Triều đại Pahlavi | Triều đại Pahlavi () là triều đại hoàng gia cuối cùng của Iran, cai trị gần 54 năm từ 1925 đến 1979. Vương triều được thành lập bởi Reza Shah Pahlavi, một người lính Mazanderani phi quý tộc ở thời hiện đại, ông đã lấy tên ngôn ngữ Pahlavi được sử dụng ở Đế quốc Sasan thời tiền Hồi giáo để củng cố thông tin về chủ nghĩa dân tộc của ông.
Triều đại này thay thế triều đại Qajar vào năm 1925 sau cuộc đảo chính năm 1921, bắt đầu vào ngày 14 tháng 1 năm 1921 khi người lính 42 tuổi Reza Khan được Tướng Anh Edmund Ironside thăng chức lãnh đạo Lữ đoàn Cossack Ba Tư do Anh điều hành. Khoảng một tháng sau, dưới sự chỉ đạo của Anh, đội quân mạnh gồm 3.000-4.000 người của Reza Khan trong Lữ đoàn Cossack đã đến Tehran thực hiện cuộc đảo chính Ba Tư năm 1921. Phần còn lại của đất nước bị chiếm vào năm 1923, và đến tháng 10 năm 1925, Majlis đồng ý phế truất và chính thức để Ahmad Shah Qajar lưu vong. Majlis tuyên bố Reza Pahlavi là Shah mới của Iran vào ngày 12 tháng 12 năm 1925, theo Hiến pháp Ba Tư năm 1906. Ban đầu, Pahlavi dự định tuyên bố đất nước là một nước cộng hòa, như Mustafa Kemal Atatürk đã làm ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng đã từ bỏ ý tưởng này trước sự phản đối của người Anh và các giáo sĩ.
Triều đại cai trị Iran trong 28 năm dưới hình thức quân chủ lập hiến từ năm 1925 đến năm 1953, và sau khi lật đổ thủ tướng được bầu cử dân chủ, trong 26 năm nữa là chế độ quân chủ chuyên chế cho đến khi chính triều đại này bị lật đổ vào năm 1979 bởi một phong trào cách mạng hồi giáo để lập ra Nhà nước Hồi giáo Iran hiện tại.
Bối cảnh gia tộc
Năm 1878, Reza Khan sinh ra tại làng Alasht thuộc huyện Savadkuh, tỉnh Mazandaran. Cha mẹ ông là Abbas Ali Khan và Noushafarin Ayromlou. Mẹ của ông là một người nhập cư Hồi giáo từ Gruzia (khi đó là một phần của Đế quốc Nga), gia đình ông đã di cư đến Qajar Iran sau khi Iran buộc phải nhượng lại toàn bộ lãnh thổ của mình ở Caucasus sau Chiến tranh Nga-Ba Tư vài thập kỷ trước khi Reza Shah ra đời. Cha của ông là một Mazandarani, được đưa vào Trung đoàn Savadkuh số 7 và phục vụ trong Chiến tranh Anh-Ba Tư năm 1856.
Người đứng đầu Nhà Pahlavi
Phối ngẫu
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nhà Pahlavi
Hoàng gia Iran
Triều đại châu Á |
19852879 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20t%C3%A2n%20tinh%20lo%E1%BA%A1i%20II | Siêu tân tinh loại II | Siêu tân tinh loại II là kết quả của sự sụp đổ nhanh chóng và vụ nổ dữ dội của một ngôi sao lớn. Một ngôi sao phải có ít nhất 8 lần, nhưng không quá 40 đến 50 lần khối lượng Mặt Trời (M☉) để trải qua loại vụ nổ. Siêu tân tinh loại II được phân biệt với các loại siêu tân tinh khác bởi sự hiện diện của hydro trong quang phổ của chúng. Chúng thường được quan sát thấy trong các nhánh xoắn ốc của các thiên hà và trong các vùng H II, nhưng không thấy ở trong các thiên hà elip, nơi thường bao gồm các ngôi sao già hơn, khối lượng thấp, với một số ngôi sao trẻ, rất nặng cần thiết để tạo ra các siêu tân tinh.
Các ngôi sao tạo ra năng lượng bằng phản ứng tổng hợp hạt nhân của các nguyên tố. Không giống như Mặt Trời, các ngôi sao khổng lồ sở hữu khối lượng cần thiết để tổng hợp các nguyên tố có khối lượng nguyên tử lớn hơn hydro và heli, mặc dù ở nhiệt độ và áp suất ngày càng cao, làm cho thời gian sống của sao ngắn hơn tương ứng. Áp suất suy biến của các electron và năng lượng tạo ra từ các phản ứng nhiệt hạch này đủ để chống lại lực hấp dẫn và ngăn ngôi sao sụp đổ, duy trì trạng thái cân bằng của sao. Ngôi sao hợp nhất các nguyên tố có khối lượng ngày càng cao, bắt đầu bằng hydro và sau đó là heli, tiến dần lên trong bảng tuần hoàn cho đến khi tạo ra lõi của sắt và nickel. Phản ứng tổng hợp sắt hoặc nickel không tạo ra năng lượng ròng, do đó không thể xảy ra phản ứng tổng hợp nữa, khiến lõi nickel–sắt trở lên trơ và mất hoạt tính. Do thiếu năng lượng tạo ra áp suất nhiệt đẩy ra bên ngoài, lõi co lại do trọng lực cho đến khi trọng lượng lớp trên của ngôi sao có thể được hỗ trợ phần lớn bởi áp suất thoái hóa electron.
Khi khối lượng nén chặt của lõi trơ vượt quá giới hạn Chandrasekhar khoảng , áp suất electron thoái hóa không còn đủ để chống lại lực nén trọng trường. Tại lõi xảy ra một vụ nổ khổng lồ chỉ trong vòng vài giây. Không còn sự chống đỡ của lõi bên trong do đã phát nổ, các lõi bên ngoài sụp đổ rơi xuống dưới tác dụng của trọng lực với vận tốc lên tới 23% tốc độ ánh sáng, và sự nén đột ngột làm tăng nhiệt độ của lõi bên trong lên tới 100 tỷ kelvin. Các hạt neutron và neutrino được hình thành thông qua cơ chế phân rã beta ngược, giải phóng khoảng 1046 joule trong vòng 10 giây. Sự sụp đổ của lõi bên trong bị dừng lại bởi áp suất từ các neutron suy biến, khiến vật chất đang rơi xuống bị bật lại và bắn ra bên ngoài. Năng lượng của sóng xung kích đang mở rộng này đủ để phá tan các lớp vật chất bên trên của sao và gia tốc nó đến vận tốc thoát, tạo thành một vụ nổ siêu tân tinh. Sóng xung kích và nhiệt độ và áp suất cực cao nhanh chóng tan biến nhưng tồn tại đủ lâu để cho phép một thời gian ngắn xảy ra quá trình tạo ra các nguyên tố nặng hơn sắt. Tùy thuộc vào khối lượng ban đầu của ngôi sao, phần còn lại của lõi tạo thành một sao neutron hoặc một lỗ đen. Do cơ chế sụp đổ này, siêu tân tinh tạo thành cũng được mô tả là siêu tân tinh sụp đổ lõi.
Tồn tại một số loại vụ nổ siêu tân tinh loại II, được phân loại dựa trên đồ thị cường độ sáng (light curve) – biểu đồ độ sáng so với thời gian – sau vụ nổ. Siêu tân tinh loại II-L cho thấy sự suy giảm ổn định (thẳng tuyến tính) của đường cường độ sáng sau vụ nổ, trong khi loại II-P hiển thị khoảng thời gian suy giảm chậm hơn (đường đi ngang, hay bình nguyên) trong đường cường độ sáng của chúng, sau đó là sự suy giảm bình thường. Siêu tân tinh loại Ib và Ic là một loại siêu tân tinh sụp đổ lõi đối với một ngôi sao lớn đã phát tán lớp vỏ bên ngoài của nó chứa hydro và (đối với loại Ic) heli. Kết quả là chúng dường như thiếu các nguyên này trong quang phổ từ vụ nổ.
Sự hình thành
Những ngôi sao có khối lượng lớn hơn nhiều so với Mặt Trời phát triển theo những cách phức tạp. Trong lõi của ngôi sao, hydro được hợp nhất thành heli, giải phóng năng lượng nhiệt làm nóng lõi của ngôi sao và cung cấp áp suất đẩy ra bên ngoài hỗ trợ các lớp của ngôi sao chống lại sự sụp đổ – một tình trạng được gọi là cân bằng thủy tĩnh sao. Heli được tạo ra trong lõi tích tụ ở đó. Nhiệt độ trong lõi chưa đủ cao để làm cho các hạt nhân heli tổng hợp với nhau. Cuối cùng, khi hydro trong lõi cạn kiệt, phản ứng tổng hợp bắt đầu chậm lại và lực hấp dẫn khiến lõi co lại. Sự co lại này làm tăng nhiệt độ đủ cao để cho phép một giai đoạn phản ứng tổng hợp heli ngắn hơn, tạo ra carbon và oxy, và chiếm ít hơn 10% tổng thời gian tồn tại của ngôi sao.
Trong các sao có khối lượng nhỏ hơn 8 lần khối lượng Mặt Trời, các hạt nhân carbon được tạo ra từ sự tổng hợp hạt nhân heli sẽ không tiếp tục tổng hợp với nhau, và ngôi sao lạnh dần để trở thành sao lùn trắng. Nếu chúng tích tụ nhiều khối lượng hơn từ một ngôi sao khác, hoặc một số nguồn khác, chúng có thể trở thành siêu tân tinh loại Ia. Nhưng một ngôi sao lớn hơn nhiều có khối lượng đủ lớn để tiếp tục phản ứng tổng hợp hạt nhân ngoài điểm này.
Lõi của những ngôi sao khổng lồ này trực tiếp tạo ra nhiệt độ và áp suất cần thiết để làm cho carbon trong lõi bắt đầu tổng hợp khi ngôi sao co lại ở cuối giai đoạn đốt cháy heli. Lõi dần dần trở thành nhiều lớp giống như một củ hành, khi các hạt nhân nguyên tử nặng dần dần hình thành ở trung tâm, với một lớp khí hydro ngoài cùng, bao quanh một lớp hydro hợp nhất thành heli, bao quanh một lớp heli hợp nhất thành carbon thông qua quá trình ba-alpha, các lớp xung quanh hợp nhất tạo thành các nguyên tố nặng dần. Khi một ngôi sao khối lượng lớn này tiến triển, nó trải qua các giai đoạn lặp đi lặp lại cho đến khi quá trình tổng hợp hạt nhân trong lõi dừng lại, và lõi tiếp tục sụp đổ cho đến khi áp suất và nhiệt độ đủ để bắt đầu giai đoạn tiếp theo của quá trình tổng hợp hạt nhân nặng hơn, làm lõi nóng lên và ngăn chặn sự sụp đổ.
{| class="wikitable"
|+ Các giai đoạn tổng hợp hạt nhân ở lõi của một ngôi sao có khối lượng 25 M☉
!rowspan="2"| Giai đoạn
!rowspan="2"| Nhiên liệu chính
!rowspan="2"| Sản phẩm chính
!colspan="3"| Sao khối lượng 25 M☉
|-
!style="font-weight: normal"| Nhiệt độ(K)
!style="font-weight: normal"| Mật độ(g/cm3)
!style="font-weight: normal"| Thời gian diễn ra
|-
|| Đốt hydro
|| hydro
|| He
| style="text-align:center;"|
| style="text-align:center;"| 10
| style="text-align:center;"|
|-
|| Quá trình ba-alpha
|| heli
|| C, O
| style="text-align:center;"|
| style="text-align:center;"| 2000
| style="text-align:center;"|
|-
|| Quá trình đốt carbon
|| carbon
|| Ne, Na, Mg, Al
| style="text-align:center;"|
| style="text-align:center;"|
| style="text-align:center;"| 1000 năm
|-
|| Quá trình đốt neon
|| neon
|| O, Mg
| style="text-align:center;"|
| style="text-align:center;"|
| style="text-align:center;"| 3 năm
|-
|| Quá trình đốt oxy
|| oxy
|| Si, S, Ar, Ca
| style="text-align:center;"|
| style="text-align:center;"|
| style="text-align:center;"| 0,3 năm
|-
|| Quá trình đốt silic
|| silic
|| Ni (phân rã thành Fe)
| style="text-align:center;"|
| style="text-align:center;"|
| style="text-align:center;"| 5 ngày
|}
Sụp đổ lõi
Yếu tố giới hạn quá trình này là lượng năng lượng được giải phóng thông qua phản ứng tổng hợp, năng lượng này phụ thuộc vào năng lượng liên kết giữ các hạt nhân nguyên tử lại với nhau. Mỗi bước tiếp theo tạo ra hạt nhân nặng dần hơn, năng lượng giải phóng dần dần giảm đi. Thêm vào đó, từ quá trình tổng hợp carbon trở đi, sự mất mát năng lượng trở nên đáng kể do neutrino sinh ra mang đi, dẫn đến tốc độ phản ứng cao hơn so với những gì xảy ra. Điều này tiếp tục cho đến khi nickel-56 được tạo ra, phân rã phóng xạ thành cobalt-56 và sau đó là sắt-56 trong một vài tháng. Vì sắt và nickel có năng lượng liên kết trên mỗi nucleon cao nhất trong tất cả các nguyên tố, năng lượng không thể tiếp tục được sinh ra ở lõi từ phản ứng tổng hợp, và lõi nickel–sắt sẽ phát triển. Phần lõi này chịu áp suất trọng trường rất lớn. Vì không có phản ứng tổng hợp để nâng cao hơn nữa nhiệt độ của ngôi sao để hỗ trợ nó chống lại sự sụp đổ, nó chỉ được hỗ trợ bởi áp suất thoái hóa của các electron. Ở trạng thái này, vật chất quá dày đặc nên việc nén chặt hơn nữa sẽ yêu cầu các electron chiếm cùng trạng thái năng lượng. Tuy nhiên, điều này bị cấm đối với các hạt fermion giống hệt nhau, chẳng hạn như electron – một hiện tượng được gọi là nguyên lý loại trừ Pauli.
Khi khối lượng của lõi vượt giới hạn Chandrasekhar khoảng 1,4 M☉, áp lực thoái hóa không còn có thể hỗ trợ nó nữa, và sự sụp đổ khổng lồ xảy ra sau đó. Phần bên ngoài của lõi đạt vận tốc lên tới (23% tốc độ ánh sáng) khi nó sụp đổ về phía trung tâm của ngôi sao. Phần lõi co lại nhanh chóng nóng lên, tạo ra các tia gamma năng lượng cao phân hủy hạt nhân sắt thành hạt nhân heli và neutron tự do thông qua phản ứng quang phân rã (photodisintegration). Khi mật độ khối lượng của lõi tăng lên, nó trở nên thuận lợi về mặt năng lượng cho các electron và proton hợp nhất thông qua phân rã beta nghịch đảo, tạo ra neutron và các hạt cơ bản gọi là neutrino. Bởi vì neutrino hiếm khi tương tác với vật chất bình thường, chúng thoát ra khỏi lõi, mang theo năng lượng và tiếp tục đẩy nhanh sự sụp đổ, mà chỉ diễn ra trong khoảng thời gian mili giây. Khi lõi tách ra khỏi các lớp bên ngoài của ngôi sao, một số neutrino này bị các lớp bên ngoài của ngôi sao hấp thụ, bắt đầu vụ nổ siêu tân tinh.
Đối với siêu tân tinh loại II, sự sụp đổ cuối cùng bị dừng lại bởi tương tác đẩy nhau giữa các neutron ở phạm vi ngắn, thông qua trung gian của tương tác mạnh, cũng như bởi áp suất suy biến của neutron, ở mật độ tương đương với mật độ của hạt nhân nguyên tử. Khi sự sụp đổ dừng lại, vật chất đang rơi xuống lõi bật lại, tạo ra một sóng xung kích lan truyền ra bên ngoài. Năng lượng từ sóng xung kích này phân tách các nguyên tố nặng trong lõi. Điều này làm giảm năng lượng của sóng xung kích, có thể làm ngừng vụ nổ ở lõi bên ngoài.
Giai đoạn sụp đổ lõi rất dày đặc và tràn đầy năng lượng đến mức chỉ có neutrino mới có thể thoát ra. Khi các proton và electron kết hợp để tạo thành neutron bằng cách bắt electron, một hạt neutrino electron được tạo ra. Trong một siêu tân tinh loại II điển hình, lõi neutron mới hình thành có nhiệt độ ban đầu khoảng 100 tỷ kelvin, gấp 104 lần nhiệt độ tại lõi Mặt Trời. Phần lớn nhiệt năng này phải được loại bỏ để một ngôi sao neutron ổn định hình thành, nếu không các neutron sẽ "sôi lên". Điều này đạt được thông qua sự giải phóng thêm các neutrino. Các neutrino 'nhiệt' này hình thành dưới dạng các cặp neutrino–phản neutrino của tất cả các loại neutrino, và tổng số lớn gấp vài lần số lượng neutrino từ quá trình bắt electron. Hai cơ chế sản xuất neutrino chuyển đổi thế năng hấp dẫn của sự sụp đổ thành một vụ nổ neutrino kéo dài 10 giây, giải phóng khoảng 1046 joule.
Thông qua một quá trình chưa được hiểu rõ, khoảng 1%, hay 1044 joules năng lượng được giải phóng (dưới dạng các neutrino) bị tái hấp thụ bởi cú sốc hãm, tạo ra vụ nổ siêu tân tinh. Neutrino tạo ra từ siêu tân tinh đã được quan sát từ sự kiện siêu tân tinh 1987A, giúp các nhà thiên văn vật lý kết luận rằng bức tranh sụp đổ lõi cơ bản là đúng. Đài quan sát môi chất nước Kamiokande II và thiết bị dò IMB ở hồ Erie đã phát hiện được các hạt phản neutrino có nguồn gốc nhiệt, trong khi thiết bị dò môi chất gali-71 ở đài quan sát neutrino Baksan đã phát hiện được các neutrino (số lepton = 1) có nguồn gốc nhiệt hoặc nguồn gốc từ phản ứng bắt electron.
Khi ngôi sao tiền khởi có khối lượng dưới – phụ thuộc vào cường độ của vụ nổ và lượng vật chất rơi trở lại – lõi tàn dư còn lại sau vụ sụp đổ là một sao neutron suy biến. Lớn hơn khối lượng này, lõi tàn dư sẽ trở thành một lỗ đen. Giới hạn khối lượng cho kịch bản sụp đổ lõi này là trong khoảng . Bên trên phạm vi khối lượng này, các nhà thiên văn vật lý cho rằng vụ sụp đổ sẽ hình thành trực tiếp lên lỗ đen mà không xảy ra vụ nổ siêu tân tinh, cho dù các bất định trong các mô hình sụp đổ siêu tân tinh dẫn đến các tính toán cho các giới hạn này không chắc chắn.
Các mô hình lý thuyết
Mô hình Chuẩn của vật lý hạt là một lý thuyết miêu tả ba trong bốn tương tác cơ bản đã biết giữa các hạt cơ bản cấu tạo của mọi vật chất. Lý thuyết này cho phép dự đoán về cách các hạt sẽ tương tác với nhau như thế nào dưới rất nhiều điều kiện. Năng lượng của một hạt trong vụ nổ siêu tân tinh có giá trị điển hình trong khoảng 1–150 picojoule (hàng chục đến hàng trăm MeV). Năng lượng của các hạt trong tiến trình siêu tân tinh là đủ nhỏ để các dự đoán của Mô hình Chuẩn cho vật lý hạt dường như cơ bản là đúng. Nhưng với mật độ tập trung hạt cao có thể đòi hỏi các hiệu chỉnh từ Mô hình Chuẩn. Hơn nữa, các máy gia tốc hạt trên Trái Đất có thể tạo các tương tác hạt có phạm vi năng lượng cao hơn nhiều các hạt được tìm thấy trong vụ nổ siêu tân tinh, nhưng các thí nghiệm này chỉ bao gồm các hạt riêng lẻ tương tác với từng hạt, và rất có thể ở mật độ rất cao trong vụ nổ siêu tân tinh sẽ tạo ra những hiệu ứng mới. Tương tác giữa các neutrino và các hạt khác xảy ra trong siêu tân tinh được miêu tả bằng lực hạt nhân yếu, mà đã được hiểu khá rõ. Tuy nhiên, tương tác giữa các proton và neutron có sự ảnh hưởng bởi lực hạt nhân mạnh mà chưa được hiểu mọi chi tiết.
Vấn đề lớn chưa giải được của vụ nổ siêu tân tinh loại II đó là các nhà thiên văn vật lý chưa hiểu được cơ chế bằng cách nào mà sự nổ tung của các neutrino có thể truyền năng lượng của chúng đến phần còn lại của ngôi sao tạo ra đợt sóng xung kích khiến cho ngôi sao phát nổ. Từ thảo luận ở trên, chỉ có 1% năng lượng từ neutrino cần thiết truyền cho vật chất để tạo ra vụ nổ, nhưng sự giải thích cho bằng cách nào mà 1% năng lượng này được truyền tải đã được chứng minh là cực kỳ khó, ngay cả khi các tương tác tham gia vào hạt cơ bản đã được hiểu rõ. Trong thập niên 1990, một mô hình tìm cách lý giải cơ chế này bằng sự đảo ngược đối lưu (convective overturn), đề xuất rằng sự đối lưu, hoặc là bởi neutrino từ bên dưới, hoặc bởi vật chất rơi từ bên trên, hoàn thành quá trình phá hủy ngôi sao tiền khởi. Các nguyên tố nặng hơn sắt được hình thành trong quá trình vụ nổ này bằng cách bắt neutron, và từ áp suất của các neutrino nén vào biên của "khí quyển neutrino", gieo vào không gian xung quanh một đám mây khí và bụi giàu các nguyên tố nặng hơn so với vật chất hình thành ngôi sao ban đầu.
Vật lý neutrino, được mô hình hóa bởi Mô hình Chuẩn, là cơ sở lý thuyết để hiểu quá trình này. Những lý thuyết trọng yếu khác cho nghiên cứu siêu tân tinh đó là động lực học chất lưu của plasma tạo nên ngôi sao sắp chết; cách nó hoạt động trong quá trình sụp đổ lõi xác định thời điểm và cách thức sóng xung kích hình thành cũng như thời điểm và cách thức nó dừng lại và được cung cấp năng lượng trở lại.
Trên thực tế, một số mô hình lý thuyết kết hợp sự mất ổn định thủy động lực học trong sóng xung kích bị hãm được gọi là "Sự mất ổn định của sốc bồi tụ dừng" (Standing Accretion Shock Instability – SASI). Sự không ổn định này xảy ra do hậu quả của các nhiễu loạn không hình cầu làm dao động sóng xung kích bị hãm do đó làm biến dạng nó. Mô hình SASI thường được sử dụng song song với các lý thuyết neutrino trong các mô phỏng máy tính để tái tạo năng lượng cho cú sốc sóng xung kích bị hãm.
Các mô phỏng máy tính đã rất thành công trong việc tính toán tiến trình của siêu tân tinh loại II khi cú sốc được hình thành. Bằng cách bỏ qua giây đầu tiên của vụ nổ và giả sử rằng một vụ nổ đã bắt đầu, các nhà vật lý thiên văn đã có thể đưa ra những dự đoán chi tiết về các nguyên tố do siêu tân tinh tạo ra và về đường cong ánh sáng dự kiến từ siêu tân tinh.
Đồ thị độ sáng của siêu tân tinh loại II-L và II-P
Khi kiểm tra quang phổ của siêu tân tinh loại II, nó thường có các vạch phổ hấp thụ Balmer – thông lượng giảm ở các tần số đặc trưng khi các nguyên tử hydrogen hấp thụ năng lượng. Sự có mặt của các vạch phổ này thường được sử dụng để phân loại siêu tân tinh loại II với siêu tân tinh loại Ia.
Khi vẽ cường độ sáng của một vụ nổ siêu tân tinh loại II trong một quãng thời gian, nó hiện lên một đỉnh cực đại sáng sau đó giảm dần độ sáng. Những đường cong độ sáng này có tốc độ suy giảm trung bình là 0,008 độ sáng tuyệt đối trên một ngày; thấp hơn nhiều tốc độ suy giảm của siêu tân tinh loại Ia. Siêu tân tinh loại II được chia thành hai nhóm con, phụ thuộc vào dạng đồ thị cường độ sáng. Đồ thị cường độ sáng của siêu tân tinh loại II-L giảm đều (tuyến tính – linear) sau độ sáng cực đại. Ngược lại, đồ thị cường độ sáng của siêu tân tinh loại II-P có một quãng đi ngang (nhìn tựa như cao nguyên – plateau); biểu diễn khoảng thời gian khi cường độ sáng suy giảm ở tốc độ chậm hơn. Siêu tân tinh loại II-P có tổng độ suy giảm cường độ sáng là chậm hơn, vào khoảng 0,0075 độ sáng tuyệt đối trên một ngày, so với 0,012 độ sáng tuyệt đối trên một ngày của siêu tân tinh loại II-L.
Sự khác nhau về hình dạng của đường cong cường độ ánh sáng được cho là bởi sự phóng ra hầu hết toàn bộ hydro lớp vỏ của sao tiền khởi, đối với trường hợp của siêu tân tinh loại II-L. Giai đoạn đường cong cường độ ánh sáng đi ngang trong trường hợp siêu tân tinh loại II-P là do sự thay đổi độ chắn sáng của lớp bên ngoài. Sóng xung kích ion hóa hydro của lớp bên ngoài – tước electron khỏi nguyên tử hydro – làm tăng độ chắn sáng. Điều này ngăn cản các photon từ bên trong vụ nổ thoát ra ngoài. Khi hydro đủ lạnh để tái kết hợp, lớp bên ngoài trở lên trong suốt.
Siêu tân tinh loại IIn
Chữ "n" ký hiệu cho những dãy vạch phát xạ hydro hẹp trong quang phổ (narrow).Trong trường hợp trung gian vạch có độ rộng hơn, vật chất phóng ra từ vụ nổ có thể tương tác mạnh với khí gas xung quanh sao – môi trường liên sao. Mật độ môi trường liên sao ước tính cần thiết để giải thích các tính chất quan sát được là cao hơn so với dự đoán từ mô hình chuẩn của lý thuyết tiến hóa sao. Các nhà thiên văn thường giả thiết rằng mật độ môi trường liên sao cao là do tốc độ mất khối lượng lớn ở sao tiền khởi của siêu tân tinh loại IIn. Tốc độ mất khối lượng ước tính cao hơn điển hình khoảng trên một năm. Có những dấu hiệu cho thấy chúng có nguồn gốc từ những sao khổng lồ biến đổi xanh (luminous blue variable) với tốc độ mất khối lượng rất lớn trước khi chúng phát nổ. SN 1998S và SN 2005gl là các ví dụ của siêu tân tinh loại IIn; SN 2006gy, một siêu tân tinh cực kỳ mạnh mẽ, có thể là một ví dụ khác.
Một số siêu tân tinh loại IIn thể hiện tương tác với môi trường liên sao, dẫn đến sự tăng nhiệt độ trong bụi liên sao. Đám bụi ấm này có thể quan sát thấy như đang sáng lên dưới bước sóng hồng ngoại trung. Nếu môi trường liên sao mở rộng xa hơn từ siêu tân tinh, sự sáng lên trong bước sóng hồng ngoại trung có thể gây ra hiện tượng vọng hồng ngoại trong các bức ảnh chụp, làm cho sự sáng lên kéo dài đến hơn 1000 ngày. Loại siêu tân tinh này thuộc về siêu tân tinh loại hiếm tương tự như siêu tân tinh 2010jl, SN 2010jl. Hầu hết siêu tân tinh kiểu 2010jl được phát hiện từ dữ liệu quan sát của Kính thiên văn không gian Spitzer và Kính thiên văn khảo sát hồng ngoại trường rộng (WISE) (ví dụ SN 2014ab, SN 2017hcc).
Siêu tân tinh loại IIb
Siêu tân tinh loại IIb ban đầu có quang phổ vạch hydro yếu, điều này giải thích tại sao nó được phân loại vào siêu tân tinh loại II. Tuy vậy, sau một thời gian vạch phát xạ H không còn tồn tại phát hiện được, và cũng có một đỉnh yếu thứ hai trong đường cong cường độ ánh sáng mà có quang phổ rất giống với siêu tân tinh loại Ib. Sao tiền khởi có là một sao khối lượng lớn đã phóng ra phần lớn lớp vật chất bao ngoài, hoặc mất hầu hết lớp bao hydro do tương tác với một sao đồng hành trong hệ đôi, để lại lõi chứa phần lớn là heli. Khi vật chất phóng ra từ siêu tân tinh loại IIb mở rộng, lớp hydro nhanh chóng trở lên trong suốt và tiết lộ các lớp sâu bên trong.
Ví dụ điển hình của siêu tân tinh loại IIb là SN 1993J, hoặc tàn tích siêu tân tinh Cassiopeia A. Lớp IIb được giới thiệu lần đầu tiên (khi ấy là một khái niệm lý thuyết) bởi Woosley và các cộng sự vào năm 1987, và lớp này sớm được xác nhận bởi sự kiện SN 1987K và SN 1993J.
Xem thêm
Lịch sử quan sát siêu tân tinh
Tàn tích siêu tân tinh
Tham khảo
Liên kết ngoài
List of all known Type II supernovae at The Open Supernova Catalog.
Loại 2 |
19852880 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Cirripectes%20perustus | Cirripectes perustus | Cirripectes perustus là một loài cá biển thuộc chi Cirripectes trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1959.
Từ nguyên
Tính từ định danh perustus trong tiếng Latinh có nghĩa là “cháy hết”, hàm ý có lẽ đề cập đến màu đỏ và vàng như lửa cháy của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
Từ Kenya, C. perustus có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trải dài về phía đông đến quần đảo Caroline và Kiribati, ngược lên phía bắc đến đảo Đài Loan, phía nam đến Papua New Guinea. Ở Việt Nam, C. perustus được ghi nhận tại cù lao Câu (Bình Thuận).
C. perustus xuất hiện trên các rạn san hô ở vùng gian triều, đến độ sâu ít nhất là 25 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở C. perustus là 8,2 cm. Đây là loài dị hình giới tính, nhìn chung vây ngực đều có 5 tia vây dưới cùng là có chóp đỏ; mống mắt có vòng vàng quanh đồng tử, phần còn lại của mống mắt màu trắng bạc. Đầu và thân cá cái màu xám đến nâu vàng với các đốm đỏ dần chuyển thành nâu sẫm ở phía sau; có sọc chéo nhạt từ môi trên ngược lên gáy, ngang hốc mắt; vây ngực màu nâu. Cá đực không có đốm, màu vàng ở thân trước và nâu đỏ ở thân sau; vây ngực màu vàng.
Số gai vây lưng: 11–12; Số tia vây lưng: 14–15; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 14–16; Số tia vây ngực: 15; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 3.
Sinh thái
Thức ăn của C. perustus là tảo. Trứng của chúng có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ.
Tham khảo
P
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Kenya
Cá Madagascar
Cá Seychelles
Cá Maldives
Cá Thái Lan
Cá Việt Nam
Cá New Guinea
Cá Philippines
Cá Đài Loan
Động vật được mô tả năm 1959 |
19852881 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Self-XSS | Self-XSS | Self-XSS (tự viết kịch bản chéo trang) là một cuộc tấn công kỹ thuật xã hội được sử dụng để giành quyền kiểm soát tài khoản web của nạn nhân. Trong cuộc tấn công Self-XSS, nạn nhân của cuộc tấn công vô tình chạy mã độc trong trình duyệt web của chính họ, do đó làm lộ thông tin cá nhân cho kẻ tấn công, một loại lỗ hổng được gọi là kịch bản chéo trang.
Tổng quan
Self-XSS hoạt động bằng cách lừa người dùng sao chép và dán nội dung độc hại vào bảng điều khiển dành cho nhà phát triển web trên trình duyệt của họ. Thông thường, kẻ tấn công đăng một thông báo lừa người dùng sao chép và chạy một số mã nhất định để phần thưởng ảo hoặc hack một trang web. Trên thực tế, đoạn mã này cho phép kẻ tấn công chiếm đoạt tài khoản của nạn nhân.
Tham khảo
Đọc thêm
McCaney, Kevin (November 16, 2011). "4 ways to avoid the exploit in Facebook spam attack". GCN. 1105 Public Sector Media Group.
Khai thác bảo mật web |
19852891 | https://vi.wikipedia.org/wiki/New%20Glenn | New Glenn | New Glenn là phương tiện phóng quỹ đạo hạng nặng đang được Blue Origin phát triển, được đặt theo tên của phi hành gia NASA John Glenn, phi hành gia người Mỹ đầu tiên bay quanh quỹ đạo Trái đất. Công việc thiết kế chiếc phương tiện không gian này bắt đầu vào năm 2012; hình minh họa của phương tiện và các thông số kỹ thuật cấp cao ban đầu được công bố rộng rãi vào tháng 9 năm 2016. New Glenn là tên lửa hai tầng có đường kính 7 m (23 ft). Giai đoạn đầu tiên của nó sẽ được trang bị bảy động cơ BE-4 cũng do Blue Origin thiết kế và sản xuất.
Giống như phương tiện phóng dưới quỹ đạo New Shepard được sử dụng cho các hoạt động du lịch vũ trụ, tầng đầu tiên của New Glenn đã được thiết kế để có thể tái sử dụng kể từ khi thành lập. Vào năm 2021, công ty bắt đầu chương trình tái sử dụng giai đoạn thứ hai với dự án có tên mã là Project Jarvis. Thùng chứa thử nghiệm đầu tiên được tạo ra vào năm 2021.
Kể từ tháng 11 năm 2023, lần phóng đầu tiên dự kiến sẽ diễn ra không sớm hơn tháng 8 năm 2024, mang theo tàu vũ trụ EscaPADE của NASA tới Sao Hỏa.
Lịch sử
Sau khi bắt đầu phát triển hệ thống tên lửa quỹ đạo trước năm 2012 và tuyên bố trên trang web của họ vào năm 2013 rằng giai đoạn đầu tiên sẽ hạ cánh thẳng đứng và có thể tái sử dụng, Blue Origin đã công bố công khai ý định phương tiện phóng quỹ đạo của họ vào tháng 9 năm 2015. Vào tháng 1 năm 2016, Blue Origin chỉ ra rằng tên lửa mới sẽ lớn hơn nhiều lần so với New Shepard mặc dù nó là loại nhỏ nhất trong tên lửa đẩu quỹ đạo Blue Origin. Blue Origin đã công bố thiết kế cao cấp của chiếc xe và công bố tên New Glenn - với cả hai biến thể hai giai đoạn và ba giai đoạn được lên kế hoạch - vào tháng 9 năm 2016.
Công việc thiết kế ban đầu trên các hệ thống tên lửa quỹ đạo
Blue Origin bắt đầu phát triển hệ thống dành cho tàu vũ trụ có người lái trên quỹ đạo trước năm 2012. Tên lửa đẩy tăng cường giai đoạn đầu có thể tái sử dụng được dự kiến sẽ bay theo quỹ đạo dưới quỹ đạo, cất cánh theo phương thẳng đứng giống như giai đoạn tăng cường của phương tiện phóng nhiều tầng thông thường. Sau khi tách giai đoạn, giai đoạn trên sẽ tiếp tục đẩy các phi hành gia lên quỹ đạo trong khi máy đẩy tăng cường giai đoạn đầu sẽ hạ xuống để thực hiện hạ cánh thẳng đứng được hỗ trợ tương tự như phương tiện quỹ đạo phụ New Shepard của nó. Tên lửa đẩy giai đoạn đầu tiên sẽ được tiếp nhiên liệu và khởi động lại để giảm chi phí cho con người tiếp cận không gian.
Phương tiện phóng tăng cường dự kiến sẽ nâng viên nang phương tiện không gian hai mặt của Blue Origin lên quỹ đạo, chở các phi hành gia và vật tư. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trên quỹ đạo, Phương tiện Không gian được thiết kế để quay trở lại bầu khí quyển Trái đất và hạ cánh bằng dù trên đất liền, để tái sử dụng cho các nhiệm vụ trong tương lai.
Thử nghiệm động cơ cho phương tiện phóng Hệ thống đẩy tăng cường tái sử dụng (RBS) (được đặt tên lúc bấy giờ) đã bắt đầu vào năm 2012. Một cuộc thử nghiệm toàn bộ công suất của buồng đẩy cho động cơ tên lửa tầng trên oxy lỏng/hydro lỏng Blue Origin BE-3 (BE-3U) được tiến hành trên một bệ tại Trung tâm vũ trụ John C. Stennis (cơ sở thử nghiệm của NASA) vào tháng 10 năm 2012. Buồng đã đạt được thành công lực đẩy tối đa 100.000 lbf (khoảng 440 kN). Đến đầu năm 2018, đã có thông báo rằng động cơ hydrolox BE-3U sẽ cung cấp năng lượng cho giai đoạn thứ hai của New Glenn.
Phát triển
Công việc thiết kế tên lửa này bắt đầu vào năm 2012, khi bắt đầu phát triển động cơ BE-4. Các kế hoạch tiếp theo về phương tiện phóng vào quỹ đạo đã được công bố vào năm 2015. Đến tháng 3 năm 2016, phương tiện phóng này được gọi bằng tên giữ chỗ là " Very Big Brother". Nó được tuyên bố là một tên lửa đẩy bằng chất lỏng hai tầng lên quỹ đạo, với bệ phóng có thể tái sử dụng. Vào đầu năm 2016, Blue Origin chỉ ra rằng lần phóng vào quỹ đạo đầu tiên dự kiến không sớm hơn năm 2020 từ cơ sở phóng ở Florida, và vào tháng 9 năm 2017 tiếp tục dự báo lần ra mắt vào năm 2020. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 2 năm 2016, chủ tịch Blue Origin Rob Meyerson đã đề cập đến các cột mốc phát triển động cơ và phương tiện phóng vào quỹ đạo.
Bản thân phương tiện này và các thông số kỹ thuật cấp cao ban đầu được công bố rộng rãi vào tháng 9 năm 2016. New Glenn được mô tả là tên lửa hai hoặc ba tầng có đường kính 7 m (23 ft), với tầng thứ nhất và tầng thứ hai là khí metan lỏng/oxy lỏng (methalox) sử dụng động cơ Blue Origin. Giai đoạn đầu tiên được lên kế hoạch để có thể tái sử dụng và sẽ hạ cánh thẳng đứng, giống như phương tiện phóng dưới quỹ đạo New Shepard đã bay dưới quỹ đạo kể từ đầu những năm 2010. Mặc dù các kế hoạch này sau đó sẽ thay đổi, nhưng kế hoạch năm 2016 yêu cầu giai đoạn đầu tiên được cung cấp năng lượng bởi bảy trong số các động cơ BE-4 của Blue Origin đốt theo giai đoạn giàu oxy một trục nhiên liệu tên lửa metan lỏng/oxy lỏng, giai đoạn thứ hai là được cung cấp năng lượng bởi một biến thể chân không duy nhất của BE-4 (BE-4U) và giai đoạn thứ ba sử dụng một động cơ hydrolox BE-3 duy nhất. Vào năm 2016, giai đoạn đầu tiên đã được lên kế hoạch thiết kế để tái sử dụng cho tối đa 100 chuyến bay. Blue Origin thông báo rằng họ dự định phóng tên lửa từ Tổ hợp phóng 36 (LC-36) và sản xuất các phương tiện phóng tại một cơ sở mới được xây dựng trên vùng đất gần đó trong Công viên Thám hiểm. Việc thử nghiệm nghiệm thu động cơ BE-4 cũng được công bố là sẽ được lên kế hoạch ở Florida.
Blue Origin giải thích trong thông báo ngày 12 tháng 9 năm 2016 rằng tên lửa sẽ được đặt tên là New Glenn để vinh danh phi hành gia người Mỹ đầu tiên bay quanh quỹ đạo Trái đất, John Glenn. Ba tuần thử nghiệm đường hầm gió của mô hình New Glenn đã được hoàn thành vào tháng 9 năm 2016 để xác nhận các mô hình thiết kế CFD của chuyến bay cận âm và siêu âm.
Vào tháng 3 năm 2017, Jeff Bezos đã giới thiệu đồ họa của New Glenn có hai dải lớn ở dưới cùng của bộ đẩy tăng cường. Trong thông báo vào tháng 9 năm 2017, Blue Origin đã công bố một tấm chắn có tải trọng lớn hơn nhiều cho New Glenn, chiếc này có đường kính 7 m (23 ft), tăng từ 5,4 m (18 ft) trong thiết kế được công bố ban đầu.
Đến tháng 3 năm 2018, thiết kế phương tiện phóng đã thay đổi. Đã có thông báo rằng giai đoạn thứ hai của New Glenn hiện sẽ được cung cấp năng lượng bởi hai phiên bản chân không của động cơ tên lửa hydro lỏng/oxy lỏng BE-3 đã được chứng minh là BE-3 với một động cơ BE-3U duy nhất cho tùy chọn không gian sâu giai đoạn thứ ba. . Biến thể tăng cường ba giai đoạn sau đó đã bị hủy bỏ hoàn toàn vào tháng 1 năm 2019. Đến giữa năm 2018, thiết kế cấp thấp vẫn chưa hoàn thiện và khả năng đạt được lần phóng đầu tiên vào năm 2020 đang được các kỹ sư của công ty, khách hàng, chuyên gia trong ngành và nhà báo đặt ra nghi vấn. Vào tháng 10 năm 2018, Không quân thông báo Blue Origin đã được trao 500 triệu đô la Mỹ để phát triển New Glenn như một đối thủ cạnh tranh tiềm năng trong các hợp đồng tương lai, bao gồm cả Phương tiện phóng có thể sử dụng được cải tiến (EELV) Giai đoạn 2. Giải thưởng tháng 10 năm 2018 đã bị chấm dứt vào tháng 12 năm 2020 sau khi nhận được 255,5 triệu USD trong số 500 triệu USD.
Đến tháng 2 năm 2019, một số lần phóng cho New Glenn đã được ký hợp đồng: năm lần phóng cho OneWeb, một lượng Telesat không xác định, mỗi lần phóng cho Eutelsat, mu Space Corp và SKY Perfect JSAT. ] Vào tháng 2 năm 2019, Blue Origin chỉ ra rằng không có kế hoạch xây dựng giai đoạn thứ hai có thể tái sử dụng trong lộ trình của công ty. Trong trường hợp này, đến tháng 7 năm 2021, Blue Origin đang đánh giá các phương án để đạt được thiết kế giai đoạn hai có thể tái sử dụng: Dự án Jarvis.
Vào tháng 8 năm 2020, Lực lượng Không quân Hoa Kỳ thông báo rằng New Glenn không được chọn để mua sắm phóng Giai đoạn 2 của Vụ phóng vào Không gian An ninh Quốc gia. Do đó, vào tháng 2 năm 2021, Blue Origin đã thông báo rằng chuyến bay đầu tiên sẽ không sớm hơn vào cuối năm 2022.
Đến tháng 12 năm 2020, Blue Origin chỉ ra rằng việc giao động cơ BE-4 cho ULA sẽ chuyển sang mùa hè năm 2021 và ULA tiết lộ rằng lần ra mắt đầu tiên của đối thủ cạnh tranh của New Glenn - ULA Vulcan Centaur bây giờ sẽ không sớm hơn quý 4 năm 2021. Blue Origin đã thông báo về lịch trình tiếp theo cho lần ra mắt đầu tiên của New Glenn vào tháng 3 năm 2021 khi công ty cho biết New Glenn "sẽ không ra mắt sớm nhất cho đến quý 4 năm 2022."
Đến năm 2021, Blue Origin đã thay đổi thông số kỹ thuật tái sử dụng đã công bố cho New Glenn thành tối thiểu 25 chuyến bay, so với thiết kế trước đó của năm 2016 để hỗ trợ lên tới 100 chuyến bay.
Vào tháng 3 năm 2022, lần ra mắt đầu tiên dự kiến của New Glenn đã giảm xuống không sớm hơn quý 4 năm 2023.
Vào tháng 1 năm 2024, giai đoạn đầu tiên của New Glenn đã được vận chuyển tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy từ nhà máy đến khu phức hợp phóng để chuẩn bị cho vụ phóng vào năm 2024.
Giai đoạn trên có thể tái sử dụng "Jarvis"
Thông tin được công khai vào tháng 7 năm 2021 rằng Blue Origin đã bắt đầu một "dự án phát triển giai đoạn trên có thể tái sử dụng hoàn toàn cho New Glenn," dưới tên "Dự án Jarvis", giống như SpaceX đang hướng tới thực hiện với giai đoạn thứ hai của Starship. Nếu Blue Origin có thể hiện thực hóa thiết kế giai đoạn hai như vậy và đưa nó vào sử dụng, New Glenn sẽ trở thành phương tiện phóng hoàn toàn có thể tái sử dụng và sẽ được hưởng lợi từ việc giảm đáng kể chi phí mỗi lần phóng.
Ngoài những thay đổi về mặt kỹ thuật đã chỉ ra, Bezos đã tạo ra một cơ cấu quản lý mới cho những nỗ lực mới, tách biệt "các phần của chương trình phát triển giai đoạn hai với phần còn lại của Blue Origin [yêu cầu] các nhà lãnh đạo của mình đổi mới trong một môi trường không bị ràng buộc bởi sự quản lý và thủ tục giấy tờ nghiêm ngặt." Tuy nhiên, không có dấu hiệu nào về ngân sách được phép phát triển giai đoạn thứ hai có thể tái sử dụng này được công bố cho công chúng.
Một phần nỗ lực là tập trung phát triển thùng nhiên liệu đẩy bằng thép không gỉ và cấu trúc chính cho tên lửa giai đoạn hai, đồng thời đánh giá nó như một phần của giải pháp cho hệ thống giai đoạn hai hoàn chỉnh. Đến ngày 24 tháng 8, Blue Origin đã thử nghiệm thùng chứa bằng thép không gỉ đến cơ sở Tổ hợp phóng 36 của họ, tại đó việc thử nghiệm áp suất mặt đất bằng thuốc phóng đông lạnh có thể bắt đầu sớm nhất là vào tháng 9.
Ngoài nhóm Jarvis đang nghiên cứu thiết kế thùng chứa giai đoạn hai mới, Blue Origin đã thành lập một nhóm khác để tập trung vào các phương pháp thiết kế có thể được sử dụng để làm cho giai đoạn hai của New Glenn có thể tái sử dụng được, một điều không phải là mục tiêu thiết kế của phiên bản gốc. giai đoạn thứ hai cho New Glenn trước năm 2021. Tính đến tháng 8 năm 2021, ba phương pháp tiếp cận đang được khám phá: bổ sung thêm các cánh để cho phép sân khấu hoạt động như một phi cơ vũ trụ khi quay trở lại khí quyển; sử dụng động cơ aerospike ở giai đoạn thứ hai có thể đóng vai trò như một tấm chắn nhiệt khi quay trở lại khí quyển; và một cách tiếp cận tương tự như khái niệm Starship của SpaceX sử dụng các cánh tà có lực kéo cao kết hợp với khả năng giảm tốc do lực đẩy. Quyết định về cách tiếp cận nào sẽ được phát triển đầy đủ sẽ được đưa ra vào cuối năm 2021.
Mô tả và thông số kỹ thuật
New Glenn là phương tiện phóng quỹ đạo hai tầng có đường kính 7 m (23 ft) với tầng thứ nhất có thể tái sử dụng và tầng thứ hai có thể sử dụng được. Giai đoạn thứ ba tùy chọn đã được dự tính với một động cơ BE-3U duy nhất và đã được lên kế hoạch từ tháng 10 năm 2018.
Giai đoạn đầu tiên được thiết kế để có thể tái sử dụng trong tối thiểu 25 chuyến bay, và sẽ hạ cánh thẳng đứng, một công nghệ được phát triển trước đây bởi Blue Origin và được thử nghiệm vào năm 2015–2016 trên phương tiện phóng quỹ đạo phụ New Shepard. Giai đoạn thứ hai sẽ có cùng đường kính với giai đoạn đầu tiên và sử dụng hai động cơ được tối ưu hóa chân không BE-3U. Nó sẽ sử dụng hydro/oxy làm chất đẩy và sẽ có thể sử dụng được. Động cơ này được sản xuất bởi Blue Origin. Công ty đã tiết lộ tải trọng vận hành đầy đủ theo kế hoạch của phiên bản hai tầng của New Glenn là 13.000 kg (29.000 lb) đối với GTO và 45.000 kg (99.000 lb) đối với LEO nghiêng 51,6°, mặc dù khả năng vận hành ban đầu là có thể thấp hơn một chút. Việc phóng vệ tinh kép sẽ được thực hiện sau năm chuyến bay đầu tiên.
Cả hai giai đoạn sẽ sử dụng bể nhôm orthogrid với vòm nhôm hàn và vách ngăn chung. Cả hai giai đoạn cũng sẽ sử dụng điều áp tự sinh. Giai đoạn đầu tiên sẽ được trang bị bảy động cơ metan/oxy BE-4 — do Blue Origin thiết kế và sản xuất — tạo ra lực đẩy cất cánh 17.000 kN (3.800.000 lbf). Giai đoạn thứ hai sẽ được trang bị hai động cơ BE-3U, cũng do Blue Origin thiết kế và sản xuất. BE-3U là một biến thể chu trình mở rộng của động cơ BE-3, được thiết kế rõ ràng để sử dụng ở các giai đoạn trên. Số thiết kế sơ bộ từ năm 2015 dự kiến BE-3U có lực đẩy chân không là 670 kN.
Các vụ phóng của New Glenn dự kiến sẽ được thực hiện từ Tổ hợp phóng 36 (LC-36), được Blue Origin thuê vào năm 2015. Một địa điểm phóng tại Căn cứ Lực lượng Không gian Vandenberg cũng đã được lên kế hoạch. New Glenn cũng sẽ có mặt trên các chuyến bay du lịch vũ trụ, ưu tiên dành cho khách hàng của New Shepard. Tên lửa đẩy giai đoạn đầu tiên của New Glenn được thiết kế để có thể tái sử dụng và ban đầu dự định sẽ được thu hồi ở tầm xa trên Đại Tây Dương thông qua tàu hạ cánh Jacklyn của họ, vốn sẽ hoạt động như một bệ hạ cánh di động nổi. Con tàu được ổn định về mặt thủy động lực sẽ tăng khả năng phục hồi thành công khi biển động. Hiện tại không có kế hoạch rõ ràng nào về việc thu hồi tàu vì họ đã loại bỏ Jacklyn và con tàu hiện đã được bán để làm phế liệu. Vẫn chưa biết điều này có ý nghĩa gì đối với khả năng tái sử dụng của New Glenn. Blue Origin có thể sử dụng sà lan, tương tự như cách SpaceX hiện phục hồi tên lửa đẩy của họ, nhưng điều này có thể phức tạp do kích thước của nó.
Chế tạo
Quá trình lắp ráp chính của phương tiện phóng New Glenn sẽ diễn ra tại cơ sở sản xuất tên lửa Blue Origin ở Florida, gần Tổ hợp phóng 36 (LC-36) mà công ty đã thuê từ Spaceport Florida. Tổ hợp phóng 36 (LC-36) đã tổ chức hơn 100 lần phóng, trước đó là phóng Atlas II và Atlas III.
Dụng cụ và thiết bị cho nhà máy bắt đầu được đặt hàng và chế tạo vào năm 2015. Vào tháng 7 năm 2018, việc chế tạo thiết bị lớn nhất - bình đông lạnh Ingersoll "Mongoose" và máy chế tạo tấm chắn, cao 16 m × dài 41 m × rộng 13 m,được hoàn thành sau quá trình thiết kế/chế tạo kéo dài ba năm. Nó sẽ được lắp đặt tại cơ sở Florida ở Công viên Thám hiểm vào cuối năm 2018. Tính đến tháng 9 năm 2018, Blue Origin đã đầu tư hơn 1 tỷ USD vào cơ sở sản xuất và địa điểm phóng ở Florida, đồng thời dự định sẽ chi nhiều hơn nữa trong tương lai.
Dịch vụ phóng tàu vũ trụ
Blue Origin sẽ cung cấp cả các chuyến bay dành riêng cho tải trọng đơn và sau lần phóng thứ năm, biểu hiện kép các vệ tinh liên lạc lớn sẽ được vận chuyển đến quỹ đạo chuyển tiếp địa tĩnh (GTO). Tất cả các lần phóng theo hợp đồng ngay từ đầu sẽ có giai đoạn đầu tiên có thể tái sử dụng, do đó, giống như thông lệ trong vận chuyển máy bay thương mại, điều kiện hạ cánh có thể ảnh hưởng đến thời gian và các thông số chuyến bay của lần phóng.
Khách hàng của dịch vụ phóng tàu vũ trụ
Đến năm 2018, Blue Origin đã có hợp đồng với bốn khách hàng cho các chuyến bay của New Glenn. Eutelsat, mu Space Corp của Thái Lan và SKY Perfect JSAT có kế hoạch phóng vệ tinh liên lạc trên quỹ đạo địa lý sau năm 2020, trong khi nhà điều hành đội vệ tinh internet OneWeb đã có thỏa thuận cho 5 lần phóng.
Vào tháng 1 năm 2019, Telesat đã ký một hợp đồng phóng nhiều lần "để phóng vệ tinh cho chòm sao băng thông rộng có quỹ đạo Trái đất thấp trong tương lai trong nhiều sứ mệnh New Glenn" và do đó là khách hàng thứ năm của Blue Origin.
Vào năm 2022, Amazon thông báo rằng họ đã ký hợp đồng với 15 chuyến bay của New Glenn, với tùy chọn thêm 18 chuyến nữa, để triển khai vệ tinh cho Kuiper satellite constellation. Amazon, do chủ sở hữu Blue Origin Jeff Bezos thành lập, cũng đã đặt hàng 38 lần phóng Vulcan từ ULA và 18 lần phóng Ariane 6 từ Arianespace.
Vào tháng 2 năm 2023, NASA thông báo họ đã chọn Blue Origin để phóng tàu vũ trụ EscaPADE lên sao Hỏa. Nhiệm vụ đang nhắm đến thời điểm phóng từ ngày 6 đến ngày 15 tháng 8 năm 2024. Kể từ tháng 11 năm 2023, EscaPADE dự kiến sẽ bay trong lần phóng đầu tiên của New Glenn.
Nhịp độ phóng tàu vũ trụ theo lịch trình
Blue Origin dự định ký hợp đồng các dịch vụ phóng tên lửa của mình theo một cấu trúc khác so với các lựa chọn hợp đồng thường được cung cấp trên thị trường phóng tên lửa thương mại. Công ty cho biết họ sẽ ký hợp đồng để đạt được tần suất phóng thường xuyên lên tới 8 lần phóng mỗi năm. Nếu một trong những nhà cung cấp trọng tải cho việc khởi chạy nhiều trọng tải không sẵn sàng đúng thời hạn, Blue Origin sẽ giữ nguyên khung thời gian khởi chạy và vận chuyển các trọng tải còn lại đúng thời hạn mà không tăng giá. Điều này khác với cách Arianespace (Ariane 5 và Ariane 6) và Mitsubishi Heavy Industries (H-IIA và H3) xử lý các hợp đồng phóng kép theo truyền thống. SpaceX và International Launch Services có thể cung cấp các hợp đồng phóng kép, nhưng ưu tiên các nhiệm vụ chuyên dụng.
Nguồn kinh phí
Việc phát triển và sản xuất New Glenn đang được tài trợ bởi Jeff Bezos, người sáng lập Amazon.com, và Bộ Không quân. Ban đầu được tài trợ hoàn toàn bởi Bezos, sau năm 2019, New Glenn cũng sẽ nhận được 500 triệu USD tài trợ theo chương trình Không gian An ninh Quốc gia Hoa Kỳ của Lực lượng Không gian Hoa Kỳ (NSSL). Đến tháng 9 năm 2017, Bezos đã đầu tư 2,5 tỷ USD vào New Glenn.
Chú thích |
19852910 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A0%20%C4%90%C3%ACnh%20Khao | Phà Đình Khao | Phà Đình Khao là một tuyến phà nằm trên quốc lộ 57, với bờ bắc thuộc xã Hòa Ninh và bờ nam thuộc xã Thanh Đức, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
Phà Đình Khao, một tuyến phà quan trọng, chủ yếu phục vụ việc di chuyển người và phương tiện qua sông Cổ Chiên. Nó đóng vai trò cầu nối giữa Bến Tre và Vĩnh Long, thông qua huyện Chợ Lách. Ngoài ra, Phà Đình Khao cũng kết nối Thành phố Vĩnh Long với bốn xã thuộc Cù lao An Bình, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển và phát triển kinh tế khu vực.
Kẹt phà
Phà Đình Khao, một tuyến phà quan trọng nối tỉnh Vĩnh Long và Bến Tre, đã gặp phải vấn đề kẹt xe kéo dài trong nhiều ngày. Mặc dù đã được bố trí 5 chiếc phà phục vụ nhu cầu đi lại ngày giáp Tết, tình trạng ùn tắc vẫn xảy ra, với hàng xe xếp dài cả cây số.
Nguyên nhân chính cho tình trạng này là do lượng xe tải qua phà Đình Khao quá đông, đặc biệt trong những ngày cận Tết, khi các tài xế xe tải qua Chợ Lách, Bến Tre để vận chuyển hoa, cây kiểng và trái cây cung cấp cho các tỉnh thành như Cần Thơ, Hậu Giang, Cà Mau, Kiên Giang. Điều này đã dẫn đến tình trạng kẹt xe, ùn tắc nghiêm trọng, khiến nhiều tài xế phải mất tới 2 giờ đồng hồ mới qua được phà.
Để giải quyết vấn đề này, các cơ quan chức năng đã đề xuất một số giải pháp, bao gồm việc in vé số lượng lớn rồi bán lưu động cho các tài xế nhằm giảm ùn tắc. Đồng thời, họ cũng phối hợp với các cơ quan chức năng khác để điều tiết giao thông tại 2 đầu bến.
Hình ảnh
Tham khảo
Xem thêm
Phà Vàm Cống
Vĩnh Long
Long Hồ
Vĩnh Long
Chợ Lách
Bến Tre |
19852912 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BB%91c%20th%E1%BB%AD%20h%C3%B3a%20h%E1%BB%8Dc | Thuốc thử hóa học | Trong hóa học, thuốc thử hóa học là chất hoặc hợp chất được thêm vào hệ thống để gây ra phản ứng hóa học hoặc kiểm tra xem phản ứng đó có xảy ra hay không. Thuật ngữ chất phản ứng và thuốc thử hóa học thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng chất phản ứng chỉ một chất được tiêu thụ trong quá trình sử dụng hóa chất phản ứng. Dung môi, mặc dù có liên quan đến cơ chế phản ứng, thường không được gọi là chất phản ứng. Tương tự, chất xúc tác không bị tiêu hao trong phản ứng nên chúng không phải là chất phản ứng. Trong hóa sinh, đặc biệt là liên quan đến các phản ứng được xúc tác enzym, các chất phản ứng thường được gọi là cơ chất.
Định nghĩa
Hóa hữu cơ
Trong hóa học hữu cơ, thuật ngữ "thuốc thử hóa học" biểu thị một thành phần hóa học (một hợp chất hoặc hỗn hợp, điển hình là các phân tử hữu cơ vô cơ hoặc nhỏ) được đưa vào để tạo ra sự biến đổi mong muốn của một chất hữu cơ. Các ví dụ bao gồm thuốc thử Collins, thuốc thử Fenton và thuốc thử Grignard.
Hóa phân tích
Trong hóa học phân tích, thuốc thử hóa học là hợp chất hoặc hỗn hợp được sử dụng để phát hiện sự có mặt hay vắng mặt của chất khác, ví dụ: bằng cách thay đổi màu sắc hoặc để đo nồng độ của một chất, ví dụ: bằng đo màu. Ví dụ bao gồm thuốc thử Fehling, thuốc thử Millon và thuốc thử Tollens.
Chế phẩm thương mại hoặc phòng thí nghiệm
Trong các chế phẩm thương mại hoặc trong phòng thí nghiệm, cấp thuốc thử chỉ định chất hóa học đáp ứng tiêu chuẩn của độ tinh khiết đảm bảo độ chính xác và độ tin cậy về mặt khoa học của phân tích hóa học, phản ứng hóa học hoặc thử nghiệm vật lý. Tiêu chuẩn về độ tinh khiết của thuốc thử được đặt ra bởi các tổ chức như ASTM International hoặc American Chemical Society. Ví dụ, nước chất lượng thuốc thử phải có hàm lượng tạp chất rất thấp như ion natri và clorua, silica và vi khuẩn, cũng như điện trở suất rất cao. Các sản phẩm trong phòng thí nghiệm ít tinh khiết hơn nhưng vẫn hữu ích và tiết kiệm cho công việc đơn giản, có thể được chỉ định là cấp độ kỹ thuật, thực tế hoặc thô để phân biệt chúng với các phiên bản thuốc thử.
Sinh học
Trong lĩnh vực sinh học, cuộc cách mạng công nghệ sinh học vào những năm 1980 phát triển từ sự phát triển của thuốc thử hóa học có thể được sử dụng để xác định và điều khiển các chất hóa học bên trong và bên ngoài tế bào. Những thuốc thử này bao gồm kháng thể (đa dòng và đơn dòng), oligomer, tất cả các loại sinh vật mô hình và dòng tế bào bất tử, thuốc thử hóa học và phương pháp nhân bản phân tử và sao chép DNA, cùng nhiều loại khác.
Xem thêm
Hạn chế thuốc thử
Thuốc thử thông dụng
Sản phẩm
Chất nền
Tham khảo
Liên kết ngoài
Kỹ thuật và công cụ sinh học
Phản ứng hóa học
Thuốc thử hóa sinh |
19852979 | https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2u%20XSS | Sâu XSS | Sâu XSS, đôi khi được gọi là vi rút tạo tập lệnh chéo trang, là một payload độc hại (hoặc đôi khi không độc hại), thường được viết bằng JavaScript, vi phạm bảo mật trình duyệt để lan truyền giữa những khách truy cập trang web nhằm cố gắng dần dần lây nhiễm cho những du khách khác. Chúng được đề cập lần đầu tiên vào năm 2002 liên quan đến lỗ hổng tập lệnh chéo trang trong Hotmail.
Ý tưởng
Sâu XSS khai thác lỗ hổng bảo mật được gọi là tập lệnh chéo trang (hay gọi tắt là XSS) trong một trang web, lây nhiễm cho người dùng theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào lỗ hổng. Các tính năng của trang web như hồ sơ và hệ thống trò chuyện có thể bị ảnh hưởng bởi sâu XSS khi triển khai không đúng cách hoặc không quan tâm đến bảo mật. Thông thường, những sâu này chỉ dành riêng cho một trang web, lây lan nhanh chóng bằng cách khai thác các lỗ hổng cụ thể.
Các lỗ hổng kịch bản chéo trang thường được khai thác dưới dạng sâu trên các trang web xã hội hoặc thương mại phổ biến, chẳng hạn như MySpace, Yahoo!, Orkut, Justin.tv, Facebook và Twitter. Những sâu này có thể được sử dụng cho mục đích xấu, tạo cơ sở cho kẻ tấn công đánh cắp thông tin cá nhân được cung cấp cho trang web, chẳng hạn như mật khẩu hoặc số thẻ tín dụng.
Một số ví dụ
Một vài sâu XSS đã ảnh hưởng đến các trang web phổ biến.
Sâu Samy
Sâu Samy, sâu XSS lớn nhất được biết đến, đã lây nhiễm hơn 1 triệu hồ sơ MySpace trong vòng chưa đầy 20 giờ. Tác giả của virus đã bị kiện và đưa ra thỏa thuận nhận tội về một trọng tội.
Sâu Justin.tv
Justin.tv là một trang web truyền video với số lượng người dùng hoạt động khoảng 20 nghìn người. Lỗ hổng tập lệnh chéo trang đã bị khai thác là trường hồ sơ "Vị trí" không được "vệ sinh" đúng cách trước khi đưa nó vào trang hồ sơ.
Trường hồ sơ "Vị trí" đã được làm sạch khi được đưa vào tiêu đề của trang hồ sơ nhưng không nằm trong trường thực tế trong nội dung trang. Điều này có nghĩa là các tác giả của sâu, để đạt được khả năng tàng hình nhằm tăng thời gian tồn tại và lây lan của sâu, phải tự động xóa tải trọng XSS khỏi tiêu đề của trang từ bên trong mã của sâu, vốn đã bị ẩn bởi các bình luận. Sau khi phát triển sâu, nó được thực thi vào khoảng Thứ Bảy, ngày 28 tháng 6 năm 2008 21:52:33 UTC và kết thúc vào Chủ Nhật, ngày 29 tháng 6 năm 2008 21:12:21 UTC. Vì trang web xã hội được nhắm mục tiêu không hoạt động đặc biệt (so với các mục tiêu sâu XSS phổ biến khác), sâu này đã lây nhiễm tổng cộng 2525 hồ sơ trong vòng khoảng 24 giờ.
Sâu đã được tìm thấy vài giờ trước khi bị loại bỏ thành công và dựa trên dữ liệu được ghi lại (do mục đích ban đầu của sâu là nhằm mục đích nghiên cứu), sâu có thể lây nhiễm các hồ sơ không bị nhiễm sau khi chúng được các nhà phát triển Justin.tv khử trùng một cách mạnh mẽ. . Con sâu này đã được "khử trùng" một lần nữa sau khi lỗ hổng được vá và nó có thể bị loại bỏ một cách dễ dàng. Tuy nhiên, điều này cho thấy khả năng thích ứng và lây lan của sâu ngay cả sau khi phản công.
Các yếu tố cụ thể khác được biểu thị bằng biểu đồ và dữ liệu do kẻ tấn công công bố bao gồm hoạt động xã hội và thiếu người dùng mới, không bị lây nhiễm trong một khoảng thời gian.
Sâu Orkut "Bom Sabado"
Orkut, một trang mạng xã hội, cũng bị tấn công bởi sâu XSS. Người dùng bị nhiễm sẽ nhận được một mẩu tin lưu niệm có chứa dòng chữ "Bom Sabado" (tiếng Bồ Đào Nha, "Thứ Bảy vui vẻ"). Google vẫn chưa bình luận về tình hình.
Nguồn tham khảo
Xem thêm
Bảo mật trình duyệt
An toàn mạng Internet
An ninh Internet
Sâu máy tính
Khai thác bảo mật web |
19852983 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Lint%20%28ph%E1%BA%A7n%20m%E1%BB%81m%29 | Lint (phần mềm) | Lint là một thuật ngữ trong khoa học máy tính, dùng để chỉ một công cụ phân tích mã tĩnh được sử dụng để đánh dấu các lỗi lập trình, lỗ hổng, lỗi về phong cách và các cấu trúc khả nghi trong mã nguồn. Thuật ngữ bắt nguồn từ một tiện ích Unix dùng để kiểm tra mã nguồn ngôn ngữ C. Các chương trình thực hiện các chức năng này được gọi là "linter".
Lịch sử
Năm 1978, trong khi gỡ lỗi văn phạm yacc cho ngôn ngữ C và giải quyết các vấn đề tương thích liên quan đến việc đưa hệ điều hành Unix lên máy 32-bit, Stephen C. Johnson, một nhà khoa học máy tính tại Bell Labs, đã nghĩ ra thuật ngữ "lint". Thuật ngữ được mượn từ từ "lint" trong tiếng Anh có nghĩa là xơ vải, bởi vì công cụ mà ông viết có tác dụng như một cái bẫy xơ vải trong máy sấy quần áo, thu gom các sợi xơ thừa mà vẫn giữ nguyên vẹn phần vải nguyên vẹn. Năm 1979, lập trình lint lần đầu tiên được sử dụng bên ngoài Bell Labs trong phiên bản thứ bảy của Unix.
Trải qua nhiều năm, có nhiều phiên bản lint đã được phát triển cho phần mềm biên dịch các ngôn ngữ C và C++. Mặc dù các phần mềm biên dịch hiện đại có những chức năng tương tự lint, các công cụ kiểu lint cũng đã nâng cao khả năng của chúng, chẳng hạn như PC-Lint của Gimpel ra mắt lần đầu năm 1985, được sử dụng để phân tích mã nguồn C++, vẫn được mở bán cho đến ngày nay.
Tổng quan
Trong bài báo gốc vào năm 1978, Johnson đã trình bày lý do của ông khi tạo ra một chương trình riêng để phát hiện lỗi, khác biệt với chương trình mà nó phân tích: "...tự bản chất việc có hai chương trình là điều tốt..." [bởi vì chúng tập trung vào những thứ khác nhau, do đó cho phép lập trình viên] "tập trung vào một giai đoạn của quy trình lập trình chỉ trên các thuật toán, cấu trúc dữ liệu và tính chính xác của chương trình, và sau đó với sự trợ giúp của lint, họ có thể cải tiến thêm các đặc tính mong muốn về tính tổng quát và khả năng tương thích".
Các phiên bản linter tiếp theo
Các công cụ phân tích mã kiểu Lint cũng có thể thực hiện phân tích tương tự như trình biên dịch tối ưu, nhằm tạo ra mã chạy nhanh hơn. Mặc dù các trình biên dịch hiện đại đã tích hợp nhiều chức năng từng có trong Lint, nhưng các công cụ kiểu Lint cũng đã phát triển để phát hiện nhiều cấu trúc khả nghi hơn, bao gồm "cảnh báo về lỗi cú pháp, sử dụng biến chưa khai báo, gọi các hàm đã ngừng sử dụng, quy ước về khoảng cách và định dạng, sử dụng sai phạm vi, chuyển giao ngầm trong lệnh switch, thiếu header bản quyền, [và]... các tính năng ngôn ngữ nguy hiểm".
Các công cụ kiểu lint đặc biệt hữu ích cho các ngôn ngữ động như JavaScript và Python, vì trình biên dịch của các ngôn ngữ này thường không áp dụng nhiều quy tắc nghiêm ngặt trước khi thực thi, nên các linter cũng có thể được sử dụng như các công cụ gỡ lỗi đơn giản để các tìm lỗi thông thường (ví dụ: lỗi cú pháp) cũng như các lỗi khó tìm như heisenbugs. Các công cụ kiểu lint thường phân tích tĩnh mã nguồn trước khi thực thi để tìm kiếm lỗi tiếm ẩn.
Một số công cụ như Eslint cho phép tự động sửa các quy tắc. Mỗi quy tắc được định nghĩa kèm theo một phép chuyển đổi, giúp ngăn chặn quy tắc đó bị kích hoạt. Các quy tắc về phong cách thường đi kèm với tính năng tự động sửa. Khi chạy công cụ lint ở chế độ 'fix all' (sửa tất cả) trên một tập tin chỉ vi phạm các quy tắc về định dạng, nó sẽ hoạt động giống như một công cụ chuyên dùng để định dạng mã nguồn.
Xem thêm
Splint (công cụ lập trình)
Danh sách công cụ phân tích mã tĩnh
Tham khảo
Đọc thêm
Công cụ phân tích chương trình tĩnh
Phần mềm cho Unix
Phần mềm trước đây là độc quyền
Phần mềm sử dụng giấy phép BSD |
19853001 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BA%BFn%20ch%C6%B0a%20khai%20b%C3%A1o | Biến chưa khai báo | Một biến chưa khai báo (tiếng Anh: undefined variable) trong mã nguồn của một chương trình máy tính là một biến được sử dụng trong mã nguồn nhưng chưa được chương trình khai báo trước đó.
Một số ngôn ngữ lập trình sẽ tự động tạo khai báo cho biến khi lần đầu tiên gặp nó trong quá trình biên dịch. Ngược lại, ở một số ngôn ngữ khác, sử dụng biến chưa khai báo được coi là một lỗi nghiêm trọng, có thể khiến quá trình biên dịch bị dừng và trả về cảnh báo lỗi.
Một số ngôn ngữ lập trình ban đầu có tự động khai báo ngầm, nhưng về sau này chúng đã cung cấp tùy chọn để tắt tính năng này (ví dụ như "use warnings" trong Perl hoặc "Option Explicit" trong Visual Basic).
Ví dụ
Dưới đây là một số ví dụ về cách các ngôn ngữ lập trình khác nhau phản hồi lại biến chưa được khai báo.
CLISP
(setf y x)
trả về:
*** - EVAL: variable X has no value
C
int main() {
int y = x;
return 0;
}
trả về:
foo.c: In function `main':
foo.c:2: error: `x' undeclared (first use in this function)
foo.c:2: error: (Each undeclared identifier is reported only once
foo.c:2: error: for each function it appears in.)
JavaScript
ReferenceError chỉ xảy ra trong hai trường hợp: hoặc đoạn mã đã được chạy lại sau khi biến đã được khai báo bằng hoặc (không phải bằng ), hoặc đoạn mã đã được chạy trong strict mode (chế độ nghiêm ngặt). Trong các trường hợp khác, biến đó sẽ có giá trị đặc biệt là .
"use strict";
let y = x;
let y = x;
let x; // gây ra lỗi ở dòng 1
trả về:
ReferenceError: x is not defined
Source File: file:///c:/temp/foo.js
Lua
y = x
(không có lỗi, tiếp tục chạy)
print(y)
trả về:
nil
ML (Standard ML of New Jersey)
val y = x;
trả về:
stdIn:1.9 Error: unbound variable or constructor: x
MUMPS
Set Y=X
trả về:
<UNDEF>
OCaml
let y = x;;
trả về:
Unbound value x
Perl
my $y = ($x // 0) + 1; # toán tử hoặc
trả về:
(no error)
PHP 5
$y = $x;
(no error)
$y="";
$x="";
error_reporting(E_ALL);
$y = $x;
trả về
PHP Notice: Undefined variable: x in foo.php on line 3
Python 2.4
>>> x = y # trả về nội dung dưới đây:
Traceback (most recent call last):
File "<stdin>", line 1, in <module>
NameError: name 'y' is not defined
REXX
signal on novalue
y = x
trả về:
+++ Error 30 in line 2: Label not found
Ruby
irb(main):001:0> y = x
NameError: undefined local variable or method `x' for main:Object
from (irb):1
Tcl
% set y $x
can't read "x": no such variable
VBScript
Dim y
y = x
(không có lỗi)
Option Explicit
Dim y
y = x
trả về
(3, 1) Microsoft VBScript runtime error: Variable is undefined: 'x'
Tham khảo
Biến (khoa học máy tính)
Lỗi phần mềm |
19853006 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20Uy%E1%BB%83n%20%C4%90%C3%ACnh | Trần Uyển Đình | Trần Uyển Đình (; sinh ngày 7 tháng 10 năm 1988) là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá . Cô là huấn luyện viên trưởng hiện tại của Giang Tô L.F.C. Năm 2016, cô trở thành người phụ nữ đầu tiên huấn luyện một đội bóng đá chuyên nghiệp nam giành chức vô địch giải đấu hàng đầu quốc gia. Năm 2017, cô trở thành người phụ nữ đầu tiên huấn luyện một câu lạc bộ bóng đá nam ở một giải đấu hàng đầu châu lục khi dẫn dắt đội Đông Phương gặp Quảng Châu tại giải AFC Champions League.
Sự nghiệp
Vào tháng 12 năm 2015, cô được bổ nhiệm làm huấn luận viên Câu lạc bộ thể thao Đông Phương ở Giải bóng đá Ngoại hạng Hồng Kông, thay thế Dương Chính Quang. Cô là nữ huấn luyện viên đầu tiên của giải đấu.
Cô quan tâm đến bóng đá bởi sự ngưỡng mộ của cô khi còn là một thiếu niên đối với David Beckham. Cô tốt nghiệp Đại học Trung văn Hồng Kông ngành địa lý năm 2010 và nhận bằng thạc sĩ về khoa học thể thao và quản lý sức khỏe trong thời gian làm việc tại Pegasus và Southern. Bất chấp mong muốn ban đầu của cha mẹ, vị trí đầu tiên của cô sau khi tốt nghiệp đại học là nhà phân tích dữ liệu cho Hong Kong Pegasus FC (khi đó được gọi là TSW Pegasus FC). Trước khi gia nhập Câu lạc bộ bóng đá Đông Phương, cô từng làm trợ lý huấn luyện viên tại các câu lạc bộ ở Giải Ngoại hạng Hồng Kông là Pegasus FC và Khu Nam FC . Cô cũng giữ vai trò huấn luyện cho các đội bóng đá và futsal của hiệp hội bóng đã nữ quốc gia Hồng Kông, đồng thời chơi ở cấp câu lạc bộ không chuyên nghiệp cho một đội từ Sa Điền. Trong thời gian thi đấu cho Pegasus FC, cô đã dẫn dắt đội U18 của họ giành được 3 danh hiệu.
Cô đã dẫn dắt đội Đông Phương giành chức vô địch mùa giải 2015 -16, chỉ thua một trong mười lăm trận. Với chiến thắng của Đông Phương, cô trở thành người phụ nữ đầu tiên huấn luyện một đội bóng đá chuyên nghiệp nam giành chức vô địch giải đấu hàng đầu quốc gia.
Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 3 năm 2016, cô bày tỏ sự quan tâm đến việc quản lý các đội ở những nơi khác ở châu Á có nền văn hóa bóng đá lâu đời hơn, nhưng cô cũng hy vọng rằng thành công của mình sẽ thúc đẩy đầu tư vào bóng đá ở Hồng Kông.
Năm 2016, cô được chọn là một trong Top 100 Phụ nữ của BBC .
Năm 2017, cô trở thành người phụ nữ đầu tiên huấn luyện một câu lạc bộ bóng đá nam ở một giải đấu hàng đầu châu lục khi dẫn dắt Đông Phương gặp đội Quảng Châu ở AFC Champions League .
Cô từ chức vào tháng 5 năm 2017 với lý do căng thẳng, không giành được danh hiệu trong mùa giải 2016-17 và mong muốn hoàn thành các khóa học chứng chỉ huấn luyện chuyên nghiệp của mình.
Vào ngày 18 tháng 7 năm 2018, cô trở lại với vai trò huấn luyện viên trưởng của đội Đông Phương. Cô từ chức sau chưa đầy bảy tháng vào ngày 4 tháng 2 năm 2019 khi chỉ giành được một chiến thắng trong 10 trận đấu.
Danh dự
Chú thích
Tiền đạo bóng đá nữ
Sinh năm 1988
Nhân vật còn sống |
19853008 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BA%BF%20b%C3%A9o | Thuế béo | Thuế béo là một loại thuế hoặc phí được áp dụng lên các loại thức ăn, đồ uống gây béo phì hoặc đối với những cá nhân béo phì. Thuế béo được xem là một ví dụ về thuế Pigou. Mục đích của thuế béo nhằm hạn chế chế độ ăn uống không lành mạnh và giảm bớt tác động kinh tế của bệnh béo phì.
Mục tiêu của thuế béo là giảm thiểu việc tiêu thụ các loại thực phẩm gây ra béo phì. Một ý tưởng liên quan là đánh thuế lên các loại thực phẩm có liên quan đến việc gia tăng nguy cơ mắc bệnh bệnh tim mạch. Nhiều nghiên cứu cho thấy khi giá của một loại thực phẩm giảm, người tiêu dùng thường tăng cân. Thậm chí, hành vi ăn uống có thể phản ứng mạnh hơn với sự gia tăng giá cả hơn là giáo dục dinh dưỡng. Ước tính cho thấy rằng một thuế 1 xu cho mỗi ounce đồ uống có đường có thể làm giảm việc tiêu thụ những đồ uống này 25%. Tuy nhiên, cũng có bằng chứng cho thấy những người béo phì ít phản ứng hơn với sự thay đổi giá cả của thức ăn so với những người có cân nặng bình thường.
Để thực hiện thuế béo, cần xác định rõ sản phẩm thực phẩm và đồ uống nào sẽ bị đánh thuế. Điều này cần được thực hiện cẩn thận, vì một loại thuế thực phẩm được chọn lọc không cẩn thận có thể có những hiệu ứng không mong muốn và trớ trêu. Ví dụ, các mẫu tiêu thụ cho thấy rằng việc đánh thuế chất béo no sẽ buộc người tiêu dùng tăng hàm lượng muối, do đó họ đặt mình vào nguy cơ tử vong liên quan đến tim mạch cao hơn. Đề xuất hiện nay thường lựa chọn đồ uống có đường là mục tiêu cho việc đánh thuế. Các nghiên cứu cắt ngang, tiềm năng và thực nghiệm đã tìm thấy mối liên giữa béo phì và việc tiêu thụ đồ uống có đường. Tuy nhiên, các nghiên cứu thực nghiệm không phải lúc nào cũng tìm thấy mối liên này và mức độ ảnh hưởng có thể rất nhỏ.
Vì người nghèo chi tiêu tỷ lệ lớn hơn thu nhập của họ vào việc mua thực phẩm, thuế béo có thể là một loại thuế lũy thoái. Đánh thuế các loại thực phẩm chỉ cung cấp chủ yếu ca-lo với ít giá trị dinh dưỡng khác sẽ giảm bớt vấn đề này, vì ca-lo có sẵn từ nhiều nguồn trong chế độ ăn của các quốc gia công nghiệp hóa. Để giảm bớt gánh nặng của thuế béo đối với người nghèo, những người ủng hộ đề xuất sử dụng doanh thu từ thuế để hỗ trợ chế độ ăn uống lành mạnh và giáo dục về sức khỏe. Ngoài ra, những người ủng hộ cũng cho rằng thuế béo sẽ không quá chịu ảnh hưởng tiêu cực nếu nó giúp giảm chi phí y tế và chi tiêu cho các loại thực phẩm dành cho người nghèo.
Khác với việc đặt giới hạn đối với các loại thực phẩm hoặc thành phần, thuế béo sẽ không hạn chế sự lựa chọn của người tiêu dùng, chỉ thay đổi giá cả tương đối.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Rudd Center for Food Policy and Obesity at Yale University
Y tế công cộng |
19853017 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Happ%C5%8D%2C%20Akita | Happō, Akita | là thị trấn thuộc huyện Yamamoto, tỉnh Akita, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 6.577 người và mật độ dân số là 28 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 234,1 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Akita
Noshiro
Fujisato
Aomori
Ajigasawa
Fukaura
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Akita |
19853028 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Oshamambe%2C%20Hokkaid%C5%8D | Oshamambe, Hokkaidō | là thị trấn thuộc huyện Yamakoshi, phó tỉnh Oshima, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị là 5.109 người và mật độ dân số là 16 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 310,8 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Oshima
Yakumo
Hiyama
Imakane
Shiribeshi
Kuromatsunai
Shimamaki
Iburi
Toyoura
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō |
19853037 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Zafrona%20dentata | Zafrona dentata | Zafrona dentata là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Columbellidae.
Phân bố
Loài sinh vật biển này xuất hiện ngoài khơi của Madagascar.
Tham khảo
Perugia, I. (2023). New Zafrona from South Madagascar. Malacologia Mostra Mondiale. 118: 19-20
dentata
Động vật được mô tả năm 2023 |
19853040 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Volvarina%20vinosa | Volvarina vinosa | Volvarina vinosa là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Marginellidae.
Phân bố
Loài sinh vật biển này phân bố ở Đại Tây Dương, ở ngoài khơi Đông Bắc Brasil.
Tham khảo
Pereira de Queiroz, G. & Crabos, O. (2023). Description of a new Volvarina (Volutoidea: Marginellidae) from North-East Brazil. Xenophora Taxonomy. 38: 14–16.
vinosa
Động vật được mô tả năm 2023 |
19853043 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Than%20sinh%20h%E1%BB%8Dc | Than sinh học | Than sinh học là chất cặn màu đen và nhẹ còn sót lại sau quá trình chưng khô sinh khối, gồm chủ yếu carbon và tro, và là một kiểu than củi. Tổ chức Sáng kiến Than sinh học Quốc tế định nghĩa than sinh học là "vật liệu rắn thu được từ quá trình biến đổi nhiệt hóa sinh khối trong môi trường thiếu oxy". Than sinh học là vật liệu bền vững, chứa nhiều carbon chưng khô và có thể tồn tại trong đất hàng nghìn năm.
Tính ổn định chịu nhiệt của than sinh học cho phép phát triển kỹ thuật thu hồi và lưu trữ carbon chưng khô (PyCCS),, tạo nên vai trò quan trọng của than sinh học trong cô lập carbon. Đây là một phương án cô lập carbon tốn ít công sức, có tiềm năng thực hiện ở quy mô lớn với chi phí thấp, đóng góp hiệu quả cho giảm thiểu biến đổi khí hậu. Theo một báo cáo năm 2023, cô lập carbon bằng than sinh học và năng lượng sinh học kết hợp thu nạp và lưu trữ carbon là hai kỹ thuật chủ đạo trong cô lập carbon bằng công nghệ mới (tuy rằng các phương pháp truyền thống, như trồng rừng, vẫn đóng góp tuyệt đại đa số trong lượng carbon đã thu hồi được).
Than sinh học có thể làm tăng độ phì nhiêu của đất chua và tăng năng suất nông nghiệp. Than sinh học chủ yếu được sử dụng để bón vào đất và được biết là có tác dụng cải thiện khả năng cung cấp dinh dưỡng của đất, thông khí trong đất và lọc nước trong đất. Ngoài ra nó cũng còn dùng để làm chất đốt, chất giữ nước, làm phụ gia thức ăn gia súc, và phụ gia bê tông. Tuy nhiên, khi được dùng để bón cho đất, cũng cần xem xét các hiệu ứng không mong muốn, ví dụ như làm xáo trộn độ pH của đất, hoặc các đặc tính hóa học thể gây hại ở cấp độ vi mô.
Xem thêm
Than hoạt tính
Tham khảo
Loại bỏ carbon dioxide
Kỹ thuật khí hậu
Than củi
Chất cải tạo đất |
19853050 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Uchinada%2C%20Ishikawa | Uchinada, Ishikawa | là thị trấn thuộc huyện Kahoku, tỉnh Ishikawa, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 26.574 người và mật độ dân số là 1.300 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 20,33 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Ishikawa
Kanazawa
Kahoku
Tsubata
Tham khảo
Thị trấn của Ishikawa |
19853053 | https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%202006%20%E2%80%93%20Khu%20v%E1%BB%B1c%20Nam%20M%E1%BB%B9 | Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 – Khu vực Nam Mỹ | Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 – Khu vực Nam Mỹ là một phần của Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006, được tổ chức nhằm chọn ra các đội bóng đến từ khu vực Nam Mỹ tham dự FIFA World Cup 2006.
Thể thức
10 đội bóng là thành viên của FIFA và CONMEBOL thi đấu vòng tròn hai lượt sân nhà và sân khách. 4 đội đứng đầu giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006, đội đứng thứ năm đá play-off liên lục địa với đại diện đến từ Liên đoàn bóng đá châu Đại Dương (OFC).
Lần đầu tiên, đội đương kim vô địch FIFA World Cup () phải tham dự vòng loại mà không được vào thẳng như trước đây.
Bảng xếp hạng
Brasil, Argentina, Ecuador và Paraguay đủ điều kiện tham dự FIFA World Cup 2006.
Uruguay lọt vào vòng play-off liên lục địa.
Kết quả
Vòng 1
Vòng 2
Vòng 3
Vòng 4
Vòng 5
Vòng 6
Vòng 7
Vòng 8
Vòng 9
Vòng 10
Vòng 11
Vòng 12
Vòng 13
Vòng 14
Vòng 15
Vòng 16
Vòng 17
Vòng 18
Vòng play-off liên lục địa
Đội đứng thứ năm () gặp đội thắng ở khu vực châu Đại Dương () ở hai lượt trận sân nhà và sân khách. Đội thắng chung cuộc sẽ giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006.
Các đội vượt qua vòng loại
Dưới đây là danh sách 4 đội bóng Nam Mỹ giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006.
1 In đậm chỉ năm vô địch. In nghiêng chỉ năm là nước chủ nhà.
Cầu thủ ghi bàn
Có 236 bàn thắng được ghi trong 92 trận đấu (bao gồm 2 trận play-off liên lục địa), trung bình 2,57 bàn thắng/trận.
10 bàn
Ronaldo
7 bàn
Hernán Crespo
José Cardozo
Jefferson Farfán
6 bàn
Adriano
Diego Forlán
Ruberth Morán
5 bàn
Joaquín Botero
José Alfredo Castillo
Kaká
Agustín Delgado
Edison Méndez
Javier Chevantón
4 bàn
Ronaldinho
Juan Pablo Ángel
Roque Santa Cruz
Nolberto Solano
Juan Arango
3 bàn
Pablo Aimar
Luciano Figueroa
Juan Román Riquelme
Mauricio Pinilla
Tressor Moreno
Luis Gabriel Rey
Antonio Valencia
Carlos Gamarra
Carlos Humberto Paredes
Marcelo Zalayeta
Giancarlo Maldonado
2 bàn
Juan Pablo Sorín
Luis Cristaldo
Limberg Gutiérrez
Roberto Carlos
Robinho
Luis Fuentes
Luis Antonio Jiménez
Milovan Mirošević
Reinaldo Navia
Freddy Grisales
Frankie Oviedo
Víctor Pacheco
John Restrepo
Elkin Soto
Marlon Ayoví
Ulises de la Cruz
Paolo Guerrero
Andrés Mendoza
Jorge Soto
Carlos Bueno
José Torrealba
Gabriel Urdaneta
1 bàn
Fabricio Coloccini
Andrés D'Alessandro
César Delgado
Luciano Galletti
Kily González
Lucho González
Mauro Rosales
Javier Saviola
Javier Zanetti
Julio César Baldivieso
Gonzalo Galindo
Roger Suárez
Doyle Vaca
Joselito Vaca
Emerson
Juan
Luís Fabiano
Juninho
Rivaldo
Zé Roberto
Mark González
Sebastián González
Rodrigo Meléndez
Arturo Norambuena
Ricardo Francisco Rojas
Marcelo Salas
Moisés Villarroel
Martín Arzuaga
Sergio Herrera
Edixon Perea Valencia
Mario Yepes
Giovanny Espinoza
Iván Kaviedes
Christian Lara
Franklin Salas
Carlos Tenorio
Julio César Cáceres
Diego Gavilán
Gustavo Morínigo
Jorge Martín Núñez
Nelson Valdez
Salvador Cabañas
Santiago Acasiete
Claudio Pizarro
Gustavo Vassallo
Nelson Abeijon
Paolo Montero
Álvaro Recoba
Mario Regueiro
Cristian Rodríguez
Darío Rodríguez
Adrián Romero
Héctor González
José Manuel Rey
Leonel Vielma
1 own goal
Hermán Solíz (against Ecuador)
Gilberto Silva (against Uruguay)
Luis Guadalupe (against Argentina)
Alejandro Cichero (against Bolivia)
José Manuel Rey (against Argentina)
Chú thích
Xem thêm
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2010 – Khu vực Nam Mỹ
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 – Khu vực Nam Mỹ
Tham khảo
Bóng đá Nam Mỹ năm 2003
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2006
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới khu vực Nam Mỹ |
19853054 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Nonoichi%2C%20Ishikawa | Nonoichi, Ishikawa | là thành phố thuộc tỉnh Ishikawa, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thành phố là 57.238 người và mật độ dân số là 4.200 người/km2. Tổng diện tích thành phố là 13,56 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Ishikawa
Kanazawa
Hakusan
Tham khảo
Thành phố của Ishikawa |
19853057 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A2n%20v%C6%B0%C6%A1ng%20qu%E1%BB%91c%20Eichst%C3%A4tt | Thân vương quốc Eichstätt | Thân vương quốc Eichstätt (tiếng Đức: Fürstentum Eichstätt) là một thân vương quốc trung gian hoá nằm trong Vương quốc Bayern, tồn tại từ năm 1817 đến năm 1833, lãnh thổ của nó bao gồm một khu vực xung quanh Eichstätt với khoảng 24.000 cư dân. Chủ sở hữu của thân vương quốc là Công tước xứ Leuchtenberg dưới quyền gia tộc Beauharnais gốc Pháp, khởi đầu từ Eugène de Beauharnais, con nuôi của Hoàng đế Napoleon I và con rể của Vua Maximilian I Joseph của Bayern. Năm 1833, Triều đình Bayern mua lại Thân vương quốc với mức giá 3 triệu Gulden.
Lịch sử
Eugène de Beauharnais, con riêng của Hoàng hậu Joséphine de Beauharnais, vợ đầu của Hoàng đế Napoléon I và là con rể của Maximilian I Joseph của Bayern, ông được phong tước Công tước xứ Leuchtenberg và Thân vương xứ Eichstätt thông qua giấy chứng nhận của hoàng gia ngày 14 tháng 11 và tuyên bố của hoàng gia ngày 15 tháng 11 năm 1817. Ông nhận tước hiệu công tước mà không có bất kỳ mối liên hệ nào với tài sản; Việc thành lập một Thân vương quốc mới "trong khu vực Eichstädt" bao gồm tài sản, lương hưu và các quyền được thực hiện bởi ủy viên hoàng gia, ủy viên hội đồng chính phủ Carl Joseph Hartmann. Từ đó trở đi, Thân vương tại kinh đô Munich và tại Lâu đài Ismaning (dinh thự mùa hè) cho đến khi qua đời vào năm 1824. Ông chỉ đến thăm Thân vương quốc của mình với nơi cư trú ở Eichstätt một vài lần, đặc biệt là để thỏa mãn niềm đam mê săn bắn trong những khu rừng rộng lớn của lãnh thổ này.
Con trai của ông là Auguste de Beauharnais, Công tước thứ 2 xứ Leuchtenberg, đã đàm phán để triều đình Bayern mua lại Thân vương quốc Eichstätt từ năm 1832 vì lý do kinh tế. Năm 1833, Vương quốc Bayern đã mua lại thân vương quốc. Năm 1855, Bayenr cuối cùng đã mua được tài sản còn lại của những người thừa kế Leuchtenberg với giá 3 triệu guilders.
Các thân vương xứ Eichstätt
Eugène de Beauharnais (1781–1824), Công tước thứ nhất xứ Leuchtenberg năm 1817.
Auguste de Leuchtenberg (1810–1835), Công tước thứ 2 xứ Leuchtenberg kể từ năm 1824, con trai của Eugène de Beauharnais và vương nữ Auguste của Bayern.
Liên kết ngoài
Hofstetten castle (de)
Fürstentum Eichstätt 1817–1833 in Historischer Atlas von Bayern (de)
Cựu quốc gia châu Âu
Cựu thân vương quốc
Eichstätt
Lịch sử Bayern |
19853068 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Mikhail%20Viktorovich%20Zudenkov | Mikhail Viktorovich Zudenkov | Mikhail Viktorovich Zudenkov (; sinh ngày 13 tháng 4 năm 1970) là một cựu cầu thủ bóng đá Nga.
Tham khảo
Sinh năm 1970
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Liên Xô
Cầu thủ bóng đá FShM
Cầu thủ bóng đá FK Presnya Moskva
Cầu thủ bóng đá nam Nga
Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Nga
Tiền đạo bóng đá nam
Tiền vệ bóng đá nam |
19853070 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Vadim%20Valentinovich%20Zudilin | Vadim Valentinovich Zudilin | Vadim Valentinovich Zudilin () là một nhà toán học và lý thuyết số người Nga. Ông theo học Yuri V. Nesterenko và làm việc tại Đại học Quốc gia Moskva, Viện Toán học Steklov, Viện Toán học Max Planck và Đại học Newcastle, Úc. Hiện ông làm việc tại Đại học Radboud Nijmegen, Hà Lan.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Wadim Zudilin's homepage
Wadim Zudilin's research profile
Wadim Zudilin's list of published works
Nhà toán học Nga
Nhà lý thuyết số
Nhân vật còn sống
Giảng viên Đại học Quốc gia Moskva
Giảng viên Đại học Newcastle (Úc)
Giảng viên Đại học Radboud Nijmegen
Năm sinh thiếu (nhân vật còn sống) |
19853071 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Chilpancingo%20de%20los%20Bravo%20%28khu%20%C4%91%C3%B4%20th%E1%BB%8B%29 | Chilpancingo de los Bravo (khu đô thị) | Chilpancingo de los Bravo là một khu đô thị thuộc bang Guerrero, México. Trung tâm là thành phố Chilpancingo de los Bravo.
Địa lý
Khu đô thị nằm trong dãy Sierra Madre del Sur, diện tích là .
Tính đến năm 2005, dân số khu đô thị là 214.219 người.
Thành phố và làng mạc
Khu đô thị có 114 địa phương. Những đơn vị hành chính lớn nhất là:
Ghi chú
Tham khảo
Đô thị bang Guerrero
Nguồn CS1 tiếng Tây Ban Nha (es)
Tọa độ trên Wikidata |
19853075 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Maurice%20Revello%20Tournament | Maurice Revello Tournament | Giải đấu Maurice Revello (chính thức tiếng Pháp: Festival International "Espoirs" – Tournoi Maurice Revello ), trước đây gọi là Giải đấu Toulon , là một giải đấu bóng đá , theo truyền thống có các đội tuyển quốc gia được mời gồm các cầu thủ trẻ từ U-17 đến U-23 mức độ. Mặc dù giải đấu đầu tiên diễn ra vào năm 1967 có sự góp mặt của các đội câu lạc bộ, nhưng nó đã bị giới hạn ở các đội tuyển quốc gia kể từ năm 1975 (ngoại trừ năm 1986 và
1989 khi INF Vichy được mời). Giải đấu được tổ chức quanh Provence-Alpes-Côte d'Azur , với trận chung kết thường được tổ chức ở Toulon . Giải đấu được đổi tên để vinh danh Maurice Revello , người bắt đầu giải đấu vào năm 1967 và qua đời vào năm 2016.
Lịch sử
Giải đấu Toulon là giải đấu không được tổ chức dưới sự giám sát của FIFA hay một hiệp hội quốc gia riêng lẻ nào. Vì vậy, nó được coi là giải đấu danh giá nhất trong tất cả các giải đấu giao hữu có sự tham gia của các đội trẻ và được coi là giải vô địch thế giới không chính thức trước khi FIFA giới thiệu Giải vô địch trẻ thế giới chính thức vào năm 1977. Mặc dù đã thành lập FIFA U-20 World Cup và sau đó Tuy nhiên , FIFA U-17 World Cup , Giải Toulon vẫn là giải đấu quan trọng đối với các đội bóng trẻ.
Quy tắc
Giải đấu Toulon thường được diễn ra với hai hiệp, mỗi hiệp 40 phút. Vào năm 2019, mỗi trận đấu bao gồm hai hiệp, mỗi hiệp 45 phút. Trong một trận đấu, mỗi đội có 11 cầu thủ dự bị được nêu tên và số lần thay người tối đa được phép là 4.
Ở vòng loại trực tiếp, nếu trận đấu hòa vào cuối thời gian quy định, hiệp phụ sẽ không được thi đấu và loạt sút luân lưu được sử dụng để xác định đội thắng.
Kết quả
Thống kê
Hiệu suất theo quốc gia [ chỉnh sửa ]
Thành tích của liên đoàn [ chỉnh sửa ]
Giải thưởng
Xem thêm
Cúp Nữ Sud
Cơn lốc xoáy Viareggio
Đài tưởng niệm Granatkin
Giải đấu tưởng niệm Valeriy Lobanovskyi
Giải đấu bốn quốc gia dưới 20 tuổi
Giải đấu dưới 20 tuổi
Torneo delle Nazioni
Giải U-19 nữ quốc tế mùa xuân Kuban
Ghi chú
^ Giải đấu năm 1967 là giải đấu đầu tiên và duy nhất không có sự góp mặt của các đội tuyển quốc gia
^ Phiên bản năm 1975 là giải đấu đầu tiên chỉ có các đội tuyển quốc gia, trở thành thể thức hiện tại
^ Giải đấu năm 2020 dự kiến được tổ chức từ ngày 1 đến ngày 14 tháng 6 nhưng nó đã bị hoãn vô thời hạn vào tháng 4 và bị hủy vào ngày 24 tháng 10.
^ Giải đấu năm 2021 dự kiến được tổ chức từ ngày 30 tháng 5 đến ngày 13 tháng 6 nhưng đã bị hoãn vô thời hạn vào tháng 4 và bị hủy vào tháng 11.
^ Bao gồm Liên Xô
^ Bao gồm Nam Tư
^ Bao gồm Tiệp Khắc
^ Bao gồm Tây và Đông Đức
^Nhảy lên:a b Chơi choSlovan Bratislava
^ Chơi cho Anderlecht
^ Chơi cho Hạt Derby
^ Chơi cho INF Vichy
Tài liệu tham khảo
^Nhảy lên:ab Garin
^
^
^
Liên kết bên ngoài
Trang web chính thức
RSSSF
Thể loại :
Giải đấu Maurice Revello
Giải đấu bóng đá hiệp hội quốc tế tổ chức bởi Pháp
Giải đấu bóng đá của hiệp hội thanh niên dành cho các đội quốc tế
Thể thao ở Toulon
Thể thao ở Var (sở) |
19853076 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn%20%C4%91o%C3%A0n%20Karate%20Th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi | Liên đoàn Karate Thế giới | Liên đoàn Karate Thế giới (WKF) [tiếng Anh: World Karate Federation] là tổ chức quốc tế điều hành và quản lý cho môn võ karate trên toàn thế giới. WKF được thành lập vào năm 1990 và có trụ sở tại Madrid, Tây Ban Nha. Tổ chức này là cơ quan điều hành chính thức của karate trong hệ thống thể thao quốc tế.
Lịch sử
WKF được thành lập vào ngày 10 tháng 10 năm 1990 tại Madrid, Tây Ban Nha. Mục đích chính của tổ chức là thúc đẩy và phát triển môn võ karate trên toàn thế giới, đồng thời giám sát các hoạt động liên quan đến karate trên phạm vi quốc tế. WKF là người đứng đầu của tất cả các tổ chức karate quốc tế khác và là cơ quan chính thức đại diện cho karate tại các sự kiện thể thao quốc tế.
Hoạt động
WKF tổ chức và giám sát nhiều sự kiện và giải đấu karate quốc tế hàng năm, bao gồm:
- Giải Vô địch Karate Thế giới (World Karate Championships): Là giải đấu hàng năm được tổ chức bởi WKF, thu hút sự tham gia của các võ sĩ từ khắp nơi trên thế giới. Giải này bao gồm các cuộc thi kumite và kata cho cả nam và nữ ở nhiều độ tuổi và hạng cân khác nhau.
- Giải Karate Premier League: Là chuỗi các giải đấu có điểm tích lũy điểm số cho các võ sĩ, giúp họ đạt được vị trí cao hơn trong bảng xếp hạng thế giới.
- Các giải đấu châu lục: WKF cũng tổ chức các giải đấu châu lục, như Giải Karate Châu Âu, Giải Karate Châu Á, và nhiều giải khác, nhằm thúc đẩy sự phát triển của karate trên mỗi khu vực.
Các vấn đề quản lý
WKF có trách nhiệm đề xuất và thực thi các quy định, quy tắc và nguyên tắc thi đấu cho karate trên toàn thế giới. Nó cũng chịu trách nhiệm về việc công nhận các tổ chức karate quốc gia và các cơ quan quản lý karate tại mỗi quốc gia.
Đối tác và hợp tác
WKF hợp tác chặt chẽ với các tổ chức thể thao quốc tế khác, như Liên đoàn Olympic Quốc tế (IOC) và Tổ chức Thể thao quốc tế (GAISF), để thúc đẩy và bảo vệ karate như một môn thể thao Olympic.Xem thêm
Trang web chính thức và thông tin thêm về Karate
- [Trang web chính thức của WKF](https://www.wkf.net/)
- [Karate trên Wikipedia Tiếng Việt](https://vi.wikipedia.org/wiki/Karate)
Kumite
Kata, Karate
Kihon
Karate
Tổ chức thể thao |
19853077 | https://vi.wikipedia.org/wiki/SK%20Gaming | SK Gaming | SK Gaming là 1 tổ chức thể thao điện tử chuyên nghiệp có trụ sở tại Đức có các đội trên khắp thế giới thi đấu ở các giải đấu khác nhau. SK đặc biệt được biết đến với thành công trong các giải đấu Counter-Strike (CS). Đội CS Brazil của SK đã vô địch Major ESL One Cologne 2016. SK hiện có các tuyển thủ và các đội thi đấu Liên Minh Huyền Thoại và Hearthstone. SK Gaming được thành lập vào năm 1997 bởi một nhóm nhỏ người chơi Quake ở Oberhausen.
Lịch sử
Khởi đầu
Schroet Kommando được thành lập vào năm 1997 với tư cách là 1 nhóm chơi Quake ở Đức bởi bốn anh em và ba người bạn ở Oberhausen. Đội hình ban đầu của Schroet Kommando bao gồm Ralf "Griff" Reichert, Daniel "Godlike" Beames, Tim "Burke" Reichert, Benjamin "Kane" Reichert, Kristof "Speed" Salwiczek, Carsten " Storch" Kramer và Sven "Ramses" Tümmers. Theo Ralf Reichert, tên ban đầu của tổ chức bắt nguồn từ việc một trong các thành viên liên tục hét lên "Schröt!", âm thanh phổ biến bất cứ khi nào súng ngắn hai nòng được sử dụng, bản dịch có nghĩa là "mảnh đạn". Cuối cùng, nhóm đã lấy tên này làm tên của họ, do đó trở thành "Schroet Kommando". Kể từ đó, tổ chức bắt đầu sử dụng tên viết tắt của họ thường xuyên hơn, cho đến khi nó trở thành SK Gaming.
Ban đầu, ngôi nhà của gia đình Beames hoạt động như trụ sở chính của Schroet Kommando, tập trung chủ yếu vào Quake. Ngay từ đầu, Schroet Kommando đã trở thành một trong những tổ chức đầu tiên có đội toàn nữ; trong đó đáng chú ý nhất là Annemarie "XS" Warnkross, người sau này trở thành người dẫn chương trình nổi tiếng trên truyền hình Đức. Tổ chức đã mở rộng đội sang bộ môn Counter-Strike, nơi SK được biết đến như một trong những đội thành công nhất trên toàn nước Đức. Vào tháng 9 năm 2001, Andreas "bds" Thorstensson đã cách mạng hóa thể thao điện tử bằng cách để SK đóng vai trò là tổ chức đầu tiên cung cấp các dịch vụ cao cấp phải trả tiền ("SK Insider", một thị trường ảo trong đó người đăng ký có thể tải xuống các bản demo (bản phát lại), bản mod và tiện ích bổ sung tốt hơn và sớm hơn những người khác, hãy nói chuyện trực tiếp với các game thủ SK, v.v.). Thành công Counter-Strike quốc tế của tổ chức đến khi họ ký hợp đồng với tổ chức Counter-Strike Thụy Điển, Ninjas in Pyjamas thành công. Năm 2003, SK Gaming trở thành tổ chức thể thao điện tử đầu tiên ký hợp đồng với người chơi, bắt đầu với đội SK Thụy Điển Counter-Strike.
Liên Minh Huyền Thoại
Riot Games đã thông báo vào ngày 20 tháng 11 năm 2018 rằng SK Gaming sẽ là một trong mười đối tác nhượng quyền tham gia League of Legends European Championship (LEC). Vào ngày 20 tháng 12 năm 2018, tổ chức này thông báo họ đã ký hợp đồng với người đi đường trên Jorge "Werlyb" Casanovas Moreno-Torres, người đi rừng Oskar "Selfmade" Boderek, người đi đường giữa Choi "Pirean" Jun-sik, người đi đường dưới Jus "Crownshot" Marusic và hỗ trợ Han " Dreams" Min-kook cho đội hình xuất phát của họ tại LEC Mùa Xuân 2019.
Đội hình hiện tại
Tham khảo
Chú thích
Khởi đầu năm 1997 ở Đức |
19853078 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Screaming%20for%20Vengeance | Screaming for Vengeance | Screaming for Vengeance là album phòng thu thứ tám của ban nhạc heavy metal người Anh Judas Priest, được hãng Columbia Records phát hành vào tháng 7 năm 1982. Đây được xem là tác phẩm gây đột phá về mặt thương mại của ban nhạc tại Bắc Mỹ, giành được cú đúp đĩa bạch kim tại Hoa Kỳ và đĩa bạch kim ở Canada. Screaming for Vengeance đã cho ra các bài hit "You've Got Another Thing Comin'" và "Electric Eye" - những bài này trở thành các ca khúc trứ danh của ban nhạc và nhận được sự yêu thích của thính giả lâu năm trên đài phát thanh.
Thu âm và phát hành
Screaming for Vengeance được thu âm tại Ibiza Sound Studios, Ibiza, Tây Ban Nha (trong thời gian này, nơi đây thường được các nhạc sĩ của Anh chọn để thu âm tại châu Âu đại lục nhằm né thuế). Phần trộn âm và ghi đè được thực hiện ở Beejay Recording Studios (Orlando, Florida) và Bayshore Recording Studios (Coconut Grove, Florida).
Tác phẩm thể hiện thứ âm thanh nặng và thô hơn British Steel và cho thấy quay ngược về dòng heavy rock trực diện sau đĩa nhạc giàu giai điệu Point of Entry. Album còn đánh dấu lần đầu một tay trống góp mặt trong hai album của Judas Priest trở lên, với Dave Holland tham gia thu cả British Steel lẫn Point of Entry.
Bài gặt hái thành công thương mại tốt nhất từ album là "You've Got Another Thing Comin'" được bổ sung vào phút chót. Theo tay guitar K. K. Downing chia sẻ: "Chúng tôi khá hài lòng với album [này], song lúc giờ chót thì quyết định rằng có thể thêm một bài hát nữa. Tôi biết là chúng tôi đã có một số chỗ, song chúng tôi chọn hoàn tất "Another Thing Comin trong các buổi ghi nháp ở Bee Jay studios. Bài hát hình thành khá là nhanh, và dường như tôi nhớ là chúng tôi đều thấy bài đó thật tuyệt, vì nó nghe như một bài chi phối mạnh mẽ và hiệu quả, có thể là một bài tuyệt vời để lên sóng phát thanh." Rob Halford thì bày tỏ sự ngạc nhiên trước thành công của ca khúc: "bài đó đã bị cất đi. Thông thường những bài bạn nghĩ sẽ làm nên chuyện nằm ở mặt trước của đĩa nhạc. Song bạn bè chúng tôi ở Sony nói: 'Chúng ta sẽ chọn bài hát này.' Và thực sự chúng tôi chả hiểu chuyện gì đang xảy ra. Thế rồi phản ứng lại tốt ngoài mong đợi: 'Ê, đĩa nhạc đang gây sốt khắp nơi kìa, nó thành công rồi."
Screaming for Vengeance được phát hành vào tháng 7 năm 1982, với đĩa CD đã qua hậu kiểm được phát hành vào tháng 7 năm 2001. "Fight for Your Life" (được thu trong các buổi ghi nháp của Screaming for Vengeance) bị lược bỏ, song sau được tái xử lý thành ca khúc "Rock Hard Ride Free" ở album kế tiếp Defenders of the Faith. Bản gốc được trình làng dưới dạng bài tặng kèm cho phiên bản hậu kiểm năm 2001 của đĩa Killing Machine (1978). Tính đến dịp kỷ niệm 30 năm ra đời album vào năm 2012, đây vẫn là đĩa nhạc bán chạy nhất sự nghiệp của Judas Priest'. Để mừng dịp kể trên, một đĩa CD đã qua hậu kiểm được phát hành, tặng kèm các bài ghi trực tiếp năm 1982 và đĩa DVD ghi lại tiết mục của ban nhạc từ nhạc hội US Festival 1983.
Lưu diễn
World Vengeance Tour khởi động ngay sau ngày phát hành album vào tháng 7 năm 1982 và tập trung các điểm đến ở Bắc Mỹ vào mùa hè và mùa thu, mãi đến tháng 12 năm 1983 thì Priest mới trình diễn ở châu Âu. Hành động chú trọng đến khán giả Mỹ là để xây dựng chỗ đứng thương mại vững chắc ở thị trường này, đặc biệt vì "You've Got Another Thing Comin trở thành một bài hit lớn. Bài đó và "Electric Eye" là những bài chốt trong danh sách tiết mục và nằm trong số những bài mà ban nhạc trình diễn nhiều nhất. "Devil's Child" cũng được trình bày ở nhiều tour từ 1982 đến 2008, còn "Riding on the Wind", "Bloodstone" và bài tiêu đề cũng có tên trong danh sách tiết mục của nhiều tour. Để so sánh, "Fever" chỉ được trình bày ở hai show đầu tiên vào năm 1982, "(Take These) Chains" chỉ xuất hiện trong danh sách tiết mục vào năm 2019, trong khi "Pain and Pleasure" và bài nhạc khí "The Hellion" chưa bao giờ được trình bày trực tiếp (dẫu bản thu bài hát thường được bật trước tiết mục "Electric Eye").
Đón nhận
Trong khi British Steel (1980) được xem là tuyệt tác của ban nhạc, thì Screaming for Vengeance lại là tác phẩm gây đột phá của Judas Priest ở thị trường Bắc Mỹ. Dẫu cho ban nhạc đã sở hữu lượng người hâm mộ tín đồ là khán giả Mỹ vào năm 1979 và có thể đứng diễn chính ở tour của riêng họ, nhóm lại tiêu thụ "tương đối ít" đĩa nhạc trước khi Screaming for Vengeance ra đời. Đĩa nhạc cũng cực kỳ thành công trên toàn thế giới.
Biểu diễn thương mại
Screaming for Vengeance giành vị trí số 11 trên UK Albums Chart và thứ 17 trên US Billboard 200 Pop Albums. Đĩa nhạc giành được chứng nhận vàng của RIAA vào ngày 29 tháng 10 năm 1982, bạch kim vào ngày 18 tháng 4 năm 1983, và 2× đĩa bạch kim vào ngày 16 tháng 10 năm 2001.
Giải thưởng
Album được liệt ở hạng 15 trong danh sách 25 album nhạc metal giàu ảnh hưởng nhất của IGN. Screaming for Vengeance còn giật vị trí số 10 trong danh sách 100 album nhạc metal hay nhất của Metal-Rules.com. Kerrang! liệt album ở hạng 46 trong "100 album heavy metal hay nhất mọi thời đại". Năm 2017, đĩa nhạc đứng thứ 12 trong danh sách "100 album nhạc metal hay nhất mọi thời đại" của Rolling Stone. Năm 2022, Screaming for Vengeance xếp thứ hai trong danh sách '25 album guitar rock hay nhất năm 1982' của Guitar World.
Trong văn hóa đại chúng
"You've Got Another Thing Comin có mặt ở dạng bài chơi được trong trò chơi video Guitar Hero. "Electric Eye" (cùng với bài đi kèm là "The Hellion") cũng là những bài chơi được trong Guitar Hero Encore: Rocks the 80s và Guitar Hero Smash Hits. Toàn bộ album được lần đầu pahts hành dưới dạng nội dung nhạc số cho trò chơi video Rock Band và Rock Band 2.
Bài tiêu đề "Screaming for Vengeance" được bật trên miền chính của trò chơi video Brütal Legend. Trong trò chơi, Rob Halford lồng tiếng phản diện tên là Tướng Lionwhyte, cũng như nhân vật anh hùng tên là Fire Baron (phỏng theo chính anh). Bài "You've Got Another Thing Comin có mặt trong trò chơi video Grand Theft Auto: Vice City (2002) - nằm trong trạm phát thanh V-Rock, còn "Electric Eye" cũng có mặt trên trạm phát thanh ấy trong trò chơi video tiền truyện Grand Theft Auto: Vice City Stories (2006). Bài hát "Riding on the Wind" thì có mặt trong trò chơi video Twisted Metal (2012).
Danh sách ca khúc
Bản phát hành gốc
DVD trực tiếp bản kỷ niệm 30 năm
Xếp hạng
Chứng nhận
Chú thích
Liên kết ngoài
Extensive album info
Album của Columbia Records
Album năm 1982
Album của Judas Priest
Album sản xuất bởi Tom Allom |
19853079 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Cirripectes%20stigmaticus | Cirripectes stigmaticus | Cirripectes stigmaticus là một loài cá biển thuộc chi Cirripectes trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1953.
Từ nguyên
Tính từ định danh stigmaticus trong tiếng Latinh có nghĩa là “dấu vết”, hàm ý đề cập đến các vệt đốm khắp cơ thể của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
Từ Đông Phi, C. stigmaticus có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall và quần đảo Samoa, ngược lên phía bắc đến tỉnh Batanes của Philippines, phía nam đến Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, C. stigmaticus được ghi nhận tại cù lao Câu (Bình Thuận).
C. stigmaticus xuất hiện ở đới mặt bằng rạn có san hô và tảo phát triển phong phú, hay trên các cụm rong san hô, giữa các san hô Acropora và Pocillopora, độ sâu đến ít nhất là 20 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở C. stigmaticus là 8,2 cm. Loài này có kiểu hình thay đổi tùy theo khu vực địa lý và cũng dị hình giới tính. Đầu và thân màu nâu sẫm với kiểu hình lưới màu đỏ tươi ở đầu, trở thành các đốm và vệt gợn sóng ở phía sau. Mống mắt với đồng tử bao quanh bởi vòng vàng. Những cá thể lớn có màu xanh lục đậm đến đen, cũng có các vệt đốm đỏ trên đầu và thân. Những con đực ở quần đảo Gilbert có màu sẫm hơn, sắc tố trên vây có màu nâu thay vì đỏ tươi, mống mắt gần như có màu vàng hoàn toàn.
Số gai vây lưng: 11–12; Số tia vây lưng: 14–15; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 14–16; Số tia vây ngực: 15; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 3.
Sinh thái
Thức ăn của C. perustus là tảo. Trứng của chúng có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ.
Tham khảo
S
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Kenya
Cá Mozambique
Cá Seychelles
Cá Mauritius
Cá Réunion
Cá Maldives
Cá Thái Lan
Cá Việt Nam
Cá New Guinea
Cá Philippines
Cá Fiji
Động vật được mô tả năm 1953 |
19853080 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ernst%20I%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Sachsen-Gotha | Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha | Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha, có biệt danh là Ernst Ngoan đạo (25 tháng 12 năm 1601 – 26 tháng 3 năm 1675) là công tước của Sachsen-Gotha và Sachsen-Altenburg thuộc Các công quốc Ernestine, Đế chế La Mã Thần thánh. Các công quốc sau đó được sáp nhập lại để trở thành Sachsen-Gotha-Altenburg.
Ông là con trai thứ 9 nhưng là con trai thứ 6 sống đến tuổi trưởng thành của Johann II, Công tước xứ Sachsen-Weimar và Dorothea Maria xứ Anhalt. Mẹ của ông là cháu gái của Christoph, Công tước xứ Württemberg, và chắt gái của Ulrich, Công tước xứ Württemberg.
Ernst Ngoan đạo là tổ tiên của cả 7 công quốc dòng Ernestine và tất cả các nhà nước Ernestine trong Đế quốc Đức đều là hậu duệ của ông, những nhà nước này bị bãi bỏ sau khi Đế quốc Đức thất bại trong Thế chiến thứ nhất, năm 1918. Ông cũng là tổ tiên của tất cả các vị vua ở châu Âu có nguồn gốc từ dòng Ernestine như Vương quốc Anh (từ vua Edward VII đến Elizabeth), Vương quốc Bỉ (từ năm 1830 đến nay), Vương quốc Bulgaria (từ năm 1908 đến 1946), Vương quốc Bồ Đào Nha (từ năm 1837 đến 1910).
Ernst được đánh giá là một nhà cai trị khôn ngoan và sùng đạo, ông đã biến lãnh thổ của mình thành một trung tâm giáo dục kiểu mẫu không chỉ thu hút các nhà nước trong Thánh chế La Mã, nó còn thu hút nhiều người ở khắp châu Âu tìm đến. Người ta nói rằng không có bất cứ thần dân nào của ông không biết đọc và viết, và họ cũng tin rằng, nông dân của Sachsen-Gotha được giáo dục tốt hơn người dân thành thị và quý tộc ở những nơi khác.
Tiểu sử
Mồ côi cha từ nhỏ (cha ông mất năm 1605 và mẹ ông mất năm 1617), ông được nuôi dưỡng trong một môi trường nghiêm khắc, có năng khiếu và phát triển sớm nhưng thể chất không khỏe mạnh. Ông đã sớm bộc lộ những đức tính tốt lành và đạo đức. Với tư cách là người cai trị, bằng tính cách và khả năng cai trị cũng như sự quan tâm của cá nhân đối với các vấn đề nhà nước, ông đã mang đến một thời kỳ hoàng kim cho thần dân của mình sau sự tàn phá của Chiến tranh Ba mươi năm. Bằng cách tiết kiệm khôn ngoan, không loại trừ sự hào phóng phù hợp hoặc phô trương vào những dịp thích hợp, ông đã giải phóng đất đai của mình khỏi nợ nần, để lại một số tiền đáng kể trong kho bạc khi qua đời. Bảo an và nền tư pháp liêm khiết và hiệu quả đã nhận được nhiều sự quan tâm của ông, và các quy định của ông được dùng làm hình mẫu cho các nhà nước khác.
Ernst đã không có đủ thời gian để loại bỏ sự tra tấn, mặc dù đã hạn chế nó, và trong thế kỷ nổi lên của thuật phù thủy, ông đã chịu khuất phục trước các trò ảo thuật thông thường, mặc dù ông không có khuynh hướng mê tín và là kẻ thù của thuật giả kim. Ông cấm đấu tay đôi và áp dụng hình phạt tử hình cho kết quả chết người.
Năm 1640, theo hiệp ước phân chia lãnh thổ với anh em mình, Ernst nhận được Gotha và tạo ra Công quốc Sachsen-Gotha.
Luật của ông không được hình thành theo tinh thần của những ý tưởng hiện đại về quyền tự do cá nhân; họ cấm việc hứa hôn bí mật, cố gắng quản lý việc ăn mặc và thậm chí còn mở rộng đến cả chuồng ngựa, nhà bếp và tầng hầm. Tuy nhiên, các quy định của ông đã thúc đẩy nông nghiệp, thương mại, học tập và nghệ thuật. Cung điện Friedenstein của ông ở Gotha đã được xây dựng lại và các bộ sưu tập của nó có nguồn gốc từ dòng Ernestine; thư viện trở thành một trong những thư viện lớn nhất ở Đế chế La Mã Thần thánh. Các nhà thờ được xây dựng và theo Schulmethodus năm 1642, Ernst đã trở thành cha đẻ của trường ngữ pháp hiện nay. Người ta thường nói rằng nông dân của ông được giáo dục tốt hơn người dân thị trấn và quý tộc ở những nơi khác, và khi ông qua đời, người ta nói rằng không ai ở vùng đất của ông không thể đọc và viết. Ông đã biến nhà thi đấu ở Gotha trở thành một trường học kiểu mẫu thu hút học sinh không chỉ từ khắp các vùng đất của Thánh chế La Mã mà còn từ Thụy Điển, Nga, Ba Lan và Hungary. Theo cách tương tự, ông đã thúc đẩy Đại học Jena, tăng quỹ và điều chỉnh các hoạt động nghiên cứu của trường, tập trung quá nhiều vào khía cạnh tôn giáo. Lỗi tương tự cũng gắn liền với những nỗ lực của ông trong công việc nhà thờ, khiến ông có biệt danh là "Ernest cầu nguyện"; nhưng người ta tìm thấy lời bào chữa trong sự mất tinh thần đáng sợ do chiến tranh gây ra. Kinh thánh là cuốn sách hàng ngày của riêng ông và ông không ngừng nỗ lực để khiến người dân của mình theo đạo theo khuôn mẫu nghiêm ngặt của Luther. Việc hướng dẫn tôn giáo, bao gồm các bài tập giáo lý không có lịch sử Kinh thánh, được duy trì cho đến những năm sau và không phải tự nhiên mà sự ép buộc cứng nhắc trong một số trường hợp đã làm mất đi mục đích của nó. Hệ thống của Ernst đã tự duy trì một cách đáng ngạc nhiên; nó vẫn tồn tại hợp pháp mặc dù có phần sửa đổi hoặc bị bỏ qua.
Những nỗ lực của ông cho đạo Tin Lành không chỉ giới hạn ở vùng đất của ông. Ông đã cầu xin hoàng đế ủng hộ những người đồng đạo người Áo của mình. Ông trở thành ân nhân của Nhà thờ Tin Lành Lutheran của người Đức ở Moscow và có quan hệ thân thiện với sa hoàng. Ông thậm chí còn cử một đại sứ quán đến giới thiệu chủ nghĩa Luther vào Abyssinia, nhưng điều này không đạt được mục đích. Sự cai trị của ông đối với gia đình là một hình ảnh thu nhỏ của chính quyền đất đai của ông; kỷ luật nghiêm khắc nhất đã được áp dụng tại triều đình. Cuộc sống của nó rất đơn giản, được điều chỉnh mọi mặt bởi các hoạt động tôn giáo. Không có chi tiết nào bị bỏ qua có thể thúc đẩy sự phát triển về tinh thần và thể chất của những đứa con của ông, đồng thời việc giáo dục tôn giáo của chúng bị đẩy đi quá mức. Tuy nhiên, các con của ông đều thành công và Ernst chết với danh nghĩa "người cha và vị cứu tinh của dân tộc mình". Oliver Cromwell coi ông là một trong những Thân vương cai trị khôn ngoan nhất; ở ông thể hiện "ý tưởng về một Hoàng thân gia trưởng theo đạo Tin Lành."
Hôn nhân và con cái
Tại Altenburg vào ngày 24 tháng 10 năm 1636, Ernst kết hôn với em họ của mình là Elisabeth Sophie xứ Sachsen-Altenburg. Kết quả của cuộc hôn nhân này là Sachsen-Gotha và Sachsen-Altenburg được thống nhất lại khi vị công tước cuối cùng của dòng dõi (anh họ của Elisabeth) qua đời không con vào năm 1672. Ernst và Elisabeth Sophie có 18 người con:
Johann Ernst (s. Weimar, 18 tháng 9 năm 1638 – d. Weimar, 27 tháng 11 năm 1638).
Elisabeth Dorothea (sinh Coburg, 8 tháng 1 năm 1640 – mất Butzbach, 24 tháng 8 năm 1709), kết hôn vào ngày 5 tháng 12 năm 1666 với Ludwig VI, Bá tước xứ Hessen-Darmstadt.
Johann Ernst (sinh Gotha, 16 tháng 5 năm 1641 – mất vì bệnh đậu mùa, Gotha, 31 tháng 12 năm 1657).
Christian (s. và d. Gotha, ngày 23 tháng 2 năm 1642).
Sophie (s. Gotha, 21 tháng 2 năm 1643 – mất vì bệnh đậu mùa, Gotha, 14 tháng 12 năm 1657).
Johanna (s. Gotha, 14 tháng 2 năm 1645 – d. [do bệnh đậu mùa?] Gotha, 7 tháng 12 năm 1657).
Friedrich I, Công tước xứ Sachsen-Gotha-Altenburg (s. Gotha, 15 tháng 7 năm 1646 – d. Friedrichswerth, 2 tháng 8 năm 1691).
Albrecht V, Công tước xứ Sachsen-Coburg (s. Gotha, 24 tháng 5 năm 1648 – d. Coburg, 6 tháng 8 năm 1699).
Bernhard I, Công tước xứ Sachsen-Meiningen (s. Gotha, 10 tháng 9 năm 1649 – d. Meiningen, 27 tháng 4 năm 1706).
Heinrich, Công tước xứ Sachsen-Römhild (s. Gotha, 19 tháng 11 năm 1650 – d. Römhild, 13 tháng 5 năm 1710).
Christian, Công tước xứ Sachsen-Eisenberg (sinh Gotha, 6 tháng 1 năm 1653 – mất Eisenberg, 28 tháng 4 năm 1707).
Dorothea Maria (s. Gotha, 12 tháng 2 năm 1654 – d. Gotha, 17 tháng 6 năm 1682).
Ernst, Công tước xứ Sachsen-Hildburghausen (s. Gotha, 12 tháng 6 năm 1655 – d. Hildburghausen, 17 tháng 10 năm 1715).
Johann Philipp (s. Gotha, 1 tháng 3 năm 1657 – d. Gotha, 19 tháng 5 năm 1657).
Johann Ernst IV, Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld (s. Gotha, 22 tháng 8 năm 1658 – d. Saalfeld, 17 tháng 2 năm 1729).
Johanna Elisabeth (s. Gotha, 2 tháng 9 năm 1660 – d. Gotha, 18 tháng 12 năm 1660).
Johann Philipp (s. Gotha, 16 tháng 11 năm 1661 – d. Gotha, 13 tháng 3 năm 1662).
Sophie Elisabeth (s. Gotha, 19 tháng 5 năm 1663 – d. Gotha, 23 tháng 5 năm 1663).
Con trai cả của họ, Công tử Friedrich là người đầu tiên kế thừa danh hiệu này. Cháu gái của ông từ người con trai này, Anna Sophie xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, là tổ tiên mẫu hệ trực tiếp của Sa hoàng Nicholas II của Nga. Con trai nhỏ của ông, Công tử Johann Ernst, là cha của Franz Josias, Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld.
Di sản
Ông được miêu tả tích cực như một nhân vật trong bộ truyện hư cấu năm 1632 series, còn được gọi là bộ truyện 1632 hoặc Ring of Fire, một bộ sách lịch sử thay thế, được tạo ra, chủ yếu do nhà sử học Eric Flint đồng sáng tác và điều phối.
Các công quốc Ernestine.
Kinh thánh của Ernestine, được gọi là Kurfürstenbibel, do Công tước Ernst Ngoan đạo uỷ quyền để in, các tên gọi khác của nó là Kinh thánh Weimar
Tổ tiên
Tham khảo
Article in the ADB
Sinh năm 1601
Mất năm 1675
Công tước xứ Sachsen-Gotha
Công tước xứ Sachsen-Altenburg
Vương tộc Wettin |
19853084 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sachsen-Eisenberg | Sachsen-Eisenberg | Công quốc Sachsen-Eisenberg (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Eisenberg) là một nhà nước thuộc Đế chế La Mã Thần thánh được cai trị bởi dòng Ernestine, nhánh trưởng của Nhà Wettin.
Sau cái chết của Công tước Ernst Ngoan đạo, lãnh thổ của ông được chia ra cho 7 người con trai, trong đó, người con trai thứ 5 là Công tử Christian được chia cho vùng Eisenberg, để lập ra Công quốc Sachsen-Eisenberg.
Công quốc chỉ tồn tại đến năm 1707, vị công tước duy nhất của nó qua đời mà không có người thừa tự nam nên lãnh thổ và tài sản đã được thừa kế bởi Công tước xứ Sachsen-Hildburghausen.
Các công tước xứ Sachsen-Eisenberg
Christian (1680–1707)
Nguồn
Trích dẫn
Sách
Các công quốc Ernestine
Công tước xứ Sachsen-Eisenberg
Cựu quốc gia quân chủ châu Âu
Công quốc Thánh chế La Mã |
19853085 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sachsen-Marksuhl | Sachsen-Marksuhl | Công quốc xứ Sachsen-Marksuhl (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Marksuhl) là một nhà nước thuộc Đế chế La Mã Thần thánh được cai trị bởi dòng Ernestine, nhánh thưởng của Nhà Wettin. Nó được lập ra vào năm 1662 sau khi thoả thuận phân vùng được ký kết giữa Công tước Adolf Wilhelm và em trai ông là Công tử Johann Georg, theo đó, ông này được chia cho Marksuhl và lập ra Công quốc Sachsen-Marksuhl.
Năm 1671, cháu trai của Johann Georg là Wilhelm August, Công tước xứ Sachsen-Eisenach qua đời mà không để lại người thừa tự, nên ông đã được thừa kế Sachsen-Eisenach, từ đó, Sachsen-Marksuhl hợp nhất lại với Sachsen-Eisenach.
Tham khảo
Các công quốc Ernestine
Công quốc Thánh chế La Mã
Cựu quốc gia quân chủ châu Âu
Công tước xứ Sachsen-Marksuhl |
19853087 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Lemon%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%20c%E1%BB%A7a%20Yonezu%20Kenshi%29 | Lemon (bài hát của Yonezu Kenshi) | "Lemon" là một bài hát do ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác người Nhật Yonezu Kenshi thực hiện, được hãng Sony Music Entertainment Japan phát hành dưới dạng đĩa đơn vào ngày 14 tháng 3 năm 2018. Bên cạnh đó, đây cũng chính là ca khúc chủ đề của bộ phim truyền hình đình đám Unnatural lên sóng cùng năm. Kể từ khi ra mắt, tác phẩm đã gặt hái thành công lớn về mặt thương mại khi bán ra 500.000 ấn bản băng đĩa cũng như 3.000.000 ấn bản trực tuyến tại thị trường quê nhà, đồng thời còn trở thành bài hát tiếng Nhật có nhiều lượt xem nhất trên YouTube.
Hoàn cảnh sáng tác
Yonezu Kenshi đã chấp nhận tham gia một số cuộc phỏng vấn liên quan đến "Lemon" để nói về bối cảnh sáng tác cũng như những vấn đề khác xoay quanh tác phẩm. Trong thời gian đầu thực hiện bài hát, nam nhạc sĩ đã tạm đặt cho nó cái tên "Memento." Anh chia sẻ rằng, "Tôi nghĩ là nó đến từ một nơi nào đó sâu thẳm trong ký ức bản thân, nhưng lại chẳng thể nào giải thích tỏ tường được." Ngay cả khi chỉ còn một ngày nữa thôi là đã tiến hành thu âm, Kenshi vẫn đang cặm cụi viết nốt phần lời còn lại cho tác phẩm. Đột nhiên, hai câu cuối "Tựa như hai nửa của quả chanh bị cắt vậy, kể cả bây giờ, em vẫn là ánh sáng của anh" chợt nảy ra trong đầu vị nhạc sĩ. Anh bèn thốt lên rằng "À, vậy ra bài hát này chính là "Lemon."" Hơn nữa, Kenshi cũng đích thân đảm nhận công đoạn vẽ bìa minh họa cho ca khúc. Anh tập trung vào vẻ sống động và sự tươi tắn của quả chanh, từ đó tạo nên cho nó một hình ảnh hoàn toàn không giống với những gì thường hay gắn liền với cái chết. Ban đầu Kenshi dự định sẽ thực hiện một bản ballad, thế nhưng đối với anh thì một bản ballad đơn giản thì không thú vị cho lắm, đồng thời anh cũng không muốn đứa con tinh thần của mình hoàn toàn chìm trong u buồn. Rốt cuộc, nam nhạc sĩ đã tạo ra một nhạc phẩm hòa quyện nhiều thể loại lại với nhau, với ca từ đau nhói tận tâm can trên nền nhạc sôi động và khiến người nghe như thể muốn bật dậy để nhảy múa. Yonezu Kenshi sáng tác bài hát này trong chuyến lưu diễn toàn quốc, đây cũng là thời điểm mà người ông của anh qua đời. Vị nhạc sĩ đã trăn trở rất nhiều về điều đó nên quá trình sáng tác ca khúc kéo dài hơn hẳn so với bình thường.
Sáng tác
"Lemon" là một bài hát được sáng tác theo cấu trúc tiến trình hợp âm lặp lại C–Am–F–G7, nhưng ở đoạn giữa thì lại đi theo Am–F–G–C–F–C–G–C trong đó hợp âm Fm được chuyển đổi thành tông Am. Điều đặc biệt này được xem là nguyên nhân khiến cho bản ca của Kenshi trở nên phổ biến theo đường dài. Ca từ được đánh giá là gợi đến cảm xúc khao khát, nhung nhớ và lưu luyến ngay từ hai câu đầu tiên, "Thật tốt biết bao nếu như tất cả chỉ là một giấc mơ / Đến tận lúc này, anh vẫn mơ ước về em".
Đánh giá chuyên môn
Cả tạp chí âm nhạc Billboard Japan lẫn nhà phê bình Suzuki Suzie khi phân tích sáng tác đã bày tỏ khen ngợi "Lemon" và cho biết, nguyên nhân bài hát vẫn còn giữ nhiệt quá lâu không chỉ là do sức hút của giọng hát đặc biệt mà còn là do giai điệu trầm lắng vẩn vơ "sở hữu sức mạnh trường tồn theo thời gian" cùng với chủ đề tang thương người thân khiến cho người khác chịu đồng cảm phải nghe đi nghe lại. Một cây bút bên trang Jrock News đã dùng đến từ khóa "Sausade" đến từ văn hóa dân gian Bồ Đào Nha để diễn tả tâm trạng của ca khúc, tức có nghĩa rằng "cảm giác khao khát một thứ gì đó hoặc một ai đó mà bạn yêu quý nhưng có thể sẽ chẳng bao giờ trở lại."
Video âm nhạc
Video âm nhạc của "Lemon" đã được phát hành trên nền tảng YouTube vào ngày 27 tháng 2 năm 2018. Khung hình của video được đặt theo tỷ lệ hình vuông và bối cảnh đặt tại một nhà thờ tang lễ. Cảnh đầu tiên một nhóm người ủ rũ ngồi quanh những chiếc ghế trong một hội trường thiếu ánh sáng. Bối cảnh được cho là lấy từ tổ chức Alcoholics Anonymous khi mà mọi người cùng nhau bày tỏ nỗi niềm của mình và tìm kiếm sự giúp đỡ, làm bật lên chủ đề của bài hát là về cuộc đời nặng trĩu của một người. Video âm nhạc của "Lemon" đa phần tập trung vào các tiểu tiết như tiếng gót chân cũng như ánh sáng nhẹ nhàng của các nhân vật trong video nhằm tô đậm sự tĩnh lặng của căn phòng và con người bên trong đó. Giữa các cảnh quay là một vũ công đung đưa trong cô đơn, Kenshi thì ngồi trên một chiếc ghế dài và mang đôi giày cao gót cùng màu. Jrock News cho biết, cảm giác nghiêm túc của video này phá vỡ mọi sự hài hước vốn dĩ gắn liền với hình ảnh lạ thường. Video đã thu về hơn 800 triệu lượt xem và trở thành ca khúc Nhật Bản thành công nhất trên nền tảng này tính đến năm 2024.
Biểu diễn trực tiếp và hát lại
Ngày 31 tháng 12 năm 2018, Yonezu đã có buổi biểu diễn đầu tiên trên truyền hình tại sự kiện NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 69 với bài hát "Lemon" trên tư cách là thành viên của đội trắng. Đáp lại lời mời biểu diễn của NHK, Yonezu nói: "Tôi coi việc cất bài ca ở quê hương tôi – nơi ông tôi sống, mang ý nghĩa rất lớn", anh đồng ý biểu diễn vì anh cảm thấy biểu diễn ở quê nhà nhân ngày giỗ một năm ông nội, đồng thời để tưởng nhớ ông nội thật ý nghĩa. Là người thứ 24 trong nửa sau của chương trình và là người thứ 20 của đội trắng, Yonezu đã biểu diễn trực tiếp tại Sistine Hall thuộc Bảo tàng nghệ thuật Ōtsuka (thành phố Naruto) ở quê hương tỉnh Tokushima, thay vì địa điểm chính là NHK Hall. Yonezu hát toàn bộ phần điệp khúc của "Lemon" trong một không gian với vô số ngọn nến ảo ảnh được thắp tại Sistine Hall, và vũ công Sugawara Koharu đã biểu diễn một điệu nhảy do Tsujimoto Tomohiko biên đạo trong buổi diễn. Yonezu không thường xuyên có mặt trên truyền thông và sóng truyền hình so với các nghệ sĩ biểu diễn khác, đồng thời anh chưa từng xuất hiện trực tiếp trong một chương trình truyền hình nào trước đây. Sau màn trình diễn, Yonezu nói: "Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả những người đã chuẩn bị cho dịp này. Cảm ơn các bạn rất nhiều." và nhận về những phản hồi tích cực.
Tháng 2 năm 2018, Kobasolo và Harutya phát hành video hát lại "Lemon". Trong đó Kobasolo đảm nhận khâu sáng tác được cho là tương đồng với bản gốc, còn Harutya thì biểu diễn bằng nhạc cụ guitar acoustic.
Danh sách bài hát
Đội ngũ
Danh sách thành viên trong đội ngũ được dựa trên phần ghi chú của tác phẩm.
Yonezu Kenshi - nhà sản xuất, sắp xếp đội ngũ, vocal, guitar
Muroya Koichiro - đảm nhiệm phần nhạc khí có dây
Suto Yu - bass
Huri Masaki - tay trống
Izawa Ichiyo - piano
Mochizuki Tatsuya - kỹ thuật guitar
Imamura Koji - kỹ thuật trống
Miyake Akira - chỉ đạo dàn trống
Komori Masahito - thu âm, hòa âm
Ted Jensen - hoàn chỉnh âm thanh
Xếp hạng
Xếp hạng tuần
Xếp hạng cuối năm
Xếp hạng toàn thời gian
Chứng nhận
Thành tựu
Tham khảo
Bài hát tiếng Nhật
Đĩa đơn quán quân Japan Hot 100
Bài hát năm 2018
Đĩa đơn năm 2018
Nguồn CS1 tiếng Nhật (ja) |
19853091 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sachsen-Eisenach | Sachsen-Eisenach | Công quốc Sachsen-Eisenach (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Eisenach) là một nhà nước của Đế chế La Mã Thần thánh và sau là thành viên trong Liên bang Rhein, được cai trị bởi dòng Ernestine, nhánh trưởng của Nhà Wettin. Công quốc này tồn tại không liên tục, chia ra làm 3 lần lập và tái lập khác nhau: lần 1 từ năm 1596 đến 1638, lần 2 từ năm 1640 đến 1644 và lần 3 từ 1662 đến năm 1809.
Sachsen-Eisenach được tách ra từ Công quốc Sachsen-Coburg-Eisenach vào năm 1596. Năm 1741, sau cái chết của Công tước Wilhelm Heinrich không để lại người thừa tự, công quốc được cai trị dưới hình thức liên minh cá nhân với Sachsen-Weimar bởi Công tước Ernst August I của chi nhánh Sachsen-Weimar. Đến năm 1809, Sachsen-Eisenach hợp nhất với Sachsen-Weimar để trở thành Sachsen-Weimar-Eisenach dưới thời Công tước Karl August, chấm dứt 68 năm được cai trị dưới hình thức liên minh cá nhân.
Tham khảo
Much of the content of this article comes from Sachsen-Eisenach on the German Wikipedia and Ducado de Sajonia-Eisenach on the Spanish Wikipedia, both retrieved November 10, 2005.
Liên kết ngoài
German genealogies
Các công quốc Ernestine
Vương tộc Wettin
Công quốc Thánh chế La Mã
Cựu quốc gia quân chủ châu Âu
Công tước xứ Sachsen-Eisenach
Nhà nước của Liên bang Rhein |
19853092 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Edoardo%20Colombo | Edoardo Colombo | Edoardo Colombo (sinh ngày 24 tháng 1 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người San Marino hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Rimini tại Serie C bảng B.
Sự nghiệp thi đấu
Juventus
Sinh ra ở Ravenna, Colombo bắt đầu sự nghiệp của mình tại học viện trẻ của câu lạc bộ Cesena. Vào năm 2017, Colombo chuyển đến Juventus và gia nhập đội trẻ của họ. Vào năm 2018 và 2019, Colombo được cho mượn tại Carpi và Torres 1903. Trong thời gian thi đấu cho Torres 1903, Colombo đã ra sân 25 trận.
Cho mượn tại Legnago Salus
Vào ngày 18 tháng 8 năm 2020, Colombo gia nhập Legnago Salus theo dạng cho mượn. Vào ngày 26 tháng 9 năm 2020, anh có trận ra mắt chuyên nghiệp cho câu lạc bộ trong trận hòa 2–2 trước Vis Pesaro.
Fermana
Vào ngày 13 tháng 1 năm 2021, anh chuyển đến câu lạc bộ Fermana theo một bản hợp đồng lâu dài. Là sự lựa chọn thứ 2 trong khung gỗ sau Samuele Massolo, Colombo chơi trận đầu tiên và duy nhất cho Fermana vào ngày 2 tháng 5 năm 2021, đá chính trong trận gặp Legnago Salus, kết thúc với chiến thắng 3-1 cho Fermana.
Arezzo
Vào ngày 30 tháng 7 năm 2021, Colombo gia nhập Arezzo, đội vừa xuống chơi tại Serie D. Sau đó, anh chơi trận đầu tiên cho đội bóng vào ngày 12 tháng 9, đá chính trong trận đấu với Foligno ở vòng sơ loại Coppa Italia Serie D. Ngay trước khi hiệp 1 kết thúc, Colombo đã cản phá một quả phạt đền từ tiền đạo Maurizio Peluso bên phía đối diện, người sau đó ghi bàn thắng bàn thắng duy nhất của trận đấu.
Rimini
Vào ngày 19 tháng 7 năm 2023, Colombo ký hợp đồng một năm với câu lạc bộ Rimini.
Sự nghiệp quốc tế
Sinh ra ở Ý, Colombo từng đại diện cho San Marino trên đấu trường quốc tế.
Vào ngày 17 tháng 11 năm 2018, anh có trận ra mắt cho U-19 San Marino, trong trận gặp Scotland. Anh đá chính nhưng không thể ngăn cản đội bóng nhận thất bại đậm đà 5–0.
Vào tháng 8 năm 2021, Colombo lần đầu tiên được gọi lên Đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia San Marino, và ra mắt vào ngày 3 tháng 9, đá chính trong trận thua 6-0 trên sân nhà trước Đức.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Tham khảo
Sinh năm 2001
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Ý
Cầu thủ bóng đá San Marino
Cầu thủ bóng đá San Marino ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Juventus
Cầu thủ bóng đá S.E.F. Torres 1903
Cầu thủ bóng đá F.C. Legnago Salus
Cầu thủ bóng đá Fermana F.C.
Cầu thủ bóng đá S.S. Arezzo
Cầu thủ bóng đá Cavese 1919
Cầu thủ bóng đá Rimini F.C. 1912
Cầu thủ bóng đá Serie C
Cầu thủ bóng đá Serie D
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia San Marino
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia San Marino |
19853095 | https://vi.wikipedia.org/wiki/LCK%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202024 | LCK mùa giải 2024 | LCK mùa giải 2024 là mùa giải thứ 13 của League of Legends Champions Korea (LCK), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của Hàn Quốc dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Mùa Xuân và Mùa Hè. Giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu vào ngày 17 tháng 1 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 14 tháng 4 năm 2024.
Những thay đổi
Các đội
Liiv Sandbox đã đổi tên đội thể thao điện tử của mình thành FearX để bước vào mùa giải 2024.
Giới hạn lương
Để đối phó với những thách thức tài chính mà các tổ chức LCK phải đối mặt, chẳng hạn như giám đốc điều hành của Gen.G, Arnold Hur tiết lộ rằng đội của anh "chưa bao giờ thu được lợi nhuận" mặc dù dẫn đầu về doanh thu tài trợ, LCK đã thực hiện giới hạn lương cho đội hình xuất phát và hệ thống thuế cho mùa giải 2024. Giới hạn lương sẽ được tính dựa trên tổng lương trả cho đội hình xuất phát, không bao gồm tuyển thủ dự bị. Nó bao gồm mức tối thiểu, được đặt ở mức 70% doanh thu mà đội kiếm được vào năm 2022. Các đội vượt quá giới hạn tối đa sẽ phải chịu thuế, khoản thuế này sẽ được phân bổ lại cho các đội vẫn ở trong giới hạn. Tuy nhiên, để đủ điều kiện được chia sẻ thuế, các đội phải đạt mức tối thiểu của giới hạn lương. Không có giới hạn cá nhân về lương của một tuyển thủ, chỉ dành cho toàn đội (có những trường hợp ngoại lệ) và tiền thưởng dựa trên thành tích của tuyển thủ.
Giải Mùa Xuân
Vòng bảng giải Mùa Xuân sẽ diễn ra từ ngày 17 tháng 1 đến ngày 24 tháng 3 năm 2024. 10 đội sẽ chơi tổng cộng 90 trận và tất cả các trận đấu vòng bảng sẽ được thi đấu theo thể thức Bo3. Sáu đội dẫn đầu Vòng bảng sẽ tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 30 tháng 3 đến ngày 14 tháng 4 năm 2024. Hai đội đứng đầu vòng loại trực tiếp Giải Mùa Xuân đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2024.
Vòng bảng
Vòng loại trực tiếp
Tham khảo
Liên Minh Huyền Thoại năm 2024 |
19853102 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p%20%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Leipzig | Hiệp ước Leipzig | Hiệp ước Leipzig hoặc Phân chia Leipzig (tiếng Đức: Leipziger Teilung) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1485 giữa Tuyển đế hầu Ernst xứ Sachsen và em trai ông ta là Albrecht III, họ là con trai của Friedrich II, Tuyển hầu xứ Sachsen của Nhà Wettin. Thỏa thuận này phân chia các lãnh thổ của triều đại Wettin thành 2 phần, nó được cai trị bởi 2 phân nhánh: dòng trưởng Ernestine giữ ghế tuyển đế hầu xứ Sachsen với quyền bầu ra Hoàng đế La Mã Thần thánh và dòng thứ Albertine nhận Bá quốc Meissen và các quận lân cận.
Lịch sử
Năm 1423, ông nội của Ernst và Albrecht, Bá tước Friedrich IV xứ Meissen đã nhận được nâng lên thành Tuyển hầu xứ Sachsen bởi Hoàng đế Sigismund của Thánh chế La Mã. Quyền tuyển đế hầu — trước đây là của Công tước xứ Sachsen-Wittenberg — cùng với Bá tước xứ Meissen hợp nhất cùng với Bá quốc Thuringia đã hình thành nên các vùng đất của Triều đại Wettin thống nhất. Sau cái chết của Friedrich vào năm 1464, các lãnh thổ của ông đều do hai con trai của ông cùng cai trị cho đến năm 1485, khi chúng được phân chia giữa họ.
Trong cuộc phân chia năm 1485, Ernst, với tư cách là Tuyển đế hầu cha truyền con nối của Sachsen, nhất thiết phải nhận được các vùng đất tuyển hầu xung quanh Wittenberg. Phần còn lại được phân chia trên cơ sở "Tôi sẽ phân tách, bạn chọn", Ernst chia các vùng đất thành hai phần, và Albrecht chọn một phần cho mình. Albrecht chọn lãnh thổ phía Đông của Bá quốc Meissen trước đây, trong khi Ernst chiếm được hầu hết các vùng Thuringia ở phía Tây. Ernst được cho là rất thất vọng trước kết quả này, vì ông đã hy vọng cai trị các vùng đất xung quanh Meissen, nơi được cai trị bởi Nhà Wettin từ thế kỷ XII, thay vì các vùng đất mới giành được ở miền Nam Thuringia.
Tuyển đế hầu Ernst đã chọn Wittenberg làm kinh đô của Tuyển hầu xứ Sachsen và tự xưng là Bá tước xứ Thuringia. Công tước Albrech III đã chọn Meissen làm trung tâm của công quốc Albertine Sachsen và tự coi mình là Bá tước xứ Meissen.
Trong quá trình Cải cách Tin lành, các nhánh Ernestine và Albertine của triều đại Wettin thấy mình ở hai phe đối lập trong Chiến tranh Schmalkaldic 1546/1547. Là đồng minh của phe chiến thắng, Karl V của Thánh chế La Mã, nên Công tước dòng Albertine Moritz xứ Sachsen đã giành được lãnh thổ Wittenberg và ngai vàng tuyển đế hầu, sau khi người anh họ dòng Ernestine là [[Johann Friedrich I, Tuyển hầu xứ Sachsen bị đánh bại và phải ký Bản đầu hàng Wittenberg. Từ sự kiện đó, dòng dõi Albertine ở vùng Meissen trước đây đã cai trị Tuyển hầu xứ Sachsen và sau này là Vương quốc Sachsen. Hậu duệ của Johann Friedrich I chỉ giữ lại lãnh thổ Thuringia, ngoài ra còn bị chia cắt thành nhiều công quốc Ernestine.
Sau Thế chiến thứ nhất, Nhà Wettin bị phế truất, Vương quốc Albertine Sachsen được Bang tự do Sachsen thừa kế, trong khi 4 công quốc trước đây của Ernestine gia nhập Thuringia sau một cuộc trưng cầu dân ý trong đó Sachsen-Coburg (trừ Gotha), đã bỏ phiếu gia nhập Bayern.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Saxony
Ernestine Saxony 1485-1547
Chia cắt (chính trị)
Hiệp ước 1480
Hiệp ước của Tuyển hầu xứ Sachsen
Châu Âu năm 1485
Sachsen thế kỷ 15
Lịch sử Leipzig |
19853105 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%A0%20s%E1%BB%AFa%20Mi%E1%BA%BFn%20%C4%90i%E1%BB%87n | Trà sữa Miến Điện | Trà sữa Miến Điện (, ) là một loại thức uống được làm từ trà có nguồn gốc xuất xứ ở Myanmar, theo truyền thống được làm bằng trà đen và sữa (thường là sữa đặc và sữa bay hơi). Chúng thường được tiêu thụ tại các quán trà như một món ăn kèm với các món ăn khác như món chiên Miến Điện và món ăn nhẹ Miến Điện.
Lịch sử
Myanmar có một nền văn hóa trà lâu đời, bắt nguồn từ lịch sử trồng trà lâu đời ở một khu vực mà ngày nay được gọi là Thượng Miến. Vào thời tiền thuộc địa, mọi người chủ yếu uống trà xanh, thứ vẫn tiếp tục là đồ uống chủ đạo tại các quán trà cũng như các nhà hàng Miến Điện truyền thống.
Trong thời kỳ Miến Điện thuộc Anh, Miến Điện đã trở thành một phần của vương quốc Raj thuộc Anh. Từ cuối những năm 1800 trở đi, những người Ấn Độ di cư đã đổ xô đến các thành phố lớn, nơi họ thành lập các cửa hàng tổng hợp có tên là kaka hsaing, nơi cung cấp trà sữa và cuối cùng phát triển thành các quán trà. Trà sữa được pha chế từ trà được ủ kỹ, sữa tươi hấp và đường, tương tự như trà sữa Ấn Độ.
Nguyên liệu
Trà sữa Miến Điện được làm từ lá trà đen ủ kỹ, được gọi là akya yay () hoặc aphan yay (), sữa bay hơi và sữa đặc, tương tự như trà sữa Hồng Kông. Sữa tươi, kem (được gọi là "malai" trong tiếng Miến Điện) và đường mía cũng được tùy ý thêm vào hoặc thay thế.
Chuẩn bị
Trà sữa Miến Điện được làm ra bằng cách ủ kỹ lá trà đen, đun sôi trong nước với một chút muối, thường từ 15 đến 30 phút. Sau đó, bã trà được kết hợp với sữa bay hơi và sữa cô đặc, rồi 'kéo' theo cách tương tự như teh tarik, nhằm tạo ra một lớp bọt và làm mát thức uống này.
Biến thể
Theo truyền thống, trà sữa Miến Điện được làm theo đơn đặt hàng, dựa trên tỷ lệ trà và sữa tùy chỉnh theo sở thích cá nhân. Có hơn hai chục loại và người gọi đồ thường sử dụng các chữ viết tắt tốc ký khi gọi món. Các loại trà sữa có thể được phân loại rộng rãi dựa trên độ se, độ đậm đà và vị ngọt.
Truyền thống
Loại truyền thống được gọi là pon hman (), tỷ lệ 5:1:1 đối với trà, sữa bay hơi và sữa đặc. Một số từ viết tắt tốc ký phổ biến bao gồm 'trà Ceylon' () và 'no zein ti' ().
Se
Các loại trà se được gọi là a-phan () hoặc kya kya (), thường được tăng cường bằng cách giảm lượng sữa đặc và sữa bay hơi, và/hoặc tăng lượng trà đen. Trà đen pha đậm đặc không có sữa được gọi là 'gate sone' (, ).
Đậm
Các loại trà đậm được gọi là a-seint (), thường được làm đậm bằng nhiều sữa bay hơi hơn so với loại truyền thống. Các cách viết tắt phổ biến bao gồm 'kya seint', 'paw seint' và 'cho seint.'
Ngọt
Các loại trà ngọt được gọi là a-cho' (), thường được làm ngọt bằng nhiều sữa đặc hơn so với loại truyền thống. Các cách viết tắt phổ biến bao gồm 'cho kya', 'cho pyit' và 'cho paw.' Một cách viết tắt phổ biến khác, 'Kyaukpadaung' () dùng để chỉ một loại trà sữa ngọt nhưng có vị se với ít sữa bay hơi hơn.
Xem thêm
Trà sữa
Trà sữa Hồng Kông
Teh tarik
Liên minh Trà Sữa
Tham khảo
Ẩm thực Myanmar
Trà hỗn hợp
Trà sữa
Thức uống
Trà |
19853107 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Douglas%20Luiz | Douglas Luiz | Douglas Luiz Soares de Paulo (sinh ngày 9 tháng 5 năm 1998), thường được biết đến với tên gọi Douglas Luiz, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brazil hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Aston Villa tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh và Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil.
Douglas Luiz trưởng thành từ lò đào tạo bóng đá Vasco da Gama ở Rio de Janeiro. Năm 2017, anh được Manchester City ký hợp đồng khi 19 tuổi nhưng chưa thi đấu trận chính thức nào trong thời gian ở câu lạc bộ do vấn đề về hợp đồng và chuyển đến thi đấu cho câu lạc bộ Girona tại La Liga dưới dạng cho mượn hai lần. Ngày 7 tháng 12 năm 2019, Aston Villa ký hợp đồng với Luiz. Anh từng là thành viên của đội tuyển Olympic Brazil giành huy chương vàng tại Thế vận hội mùa hè 2020 diễn ra tại Tokyo.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Sự nghiệp quốc tế
Đời tư
Từ năm 2021 đến năm 2022, Douglas hẹn hò với Alisha Lehmann cũng là một cầu thủ bóng đá đang thi đấu của câu lạc bộ nữ Aston Villa.
Thống kê sự nghiệp
Danh hiệu
Aston Villa
Á quân EFL Cup: 2019–20
U-23 Brazil
Huy chương Vàng Thế vận hội: 2020
Giải đấu Toulon: 2019
Brazil
Copa América á quân: 2021
Cá nhân
Campeonato Carioca Đội hình của năm: 2017
Giải đấu Toulon
Cầu thủ xuất sắc nhất: 2019
Giải đấu Toulon
Đội hình xuất sắc nhất: 2019
Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải do cổ động viên Aston Villa bầu chọn: 2022–23
Cầu thủ xuất sắc nhất của Aston Villa: mùa giải 2022–23
Tham khảo
Liên kết ngoài
Douglas Luiz trên trang Aston Villa F.C.
Sinh năm 1998
Nhân vật còn sống
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Brasil
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2020
Huy chương bóng đá Thế vận hội
Huy chương Thế vận hội Mùa hè 2020
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội của Brasil
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil
Cầu thủ bóng đá nam Brasil ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Aston Villa F.C. |
19853108 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Fujimoto%20Tatsuki%20Tanpensh%C5%AB | Fujimoto Tatsuki Tanpenshū | là một tuyển tập manga one-shot bao gồm 2 tập được viết và minh họa bởi Fujimoto Tatsuki. Hai tập truyện 17-21 và 22-26, được phát hành lần lượt vào tháng 10 và 11 năm 2021.
Tổng quan
Fujimoto Tatsuki Tanpenshū bao gồm 8 chương one-shot được viết và minh họa bởi Fujimoto Tatsuki trước khi thực hiện xê-ri thứ hai là Chainsaw Man. Tập 1 17–21 bao gồm: (phát hành năm 2011); (phát hành năm 2013); (phát hành năm 2013); and (phát hành năm 2014). Tập truyện được phát hành bởi Shueisha vào ngày 4 tháng 10, 2021.
Tập 2 22–26 bao gồm: (phát hành năm 2014); (phát hành năm 2017); (phát hành năm 2015); and (phát hành năm 2018). Tập truyện được phát hành vào ngày 4 tháng 11, 2021.
Tập truyện
Tham khảo
Manga năm 2021
Shōnen manga |
19853109 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Minamiizu%2C%20Shizuoka | Minamiizu, Shizuoka | là Thị trấn thuộc huyện Kamo, tỉnh Shizuoka, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 7.877 người và mật độ dân số là 72 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 109,9 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Shizuoka
Shimoda
Matsuzaki
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Shizuoka |
19853111 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Futs%C5%AB%20ni%20Kiitekure | Futsū ni Kiitekure | là web manga one-shot được viết bởi Fujimoto Tatsuki và minh họa bởi Toda Oto. Truyện được phát hành tại website Shōnen Jump+ vào tháng 7 năm 2022.
Phát hành
Viết bởi Fujimoto Tatsuki và minh họa bởi Toda Oto, one-shot được phát hành tại website Shōnen Jump+ của Shueisha vào ngày 4 tháng 7 năm 2022.
Viz Media và Manga Plus phát hành one-shot bản chuyển ngữ tiếng Anh song song với bản tiếng Nhật.
Đón nhận
Brian Salvatore từ Multiversity Comics dành lời khen cho cốt truyện mặc dù manga chỉ có độ dài ngắn, đặc biệt là cách mà bộ truyện để bỏ ngỏ nhiều tình tiết. Salvatore cũng khen ngợi nét vẽ của Toda. Cùng với đó, Salvatore cảm thấy rằng bộ manga khiến cho người đọc biết phải suy ngẫm nhiều hơn. Kazushi Shimada từ đề cao thông điệp của câu chuyện về việc đào sâu vào những ẩn ý trong nghệ thuật cùng ngòi bút của Toda. Shimada cũng thích việc cốt chuyện có tình tiết mơ hồ và có kết mở.
Chú thích
Manga Shūeisha
Shōnen manga
Manga năm 2022 |
19853114 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Denis%20Duverne | Denis Duverne | Denis Duverne (Lyon, ngày 31 tháng 10 năm 1953) là một doanh nhân người Pháp, chủ tịch hội đồng quản trị của AXA từ năm 2016 và là ban giám sát của Quỹ Nghiên cứu Y khoa Pháp từ năm 2017.
Tiểu sử
Denis Duverne sinh ngày 31 tháng 10 năm 1953 tại Lyon, Pháp. Ông tốt nghiệp HEC Paris năm 1974 và ENA năm 1979.
Duverne gia nhập AXA vào năm 1995 với tư cách là phó chủ tịch tài chính cấp cao, giám sát hoạt động của tập đoàn tại Mỹ và Anh. Sau đó, ông cũng chịu trách nhiệm tái cơ cấu AXA ở Bỉ và Vương quốc Anh sau khi sáp nhập AXA với UAP.
Từ năm 2000, ông đã giám sát hoạt động tài chính của tập đoàn.
Năm 2003, ông được bổ nhiệm vào ban giám đốc của AXA với trách nhiệm về tài chính, kiểm soát và chiến lược, vị trí mà ông giữ cho đến năm 2009. Trong nhiệm kỳ của mình, ông giám sát việc sáp nhập Winterthur, một thương vụ mua lại trị giá 8 tỷ euro.
Tháng 4 năm 2010, ông trở thành thành viên Hội đồng quản trị và Phó Tổng Giám đốc, chịu trách nhiệm về tài chính, chiến lược và hoạt động.
Ngày 01/9/2016, ông được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng quản trị và Thomas Buberl được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc; hai chức năng này được tách ra khi Henri de Castries rời công ty. Đối với AXA, một trong những mục tiêu của việc bổ nhiệm Duverne làm chủ tịch là tận dụng kinh nghiệm quản lý của ông ở Pháp và nước ngoài.
Nhiệm vụ thủ tướng của ông đã được gia hạn vào năm 2018.
Ông cũng được biết đến với công việc từ thiện của mình.
Tham khảo
Doanh nhân Pháp
Cựu sinh viên Trường Bách khoa Paris |
19853121 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Coma%20%28quang%20h%E1%BB%8Dc%29 | Coma (quang học) | Trong quang học, đặc biệt trong kính viễn vọng, coma (còn có tên là quang sai coma) là quang sai làm cho các nguồn điểm ngoài trục có vẻ bị biến dạng, thường có hình dạng giống sao chổi hoặc không đối xứng thay vì một điểm sắc nét. Quang sai này có thể xảy ra trong các hệ thống quang học như kính thiên văn, kính hiển vi hoặc ống kính máy ảnh.
Quang sai coma xảy ra do sự không hoàn hảo trong hệ thống quang học, chẳng hạn như sự bất đối xứng trong hình dạng thấu kính hoặc gương hoặc sự lệch trục của các thành phần quang học. Nó trở nên rõ ràng hơn khi bạn di chuyển ra khỏi trung tâm của trường nhìn.
Để khắc phục quang sai coma, các nhà thiết kế quang học thường sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau như kết hợp nhiều thành phần thấu kính, sử dụng các hình dạng thấu kính chuyên dụng hoặc sử dụng phần mềm thiết kế có sự hỗ trợ của máy tính (CAD) để tối ưu hóa cấu hình của hệ thống quang học. Ngoài ra, trong một số trường hợp, kỹ thuật xử lý hậu kỳ có thể được áp dụng cho hình ảnh để giảm khả năng hiển thị quang sai coma. |
19853136 | https://vi.wikipedia.org/wiki/You%27ve%20Got%20Another%20Thing%20Comin%27 | You've Got Another Thing Comin' | "You've Got Another Thing Comin'" là một bài hát của ban nhạc heavy metal người Anh Judas Priest. Bài hát lần đầu được phát hành trong album Screaming for Vengeance (1982) và bày bán dưới dạng đĩa đơn chậm một năm. Đây là một trong những bài hát trứ danh của Judas Priest cùng với "Breaking the Law", "Painkiller", ''Living After Midnight", "Electric Eye" và "Turbo Lover", ngoài ra trở thành tiết mục không thể thiếu trong các lần ban nhạc biểu diễn trực tiếp. "You've Got Another Thing Comin'" lần đầu được thể hiện ở buổi hòa nhạc khai mạc Vengeance World Tour tại Nhà thi đấu Stabler ở Bethlehem, Pennsylvania vào ngày 26 tháng 8 năm 1982, và đã được thể hiện tổng cộng 673 lần ở Epitaph Tour (2012).
Hoàn cảnh
Ca sĩ Rob Halford cho biết lời bài hát nói về "cái thái độ mà chúng tôi luôn thể hiện ở Priest. Và tôi dám nói rằng, chúng tôi luôn sở hữu thái độ ấy ở cách xử lý những vấn đề đời tư thách thức chúng tôi. ... Nó còn được bao trùm trong văn hóa cộng đồng heavy metal, là cách chúng ta hỗ trợ lẫn nhau bằng nhạc metal. Đây thực chất là bài hát về niềm hi vọng và sự vượt lên nghịch cảnh hoặc khó khăn xảy đến với bạn. Đó cũng là bài hát nói về sự kiên cường." Ngoài ra, "You've Got Another Thing Comin là bài được bổ sung vào album Screaming for Vengeance vào phút chót.
Xếp hạng
"You've Got Another Thing Comin'" lọt vào các bảng xếp hạng ở hai quốc Liên hiệp Anh và Hoa Kỳ. Ca khúc giành vị trí số 67 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành bài hát duy nhất của Judas Priest lọt được vào bảng xếp hạng ấy. Tại Anh, bài hát vươn đến vị trí cao nhất là hạng 66 tại UK Singles Chart; ngoài ra bài còn đạt hạng bốn trên bảng xếp hạng Billboard rock chart.
Video âm nhạc
Video âm nhạc (MV) bài hát do Julien Temple làm đạo diễn, và được ghi hình tại khu bảo tồn Kempton Park. Trong MV, ban nhạc biểu diễn bên ngoài trạm bơm với nền laser và khói. Trong khi đó, một nhân vật có thẩm quyền cao hơn tới để ngăn nhóm biểu diễn do gây ồn, rồi đầu ông ta bị nổ tung, còn quần bị bật khỏi người ở cuối MV sau một cú phẩy tay của Halford.
Đón nhận
Wayne Parry của Associated Press thấy rằng ca khúc cùng với "Hell Bent for Leather" và "Living After Midnight" là "tiêu chuẩn để đánh giá những bài nhạc metal khác". Greg Prato của AllMusic thì viết rằng bài hát là thứ sau cùng đưa Judas Priest vào thị trường nhạc đại chúng ở Hoa Kỳ.
Theo Steve Huey cũng của AllMusic, "You've Got Another Thing Comin'" là bài trứ danh của ban nhạc.
Tháng 5 năm 2006, VH1 liệt bài hát vào danh sách 40 ca khúc nhạc metal hay nhất mọi thời đại. Năm 2012, Loudwire xếp ca khúc ở hạng chính trong danh sách 10 bài hát hay nhất của Judas Priest, còn vào năm 2019, Louder Sound liệt ca khúc ở hạng bốn trong danh sách 50 bài hát hay nhất của Judas Priest.
Trong truyền thông
Bài hát có mặt ở nhiều trò chơi video, ví dụ bài đã xuất hiện trên máy hát tự động ở mức chơi đầu tiên của Prey; trong trạm phát thanh V-Rock của Grand Theft Auto: Vice City; nội dung nhạc số trong loạt Rock Band (bên cạnh các bài còn lại của album Screaming for Vengeance), Rock Band Track Pack Volume 2; và một cover của ca khúc có mặt trong Guitar Hero. Ca khúc còn xuất hiện trong Major League Baseball 2K9 của 2K Sports và NHL 12 của EA Sports.
Bài hát đã xuất hiện trong một tập phim của Californication (2013) và tập phim "The Orpheus Gambit" ở mùa thứ 11 của Archer.
Bài hát cũng được bật trong nhà của Wayne Potts ở tập năm của Mare of Easttown.
Xếp hạng
Chú thích
Đĩa đơn của Columbia Records
Bài hát năm 1982
Đĩa đơn năm 1988
Đĩa đơn năm 1982
Bài hát của Judas Priest
Bài hát do Rob Halford sáng tác
Bài hát do K. K. Downing sáng tác
Bài hát do Glenn Tipton sáng tác
Video âm nhạc do Julien Temple đạo diễn |
19853142 | https://vi.wikipedia.org/wiki/LPL%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202024 | LPL mùa giải 2024 | LPL mùa giải 2024 là mùa giải thứ 12 của League of Legends Pro League (LPL), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của Trung Quốc dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giải: Mùa Xuân và Mùa Hè. Giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu vào ngày 22 tháng 1 năm 2024.
Giải Mùa Xuân
Vòng bảng giải Mùa Xuân sẽ diễn ra từ ngày 22 tháng 1 đến ngày 27 tháng 3 năm 2024. 17 đội sẽ chơi tổng cộng 136 trận và tất cả các trận đấu Vòng bảng sẽ được thi đấu theo thể thức Bo3. Mười đội dẫn đầu Vòng bảng sẽ tiến vào Vòng loại trực tiếp. Hai đội đứng đầu vòng loại trực tiếp Giải Mùa Xuân đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2024.
Vòng bảng
Vòng loại trực tiếp
Tham khảo
Liên Minh Huyền Thoại năm 2024 |
19853155 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20%C4%91%C6%B0%C6%A1ng%20c%E1%BB%A5c%20%C4%90%C3%A0i%20Loan | Nhà đương cục Đài Loan | Nhà đương cục Đài Loan () còn gọi là Nhà chức trách Đài Loan (台湾有关方面), Nhà cầm quyền Đài Loan (台灣方面) gọi tắt là Đài đương cục (台当局), nghĩa là Nhà đương cục Đài Loan, Trung Quốc (中國台灣當局), đề cập đến chính quyền khu vực cai trị Đài Loan, Trung Quốc và hàm ý nói tới chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, và nhà lãnh đạo chính trị của nó là người đứng đầu chính quyền Đài Loan. Đây là một trong những thuật ngữ liên quan đến Đài Loan được Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định và cấm sử dụng thuật ngữ “Chính phủ Đài Loan”. Ngoài ra, các chính phủ và tổ chức quốc tế có quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng sử dụng tên này để biểu thị rằng họ không phải là "chính phủ". Nếu từ bị vô hiệu hóa, nghĩa sẽ ngược lại.
Tổng quan
Theo nguyên tắc một Trung Quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố rằng họ đã thay thế Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc trở thành chính phủ Trung Quốc duy nhất kể từ khi chính phủ nước này được thành lập vào năm 1949. Nó phủ nhận tính hợp pháp của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc kể từ khi nước này dời sang Đài Loan vào năm 1949 nên sử dụng thuật ngữ nhà đương cục Đài Loan. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố rằng họ là một quốc gia độc lập và có chủ quyền và thường gọi chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bằng những cái tên như nhà đương cục Trung Quốc (中國當局), nhà đương cục Đại Lục (大陸當局), nhà đương cục Trung Cộng (中共當局) và nhà đương cục Bắc Kinh (北京當局).
Cách sử dụng
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
Đảng Cộng sản Trung Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sử dụng những thuật ngữ mang tính xúc phạm như chính phủ phái phản động Quốc dân Đảng và tập đoàn thống trị phản động Quốc dân Đảng để chỉ chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tồn tại từ tháng 4 năm 1927 khi Tưởng Giới Thạch thành lập chính phủ Quốc dân riêng ở Nam Kinh cho đến lúc Quân Giải phóng Nhân dân chiếm được Nam Kinh trong chiến dịch vượt sông Trường Giang năm 1949.
Từ "phản động" được đưa ra như một định nghĩa mang tính tiêu cực. Kể từ khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949 và sự chia cắt hai bờ eo biển Đài Loan, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc và chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã không công nhận lẫn nhau. Trung Hoa Dân Quốc gọi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là Cộng sản Trung Quốc. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng dựa trên nguyên tắc một Trung Quốc và chưa bao giờ công nhận tính “hợp pháp” của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc được định nghĩa là “nhà cầm quyền địa phương trên lãnh thổ Trung Quốc”. Ngoài ra, nó có thể được định nghĩa là chính quyền quá cố, chính quyền ly khai và chính phủ bất hợp pháp. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc nằm dưới sự đại diện của Tập đoàn Tưởng Giới Thạch, nhà cầm quyền Quốc dân Đảng, tập đoàn thống trị Quốc dân Đảng và nhà đương cục Đài Loan.
Năm 1987, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa coi các danh hiệu chính thức như "Trung Hoa Dân Quốc" là "ngụy xưng" trong các tài liệu chính thức. Theo các quy định liên quan của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Tân Hoa Xã, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc chuyển đến Đài Loan sau năm 1949 không được gọi trực tiếp bằng danh xưng này. Văn phòng Sự vụ Đài Loan đã trả lời về việc một số sách giáo khoa lịch sử ở Hồng Kông thay đổi câu “Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc chuyển đến Đài Loan” thành “Trung Quốc Quốc dân Đảng chuyển đến Đài Loan”. Chính quyền Quốc dân Đảng… rút lui về đảo Đài Loan và từ đó mất tư cách đại diện cho chính phủ hợp pháp của toàn Trung Quốc”.
Một số tác giả từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, dựa vào thuật ngữ “nhà đương cục Đài Loan” và thực tế là các quan chức của cả hai bờ eo biển Đài Loan gặp nhau thường xuyên và gọi nhau bằng chức danh chính thức dưới thời chính phủ Mã Anh Cửu, tin rằng chính phủ hai bờ eo biển Đài Loan đều "'ngầm thừa nhận' 'tính hợp pháp' trong quyền lực công của nhau ở các cấp hành chính nhất định và trong các lĩnh vực nhất định".
Bên ngoài Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Cộng đồng quốc tế bên ngoài Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có định nghĩa chính trị khác về chính phủ Trung Hoa Dân Quốc so với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngay cả khi “Đài Loan không được coi là một quốc gia có chủ quyền”, thì nó thường không được coi là một chế độ bất hợp pháp hoặc chính quyền địa phương, mà là một “chính phủ trên thực tế”. Chính phủ các nước có quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng sử dụng các thuật ngữ như “nhà đương cục Đài Loan”. Ví dụ, sau khi chính phủ Mỹ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1979, họ gọi nước này là “Cơ quan quản lý Đài Loan” trong Đạo luật Quan hệ Đài Loan.
Ngày 28 tháng 3 năm 2022, Thượng viện Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Cạnh tranh Hoa Kỳ, yêu cầu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và các cơ quan chính phủ khác ngừng đề cập đến chính phủ được bầu cử dân chủ của Đài Loan là chính phủ Trung Hoa Dân Quốc bằng “nhà đương cục Đài Loan” (Taiwan Authorities) lỗi thời. Đinh Thụ Phạm, giáo sư danh dự tại Viện Đông Á thuộc Đại học Chính trị Quốc gia, cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do, “Việc thay đổi cách sử dụng 'nhà đương cục Đài Loan' sẽ không phải là ưu tiên của chính phủ Biden. Nếu không gọi là 'nhà đương cục Đài Loan' thì nên đưa ra tuyên bố gì mới trên truyền thông và họp báo? Chúng ta không thể nói về chính phủ Đài Loan. Nếu nhắc đến chính phủ Đài Loan thì chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Bắc Kinh sẽ nhảy vào thế chỗ ngay lập tức.
Ngày 14 tháng 9 cùng năm, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Chính sách Đài Loan, trong đó bao gồm 102 mục vừa và nhỏ, "chấm dứt tập quán lỗi thời gọi Chính phủ Đài Loan là "Nhà đương cục Đài Loan". Trong vụ kiện trọng tài Biển Đông, bài viết của trọng tài từng gọi chính phủ Trung Hoa Dân Quốc là “nhà đương cục Đài Loan, Trung Quốc”.
Tham khảo
Đài Loan
Trung Hoa Dân Quốc
Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc |
19853162 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hugo%20%28nh%C6%B0%E1%BB%A3ng%20quy%E1%BB%81n%20th%C6%B0%C6%A1ng%20m%E1%BA%A1i%29 | Hugo (nhượng quyền thương mại) | Hugo (Skærmtrolden Hugo trong tiếng Đan Mạch, có nghĩa là "Hugo the Screen-Troll") là một nhượng quyền truyền thông được tạo ra bởi Interactive Television Entertainment (sau này là ITE Media) của Đan Mạch vào năm 1990 với mục đích truyền hình tương tác dành cho trẻ em. Dựa trên nhân vật hư cấu của Hugo, một quỷ lùn trong văn hóa dân gian Scandinavia thân thiện, tham gia vào cuộc xung đột chống lại một phù thủy độc ác, thường là để cứu gia đình của anh. Kể từ khi ra mắt vào năm 1990, chương trình truyền hình Hugo đã được phát sóng ở hơn 40 quốc gia, tạo ra hàng loạt trò chơi điện tử cho nhiều thể loại khác nhau nền tảng. Hugo sản sinh ra các loại hàng hóa khác, bao gồm cả các tạp chí chuyên dụng. Tính đến năm 2012, phần thương mại của nhượng quyền thương mại chủ yếu bao gồm các trò chơi di động được phát hành bởi Hugo Games của Đan Mạch (được đổi tên thành 5th Planet Games vào năm 2018).
Bối cảnh và nhân vật
Lấy bối cảnh trong một vũ trụ giả tưởng đương đại bằng hoạt hình. Nhân vật chính của chương trình/loạt trò chơi Hugo là một con quỷ lùn cao một mét sống trong "Khu rừng quỷ lùn" nằm ở đâu đó ở Scandinavia. Gia đình của Hugo bao gồm người vợ yêu quý Hugolina (Hugoline trong phiên bản gốc tiếng Đan Mạch) và ba đứa con của họ là Rit (TrolleRit), Rat (TrolleRat) và Rut (TrolleRut). Nhân vật phản diện chính của họ là Scylla độc ác (Afskylia, được đặt tên khác trong một số phiên bản địa phương như Hexana trong tiếng Đức), một phù thủy cổ xưa và độc ác có mối hận thù với loài quỷ lùn từ nhiều thế kỷ trước và Hugo luôn cản đường cô. Scylla thường bắt cóc gia đình Hugo vì cô cần sự hiện diện của họ để khôi phục và giữ lại tuổi trẻ cũng như vẻ đẹp của chính mình do một lời nguyền, và sử dụng phép thuật và tay sai của mình cũng như nhiều cạm bẫy khác nhau để ngăn Hugo giải cứu gia đình anh hoặc phá vỡ những âm mưu khác của cô. Các nhân vật được thêm vào sau này hầu hết là những sinh vật không phải con người và động vật nhân hình, bao gồm cả bạn bè của Hugo (chẳng hạn như chú chim toucan Fernando và con tinh tinh Jean Paul ở Đảo Jungle) và nhiều kẻ thù khác của Hugo (đặc biệt là những kẻ trung thành nhưng ngu ngốc của Scylla). Tay sai Don Croco dẫn đầu đội quân cá sấu hình người trên Đảo Jungle để bảo vệ tình nhân của mình và giúp cô đàn áp người Kikurian, một bộ tộc nguyên thủy gồm các sinh vật bản địa trên đảo). Tất cả những điều này được trình bày một cách hài hước, mặc định phù hợp với trẻ em từ 4–14 tuổi. Ivan Sølvason - người sáng tạo Hugo chia sẻ rằng thông điệp dự định của chương trình là dạy trẻ em cách bảo vệ gia đình mình bằng bất cứ giá nào, bao gồm cả việc mạo hiểm tính mạng để cứu họ nếu cần.
Một số trò chơi điện tử sau này và các phiên bản chuyển thể khác đã loại bỏ mô típ bắt cóc Hugolina thông thường, khiến Scylla mặc định xinh đẹp nhưng vẫn độc ác hơn bao giờ hết. Trong câu chuyện của họ, Scylla thường tìm cách đích thân trả thù Hugo hoặc thậm chí cố gắng tiêu diệt bọn quỷ lùn khắp nơi một lần và mãi mãi, gây ra những trò nghịch ngợm khác như tấn công ông già Noel, người bạn cũ của Hugo trong phiên bản trò chơi dịp lễ Giáng sinh, hoặc tìm kiếm sức mạnh tối thượng để chiếm lấy thế giới, và một số người thậm chí còn bỏ Scylla làm nhân vật hoàn toàn. Vào năm 2001, một nhân vật kẻ thù nhỏ hải ly đã nhận được chương trình phụ của riêng mình, có tựa đề Stinky & Stomper. Trong phần khởi động lại khoa học viễn tưởng năm 2005 có tựa đề Đặc vụ Hugo, Hugo đã trở thành James Bond - nhại đặc vụ tương lai với tư cách là nhân viên của tổ chức gián điệp chống tội phạm R.I.S.K. để chiến đấu chống lại kẻ thù công nghệ cao như các nhà khoa học điên cuồng và người máy.
Lịch sử
Ý tưởng về một chương trình truyền hình trò chơi tương tác được hình thành vào năm 1987 bởi Ivan Sølvason, người sáng lập studio trò chơi điện tử ban đầu rất nhỏ SilverRock Productions và cựu tổng biên tập của Oberoende Computer, cũng là người tạo ra chương trình truyền hình tương tác OsWALD được thực hiện cho Nordisk Film trên TV 2 vào năm 1988, và Niels Krogh Mortensen, một họa sĩ hoạt hình. Công ty nhỏ SilverRock Productions của Sølvason, sau này được đổi tên thành Interactive Television Entertainment (ITE) ApS vào năm 1992, đã phát triển nhân vật Hugo cũng như hệ thống phần cứng máy tính được thiết kế riêng, được chỉ định để chuyển đổi tín hiệu điện thoại DTMF thành điều khiển từ xa các nhân vật trong trò chơi và cho phép khán giả tương tác với hành động trên TV mà không bị chậm trễ. Sølvason và Krogh Mortensen đã tạo ra khái niệm "Hugo the TV troll" và chương trình truyền hình Hugo đầu tiên được lên sóng vào tháng 9 năm 1990. Since the show's second season, the player's objective has been usually to help Hugo free his wife and children from Scylla's captivity. Kể từ mùa thứ hai của chương trình, mục tiêu của người chơi thường là giúp Hugo giải thoát vợ con khỏi sự giam cầm của Scylla. Hugo phải trải qua một trong những môi trường trò chơi khác nhau trước khi đến được một trong những hang ổ của Scylla, tránh nhiều bẫy và những nguy hiểm khác trong khi thu thập vàng trên đường đi. Sau khi kết thúc trò chơi, họ sẽ nhận được phần thưởng theo điểm số trò chơi đạt được, dựa trên thành tích của người đó trong kịch bản chính nhưng phụ thuộc rất nhiều vào việc Hugo đã thể hiện tốt như thế nào trong nhiệm vụ cuối cùng và hoàn toàn dựa trên may mắn của mình để giải cứu gia đình mình, với phần thưởng đặc biệt khi bắt được Scylla.
Hugo được sáng tạo bởi Krogh Mortensen khi anh đang đạp xe tới nhà bà ngoại từ Hellerup đến Gladsaxe vào mùa xuân năm 1990. Nhân vật Hugo ban đầu được cho là có tên Max, nhưng nhà sản xuất Eleva2ren, là John Berger nhất quyết lấy tên Hugo và buộc ITE phải đổi tên và logo khoảng một tuần trước khi công chiếu. Tên mới gây ra vấn đề về nhãn hiệu vì nó đã được Hugo Boss đăng ký ở hầu hết các nước Châu Âu, trong khi ITE A/S lần đầu tiên được đăng ký ở Đan Mạch và Bồ Đào Nha và có khả năng ngăn cản Hugo Boss tung ra bất kỳ sản phẩm nào tại các thị trường này. Cuối cùng, cả hai công ty đã đạt được thỏa thuận cùng tồn tại với sự giúp đỡ của luật sư nội bộ Nina Wium của ITE. ITE cũng đấu tranh hết mình chống lại mọi nỗ lực lạm dụng "danh tiếng và danh tiếng tốt" của Hugo, dẫn đến hơn 170 vụ kiện chống lại các nhà sản xuất và quảng cáo tại Đan Mạch.
Các chương trình đã được được cấp phép trong hơn 40 (43 vào năm 2007) chương trình truyền hình trên khắp thế giới, được điều chỉnh cho phù hợp với từng thị trường. Nhiều trong số hơn nửa tỷ khán giả tin rằng chương trình này có nguồn gốc từ đất nước của họ, vì Hugo chỉ nói tiếng Đan Mạch ở Đan Mạch. Đến năm 1994, tờ Datormagazin của Thụy Điển đã so sánh mức độ phổ biến ở Châu Âu của Hugo, với việc nó chuyển sang lĩnh vực buôn bán, với mức độ phổ biến của Ninja Turtles. Trên kênh kabel eins bằng tiếng Đức, cũng có một chương trình phụ có tựa đề Hexana-Schloss ("Lâu đài [Scylla's] của Hexana"). Một chương trình cao cấp hơn Hugo: Jungle Island (Hugo Vulkanøen) ra mắt vào tháng 1 năm 1999. ra mắt vào tháng 1 năm 1999.
Một số mặt hàng Hugo của Đan Mạch được phát hành độc quyền cho fanclub Den Faktyrlige Bogklub (Câu lạc bộ sách của Hugo), được thành lập với sự hợp tác của nhà xuất bản Carlsen Verlag của Đan Mạch vào năm 1999. Một công viên giải trí Hugo "khổng lồ" cũng đã được phê duyệt vào khoảng năm 2000.
Lúc đầu, Niels Krogh Mortensen thực hiện tất cả đồ họa và hoạt ảnh bằng cách sử dụng Deluxe Paint trên máy tính Amiga. Anh trai của ông là Lars Krogh Mortensen sau này đã hỗ trợ ông. Sau đó họ được tham gia bởi Torben B. Larsen, Jonas Fromm, Claus Friese, Anders Morgenthaler, Jakob Steffensen, Jonas Raagaard, Stephen Meldal Foged, Martin Ciborowski, Ulla Gram Larsen, và nhiều họa sĩ 2D, 3D khác. Cuối cùng, hơn 100 người đang làm việc để phát triển Hugo cho ITE. Niels Krogh Mortensen đã làm việc cho Hugo từ năm 1990 đến năm 1998. Trong thời gian này anh thường chỉ đạo và quản lý các dự án, anh cũng tạo bảng phân cảnh và vẽ đồ họa. Anh em Krogh Mortensen và Jakob Steffensen rời ITE vào năm 1997 và thành lập công ty riêng của họ, Krogh Mortensen Animation A/S (KMA). KMA sau đó đã được ký hợp đồng để làm hoạt hình cho một số trò chơi Hugo về sau.
Năm 2002, Sølvason bán ITE cho Olicom A/S, Olicom sau đó đã đầu tư 22 triệu USD vào công ty, giảm 1/3 số nhân viên của ITE xuống còn 60 nhân viên và cố gắng mở rộng hơn nữa sang thị trường Hoa Kỳ, Anh và Châu Á. Olicom lần lượt bán ITE vào năm 2006, lúc đó chỉ có 35 nhân viên, đến NDS Group, nơi trở thành NDS của Đan Mạch.
Bản quyền Hugo đã được mua lại bởi nhà phát hành trò chơi Đan Mạch Krea Medie A/S, một phần của công ty truyền thông Kraemedie. Vào tháng 10 năm 2012, Chủ sở hữu mới của Hugo, Henrik Kølle tuyên bố rằng: "Hugo Games A/S rất vui vì các quốc gia Hugo truyền thống, nơi Hugo được phát sóng vào những năm 90, vẫn yêu thích Hugo và dường như không thể có đủ. [...] Angry Birds đã chỉ đường cho chúng tôi đến đây, vì vậy hiện tại chúng tôi đang nỗ lực thực hiện, cùng với những thứ khác, một dự án phim, các thỏa thuận cấp phép thú vị về đồ chơi và cuối cùng chúng tôi hy vọng sẽ phát hành một trò chơi Hugo khác vào mùa hè năm 2013." Vào ngày 28 tháng 11 năm 2012, Krea Medie được Egmont Group mua lại, nhưng Hugo Games và các quyền đối với Hugo không nằm trong thỏa thuận mua bán với Egmont. Một chương trình truyền hình trực tiếp Hugo mới có thể đã được tiết lộ vào tháng 7 năm 2014. Hugo Games được sở hữu và quản lý bởi Henry Mallet, được định giá 56 triệu DKK và tạo ra thu nhập hàng năm khoảng 10 triệu DKK theo ước tính vào tháng 9 năm 2014 khi công ty được niêm yết để đầu tư với tên HUGO NewHold ApS.
Trò chơi điện tử chuyển thể
Các trò chơi của ITE
Niels Krogh Mortensen và anh trai Lars đã đạo diễn cho hơn 30 trò chơi Hugo và bán được hơn 10 triệu bản, trong đó có hơn ba triệu chỉ riêng ở Đức. Trò chơi được phát hành cho nhiều nền tảng, bao gồm máy tính cá nhân, máy chơi game và điện thoại di động. Hầu hết các tựa là tổng hợp trò chơi platform hoặc minigame, nhưng cũng có một số trò chơi giáo dục. Trong những trò chơi đầu tiên, Hugo cố gắng giải thoát gia đình mình khỏi mụ phù thủy Scylla trong những tình huống quen thuộc giống như trong chương trình truyền hình. Trong các trò chơi sau này, Hugo ngăn chặn những âm mưu trả thù phức tạp hơn của Scylla chống lại lũ quỷ và âm mưu nhằm đạt được sức mạnh ma thuật tối cao, và một số trò chơi hoàn toàn không có sự góp mặt của cô. Trong một số trò chơi, các thành viên trong gia đình của Hugo (thường cũng để ngăn cản Scylla), bạn bè của anh hoặc đôi khi thậm chí là kẻ thù của họ (trong trò chơi nhiều người chơi) được coi là nhân vật có thể chơi được ngoài hoặc thay vì Hugo. Không giống như những phần dựa trực tiếp trên chương trình truyền hình, bị giới hạn ở bối cảnh đã thiết lập, các mục khác trong loạt trò chơi Hugo có các thành viên trong gia đình Hugo đến thăm nhiều địa điểm trong thế giới thực và giả tưởng khác nhau.
Trò chơi đầu tiên trong loạt trò chơi Hugo dài kỳ được tạo ra vào năm 1991 cho Commodore 64, tiếp theo là các trò chơi dành cho Amiga, PC (DOS và Microsoft Windows), Game Boy và PlayStation. Ngoài ra còn có rất nhiều trò chơi trình duyệt nhỏ, trò chơi trình duyệt đầu tiên được phát hành vào năm 1996. Trò chơi nền tảng 3D đầu tiên (Hugo: Quest for the Sunstones) được ra mắt vào năm 2000. Bắt đầu từ năm 2005, Hugo đã được khởi động lại hoàn toàn với tên gọi Agent Hugo, hoàn chỉnh với một loạt bốn trò chơi hành động 3D mới. Các nhà phân phối và đối tác bao gồm Egmont Interactive, Electronic Arts và Namco; ở Thổ Nhĩ Kỳ, một số trò chơi đã được ra mắt bởi tờ báo Hürriyet.
Các trò chơi về sau
Năm 2009, nhà phát hành mới Krea Medie phát hành phiên bản khởi động lại hoàn chỉnh có tựa là Hugo – Magic in the Trollwoods (Hugo – Magi i Troldeskoven) không có mối liên hệ nào với bất kỳ nhân vật nào trong chương trình Hugo hay loạt phim Agent Hugo, trong đó quỷ lùn Hugo là một ảo thuật gia tập sự. Đã trở thành trò chơi duy nhất được liệt kê trên trang web chính thức của trò chơi, tất cả nội dung trước đó đã bị xóa hoàn toàn.
Tuy nhiên vào năm 2010, Krea đã phát hành một chương trình tạo trò chơi có phiên bản gốc của Hugo và các nhân vật cổ điển khác. Năm 2011, chủ sở hữu mới của công ty Henrik Kølle cho biết ông hy vọng rằng việc phát hành một trò chơi điện tử mới sẽ là "một trong nhiều bước thú vị hướng tới sự khởi đầu mới của Hugo như một thương hiệu toàn cầu." Krea dường như đã từ bỏ ý tưởng khởi động lại (đã bị xóa khỏi trang web chính thức) và đã thành công quay trở lại phiên bản gốc của loạt trò chơi với Hugo Retro Mania, bao gồm phiên bản gốc của Hugo và một kịch bản kinh điển về việc giải cứu gia đình anh bị phù thủy Scylla bắt giữ (được đổi tên thành "Sculla" trong phiên bản tiếng Anh). Henrik Kølle của Krea chia sẻ: "Lần đầu tiên kể từ khi mua lại Hugo, [Krea Medie] đã phát triển một dự án phù hợp với Hugo". Nhiệm vụ phát triển trò chơi mới được giao cho studio Hugo Games A/S được thành lập đặc biệt. Một trò chơi năm 2015 có tựa là Ronaldo & Hugo: Superstar Skaters có sự tham gia của cầu thủ bóng đá hàng đầu Cristiano Ronaldo. Hugo Games sau đó đã mua lại nhà phát triển Fuzzy-Frog Games vào năm 2017 và đổi tên thành 5th Planet Games, trong vài năm tập trung vào việc tạo các trò chơi slot trực tuyến dựa trên các nhân vật của Hugo và kịch bản cổ điển.
Dự án phim chuyển thể
Hugo and the Diamond Moon
Một bộ phim hoạt hình CGI bị hủy bỏ có tựa đề Hugo and the Diamond Moon đã được lên kế hoạch vào năm 1999 và phát hành vào cuối năm 2002. Kinh phí của nó được đặt vào khoảng 100 triệu DKK vào thời điểm đó lên tới 12–20 triệu USD. Nó được viết và dự kiến sẽ được đạo diễn bởi nhà làm phim hoạt hình và nhạc sĩ kỳ cựu của Disney và Pixar - Jørgen Klubien, và được lên kịch bản với hơn 8.000 bản phác thảo của Frank Madsen, Jørgen Klubien, Mike Cachuela và Mads Themberg. David Filskov, người đã làm hiệu ứng âm thanh cho Hugo trong nhiều năm, cũng có mặt trong dự án phim. Theo Giám đốc điều hành của ITE là Jesper Helbrandt, họ đã muốn làm một bộ phim hoạt hình Hugo trong nhiều năm. Theo kế hoạch, việc phát hành bộ phim sẽ đi kèm với một loạt sản phẩm đi kèm bao gồm đĩa nhạc phim, đồ chơi và trò chơi điện tử.
Trong phim, Hugo và ông nội được cho là sẽ "du hành tới mặt trăng kim cương" và kịch bản cho thấy Hugo chiến đấu với Scylla trong không gian. Tiền đề của cốt truyện được Helbrandt mô tả như sau: "Afskyelia [Scylla] đã tìm ra cách để đe dọa Hugo và những người bạn trong rừng của anh ta. Vì vậy, Hugo phải làm điều gì đó, và khi anh ta phát hiện ra một mặt trăng đằng sau mặt trăng mà chúng ta biết ngày nay, anh ta sẽ đặt Afskyelia đuổi theo anh ta. Nhưng tôi hứa với bạn rằng, thật không may cho cô ấy, câu chuyện sẽ kết thúc có hậu."
Tiền đề cốt truyện cơ bản của bộ phim giống với trò chơi giáo dục Hugo in Space, được phát hành năm 2003, một năm sau ngày phát hành dự kiến của bộ phim. Trong trò chơi này, cô dự định khai thác những viên kim cương đen ma thuật quý hiếm (được giới thiệu lần đầu trong một trò chơi hành động Hugo: Black Diamond Fever vào năm 2002) từ lõi của một tiểu hành tinh và trở thành phù thủy quyền năng nhất mọi thời đại, vì vậy Hugo và những đứa con của anh đuổi theo Scylla trên khắp Thái Dương hệ để tiêu diệt cô trước khi quá muộn.
Hugo – The World's Worst Comeback
Một phim CGI khác của Einstein Film (Ronal the Barbarian) và Anima Vitae (The Flight Before Christmas, Little Brother, Big Trouble: A Christmas Adventure) được công bố chính thức khi đoạn giới thiệu teaser bộ phim được đăng tải vào ngày 20 tháng 2 năm 2013. Phim do Petteri Pasanen và Trine Heidegaard sản xuất, Philip Einstein Lipski và Mikko Pitkänen đạo diễn, và được viết bởi Tim John và Timo Turunen. Quỹ điện ảnh Phần Lan SES tài trợ 50.000 Euro cho dự án. Cũng được hỗ trợ phát triển từ Creative Europe. Bộ phim dự kiến bắt đầu sản xuất vào năm 2014 và dự kiến phát hành vào năm 2016, tuy nhiên sau đó đã bị hủy bỏ một cách lặng lẽ.
Tiền đề cốt truyện của bộ phim như sau: "Hugo, một cựu ngôi sao chương trình trò chơi truyền hình, hiện là người gác cổng khách sạn và là ông bố đơn thân, bị dụ dỗ quay trở lại. Con gái của ông, lần đầu tiên bị mê hoặc bởi một ông bố nổi tiếng, nhanh chóng nhận ra mình bị bỏ rơi và phải đưa bố cô trở về nhà tham gia chương trình mới của Hugo. Trong khi đó, kẻ thù cũ của Hugo, tên quỷ núi Fredo, đã đánh cắp vị trí của Hugo trong chương trình. Con gái của Hugo cuối cùng phải chiến đấu với tên quỷ núi hung hãn cải trang thành bố cô trên truyền hình trực tiếp, buộc Hugo phải thực hiện nhiệm vụ cuối cùng của mình: làm thế nào để thoát khỏi danh tiếng và cứu con gái mình." Scylla cũng được cho là sẽ tham gia vào bộ phim.
Phim spin-off về sân khấu và truyền hình
Chương trình sân khấu
Năm 1996, vở nhạc kịch The Magical Kingdom of Hugo (הממלכה הקסומה של הוגו) được trình diễn ở Tel Aviv, Israel, kể câu chuyện về một nhóm trẻ em bị phù thủy Griselda (גריזלדה, tên bằng tiếng Israel của Scylla) triệu hồi trực tiếp đến Trollandia - thế giới của Hugo. Bản ghi âm của vở nhạc kịch cũng được phát hành thương mại trên VHS vào năm 1997, và một đĩa CD gồm các bài hát trong vở nhạc kịch cũng đã được phát hành.
Một chương trình biểu diễn sân khấu tương tác của Thổ Nhĩ Kỳ dành cho trẻ em từ 3–6 tuổi có tên là Hugo ve Tolga Abi Cadı Sila`ya Karşı (Hugo và Tolga chống lại phù thủy Scylla) được chiếu ở Istanbul năm 2004–2005, do Recep Özgür Dereli đạo diễn. Trong đó, Scylla (Sila) do Eda Özdemir thủ vai và Don Croco (Donkroko) giăng bẫy mới cho Hugo và gia đình anh.
Hugo Safari
Loạt phim tài liệu hoạt hình dành cho trẻ em có tên Hugo Safari được sản xuất năm 1999–2000, do Elsa Søby đạo diễn. Phim tài liệu gồm ba phần, mỗi phần có bảy tập. Bộ phim tài liệu này đã được phát sóng ở một số quốc gia và cũng đã được ITE phát hành trên các phương tiện truyền thông gia đình trên đĩa DVD. Krae sau đó đã phát hành một số tập miễn phí trên Internet và những kênh khác để mua dưới dạng ứng dụng iPhone/iPad.
Phương tiện truyền thông khác
Tạp chí
Các nhân vật của Hugo cũng là chủ đề của một số tạp chí chuyên dụng định kỳ, bao gồm Hugo Magazin / Hugo News ở Đức (1999–2003), A jugar con Hugo ở Argentina (1995–2006), Haftalık Hugo và Hugo Çocuk Dergisi ở Thổ Nhĩ Kỳ và Świat Przygód z Hugo ở Ba Lan (2003–2010, cùng với tạp chí phụ về sách tô màu Baw Się i Koloruj z Hugo).
Âm nhạc
Bốn album nhạc gốc của Đan Mạch (chủ yếu là dance và hip hop) đã được phát hành từ năm 1990 đến năm 1991: Hugo Rap!, Hugo Er En Skærmtroll, Ta Det Bare Roligt và Trolde Rock, tiếp theo là Det`Så Skønt at være Dansker! vào năm 1994. Album từ thiện của nhiều nghệ sĩ khác nhau, DJ Hugo, được phát hành ở Phần Lan vào năm 1993, bao gồm các bài hát của Ace of Base (Young and Proud), của DJ Bobo (Keep on Dancing!) và Double You (Who's Fooling Who).
Nhiều tuyển tập album nhạc gốc và được cấp phép của nhiều nghệ sĩ khác nhau đã được phát hành ở Đức vào giữa những năm 1990. Chúng bao gồm Hugo Rap: Der Song Zur Interaktiven Gameshow (pop rap, 1994) và Hoppla Hugo (euro house, 1995); Hugo & The Witch – I Know It's Heaven (house, progressive trance, garage house, 1995); Hugo feat. Judith: Show me the Way (euro house, 1996); Hugo's Mega Dance (techno, euro house, euro pop, 1994), Hugo's Mega Dance 2 (techno, euro house, happy hardcore, hip hop, 1995), Hugo's Mega Dance '96 (techno, house, euro pop, 1996), Hugo's Mega Dance '96 – Frühlings-Hits (techno, euro house, happy hardcore, hip hop, 1996), Hugo's Mega Dance '96 – Die Dritte (techno, euro house, happy hardcore, hip hop, 1996), Hugo's Mega Dance '97 (techno, euro house, hip hop, synth-pop, 1997), và Hugo's Mega Dance '97 – Frühlings-Hits.
Ở Ba Lan, album nhạc gốc Hugo and Friends Śpiewają Piosenki được phát hành vào năm 2002. Để quảng bá trò chơi điện tử Hugo, nhà phân phối Cenega Poland của Ba Lan của họ đã tổ chức một chuyến lưu diễn hòa nhạc của Hugo cùng với Bartek Wrona của nhóm nhạc nam Just 5.
Sách và sách nói
Bộ sách Hugo đã bao gồm sách hoạt động và sách hình dán của Đan Mạch, the latter including picture book Hugo i de afskyelige labyrinter (an adaptation of the original game) và cuốn sau bao gồm cuốn sách ảnh Hugo i de fantastiske labyrinter (chuyển thể từ trò chơi gốc Hugo: Cannon Cruise). Một số bộ ách ở các quốc gia khác bao gồm bộ truyện tranh Hugo của Koren Shadmi (Israel), Bộ sách hoạt động Księga Labiryntów Hugo của Ba Lan, và một loạt sách nhỏ dành cho trẻ em Trolls Story của Ba Lan. Ngoài ra còn có sách truyện nói (băng cassette sách nói được phát hành cùng với sách thiếu nhi mô phỏng) Hugo: Cadı Sila'ya Karşı của Thổ Nhĩ Kỳ và một cuốn sách nói về câu chuyện Giáng sinh Hugo og det Fortryllede Agern ("Hugo and the Enchanted Acorn") của Đan Mạch.
Hàng hóa đa dạng
Tại Đan Mạch, quê nhà của thương hiệu Hugo, các mặt hàng được ITE cấp phép bao gồm các sản phẩm thực phẩm (chẳng hạn như kem lạnh và kẹo), cũng như nhiều loại hàng hóa khác, bao gồm hai trò chơi với bàn cờ (dựa trên mùa đầu tiên và thứ hai của chương trình), mô hình nhỏ, tranh ghép hình, đồng hồ và ba lô. Thương hiệu Hugo rất được ưa chuộng trong nước, chẳng hạn như đã bán hết hơn 35.000 chiếc khăn tắm trong vài tuần, trong khi nhà máy bánh kẹo Cloetta của Thụy Điển cố gắng tăng thị phần của mình trên thị trường Đan Mạch từ 4 đến 35% trong suốt 18 tháng của chiến dịch cấp phép Hugo. Ngoài ra còn có một máy đánh bạc theo chủ đề Hugo dựa trên kịch bản mỏ vàng.
Việc buôn bán các mặt hàng Hugo ở các quốc gia khác bao gồm băng cassette nhạc và album sticker ở Chile, trò chơi với bàn cờ Hugo ở Thụy Điển, và kể từ đó trở đi. Ở Đức bao gồm các mặt hàng quần áo (áo phông, áo nỉ, áo hoodie, tất), búp bê (Hugo và gia đình của anh), mô hình nhân vật PVC (Hugo, gia đình của anh, Fernando và Scylla), và áp phích. Ở Israel bao gồm ứng dụng trình duyệt Tamahugo, bộ dụng cụ học tập và đồ chơi. Ở Ba Lan, bao gồm nhiều sản phẩm thực phẩm khác nhau (chẳng hạn như thanh sô cô la của Groupe Danone, snack khoai tây của Lorenz Snack-World, và dòng nước ép trái cây của SokPol) và nhiều đĩa CD-ROM khác nhau (âm thanh, đồ họa, minigame). Ở Slovenia bao gồm đồ uống vitamin, trà, áo phông, ghim, kẹo và tranh ghép hình.
Trong sản phẩm đầu tiên của Krea Medie/Hugo Games, Adimex đã phát hành dòng sản phẩm tắm theo chủ đề Hugo Troll Race vào năm 2013. Cùng năm đó, Hugo Games đã đàm phán hợp tác mới với công ty trò chơi Tactic của Bắc Âu để có đầy đủ dòng sản phẩm bao gồm sách tô màu, sách hoạt động, sách hình dán và tranh ghép hình cho Đan Mạch, Phần Lan, Iceland, Na Uy và Thụy Điển ra mắt vào năm 2013 và 2014; the line is based on classic Hugo artworks. Cũng trong năm 2014, bánh quy theo chủ đề Hugo đã được ra mắt bởi Karen Volf của Đan Mạch dựa trên trò chơi mới, và YOUNiik khai trương cửa hàng với thiết kế Hugo. Trò chơi slot theo chủ đề Hugo đầu tiên được phát hành vào năm 2016, tiếp theo là nhiều hơn nữa trong những năm tiếp theo.
Đón nhận
Chương trình đoạt giải chương trình giải trí hay nhất ở 8 quốc gia, trong đó có giải Cáp Vàng cho chương trình thiếu nhi hay nhất năm 1995 ở Đức, danh hiệu chương trình thiếu nhi được đánh giá hay nhất mọi thời đại năm 1996 ở Thụy Điển, giải thưởng Troféu Nova Gente năm 1999 ở Bồ Đào Nha, giải the TV Presenter of the Year award năm 2001 và the Oireachtas TV Personality of the Year ở Ireland năm 2004 và Best Kids Show 2003 tại Martín Fierro Awards của Argentina. Doanh số trò chơi Hugo vượt qua 6 triệu bản vào năm 2001 và 8,5 triệu bản vào năm 2005. Năm 2012, trò chơi di động Hugo Troll Race "đã đánh bại mọi kỷ lục về doanh số trò chơi ở Đan Mạch" với hơn 1 triệu lượt tải xuống trên toàn thế giới chỉ trong ba ngày và là "trò chơi Đan Mạch bán chạy nhất mọi thời đại trên App Store và hiện là ứng dụng được tải xuống nhiều nhất ở 25 quốc gia."
Ảnh hưởng văn hóa
Năm 2001, một hình nộm Afskylia (Scylla) cao 20 mét đã lọt vào Sách kỷ lục Guinness với tư cách là hình nộm phù thủy lớn nhất từng bị đốt cháy tại lễ hội Sankt Hans (lễ hội Danish Midsummer). Năm 2009, nhượng quyền thương mại Hugo đã được chọn làm phần trung tâm của cuộc triển lãm di sản kỹ thuật số của đất nước tại Thư viện Hoàng gia Đan Mạch. Một thí sinh của Thần tượng âm nhạc Việt Nam - Đức Anh Hugo (tên thật là Lê Đức Anh) đặt biệt danh theo Hugo, cũng như người dẫn chương trình, diễn viên, ca sĩ, doanh nhân người Việt Nam Thanh Vân Hugo (tên thật là Nguyễn Thanh Vân), trong khi biệt danh Simla của nữ ca sĩ Uyên Linh lại bắt nguồn từ tên tiếng Việt của Scylla. Năm 2019, lực lượng cảnh sát Balkan và Europol đã phát động Chiến dịch chống người di cư Hugo/River/Mordana (Mordana là tên của Scylla trong khu vực).
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức (ITE)
Thương hiệu truyền thông đại chúng được giới thiệu năm 1990
Truyền thông đại chúng Đan Mạch
Thương hiệu trò chơi điện tử |
19853176 | https://vi.wikipedia.org/wiki/R%C3%A1i%20c%C3%A1 | Rái cá | Rái cá (danh pháp khoa học: Lutrinae) là một nhóm động vật có vú ăn thịt sống dưới nước hay đại dương, thuộc một phần của họ Chồn (Mustelidae), họ bao gồm chồn, chồn nâu, lửng, cũng như một vài loài khác. Với 13 loài trong 7 chi, rái cá phân bố khắp nơi trên thế giới.
Tiếng Việt còn gọi rái cá là con tấy.
Đặc điểm cơ thể
Rái cá có lớp lông trong dày (1.000 lông/mm²) và mịn được bảo vệ bởi lớp lông ngoài giữ cho chúng khô ráo dưới nước và giữ lại một lớp không khí để giữ ấm.
Tất cả các loài rái cá có thân dài, mỏng và thuôn linh động uyển chuyển; chân ngắn và có màng chân. Phần lớn có vuốt sắc để chụp con mồi, nhưng rái cá vuốt ngắn của Nam Á chỉ có vuốt dấu tích còn lại và hai loại rái cá châu Phi có mối quan hệ gần gũi không có vuốt: các loài này sống ở các con sông đầy bùn của châu Phi và châu Á và xác định vị trí con mồi bằng xúc giác.
Chế độ ăn uống
Rái cá không phụ thuộc duy nhất vào bộ lông đặc biệt của mình để sống sót trong nước lạnh nơi có nhiều loài sinh sống: chúng cũng có một tốc độ trao đổi chất rất cao và tiêu hao năng lượng với nhịp độ hoang phí: rái cá Âu-Á chẳng hạn, phải ăn một lượng thức ăn bằng 15% khối lượng cơ thể chúng mỗi ngày; rái cá biển thì từ 20 đến 25%, tùy theo nhiệt độ. Trong nước 10 °C một con rái cá cần bắt ít nhất 100g cá mỗi giờ đồng hồ, nếu ít hơn số đó nó sẽ không sống sót. Phần lớn chúng săn mồi 3-5 h mỗi ngày, nếu là con mẹ đang cho con bú thì cần săn mồi 8h mỗi ngày.
Phần lớn rái cá ăn cá làm thức ăn hàng đầu trong thực đơn của chúng, ngoài ra chúng còn ăn bổ sung ếch nhái, tôm và cua; một số còn chuyên ăn sò còn loại khác thì lại ăn động vật có vú nhỏ hoặc chim.
Các loài
Biểu đồ vẽ theo Koepfli và ctv. 2008 và Bininda-Emonds và ctv. 1999
Chi Lutra
Rái cá thường (Lutra lutra)
Rái cá lông mũi (Lutra sumatrana)
Rái cá Nhật Bản (Lutra nippon)
Chi Hydrictis
Rái cá cổ đốm (Hydrictis maculicollis)
Chi Lutrogale
Rái cá lông mượt (Lutrogale perspicillata)
Chi Lontra
Rái cá sông Bắc Mỹ (Lontra canadensis)
Rái cá sông Nam Mỹ (Lontra provocax)
Rái cá sông Tân nhiệt đới (Lontra longicaudis)
Rái cá biển Nam Mỹ (Lontra felina)
Chi Pteronura
Rái cá lớn (Pteronura brasiliensis)
Chi Aonyx
Rái cá không vuốt châu Phi (Aonyx capensis)
Rái cá vuốt bé (Aonyx cinerea)
Chi Enhydra
Rái cá biển (Enhydra lutris)
Chi †Megalenhydris
Chi †Sardolutra
Chi †Algarolutra
Chi †Cyrnaonyx
Rái cá sông Bắc Mỹ
Rái cá sông Bắc Mỹ (Lontra canadensis) đang trở thành một trong những loài bị săn bắt nhiều nhất để lấy da và lông tại Bắc Mỹ. Thức ăn chủ yếu của chúng là cá, tôm, sò...; đôi khi cả chim nữa. Rái cá sông Bắc Mỹ khi trưởng thành có thể dài đến 1m và nặng khoảng 5 đến 15 kg. Hiện nay, một số nước đã đưa loài này vào danh sách những loài động vật cần được bảo vệ, và xây dựng cả khu bảo tồn với mục đích chăm sóc những con bị thương hoặc bị ốm.
Rái cá biển
Rái cá biển sống chủ yếu dọc bờ biển Thái Bình Dương của Bắc Mỹ. Phạm vi sinh sống của chúng bao gồm phần nước nông ở eo biển Bering và vùng Kamchatka, kéo dài đến vùng biển phía nam Nhật Bản. Vì có bộ lông khá dày nên chúng trở thành con mồi cho những kẻ săn lông thú. Trước thời điểm năm 1911, Hiệp ước về lông các loài động vật biển đã đưa rái cá biển vào danh sách cần được bảo vệ. Do đó, ngành kinh doanh lông thú đã trở thành ngành kinh doanh phi lợi nhuận và loài rái cá vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Rái cá biển ăn các sò và các loại động vật không xương sống như trai, nhím biển, bào ngư. Chúng có khả năng sử dụng đá để mở vỏ của các loài này. Rái cá biển trưởng thành dài từ 1 đến 1.5m và cân nặng khoảng 35 kg. Mặc dù đã từng đứng bên bờ tuyệt chủng nhưng số lượng loài này đang ngày càng tăng lên, phân bố rộng rãi từ California đến Alaska. Không giống như phần lớn những loài động vật biển có vú khác như hải cẩu hay cá voi, rái cá biển không có lớp mỡ giữ ấm ở dưới da. Chúng giữ nhiệt dựa vào lớp không khí giữa lớp lông dày của mình. Rái cá biển dành phần lớn thời gian của mình ở dưới nước, trong khi những loài rái cá khác thông thường lại chỉ ở trên bờ.
Rái cá lớn
Rái cá lớn (Pteronura brasiliensis) sinh sống tại khu vực Nam Mỹ, đặc biệt là trên lưu vực sông Amazon. Tuy vậy, ngày nay chúng lại trở nên cực kỳ quý hiếm vì bị săn bắt, môi trường sống thay đổi và việc sử dụng thủy ngân để đãi vàng trái phép trên sông. Chúng có thói quen sống thành bầy đàn, khi trưởng thành dài đến 1,6m và ở dưới nước lâu hơn bất kỳ loài rái cá nào khác.
Hình ảnh
Chú thích
Động vật có vú châu Á
Động vật có vú châu Phi
Động vật có vú châu Âu
Động vật có vú Bắc Mỹ
Động vật có vú Nam Mỹ |
19853178 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%B0%C6%A1ng%20nh%C3%A2n%20m%C5%A9%20%C4%91%E1%BB%8F | Thương nhân mũ đỏ | Thương nhân mũ đỏ (), hoặc doanh nhân mũ đỏ, doanh nhân đội mũ đỏ, ám chỉ quan chức chính phủ cũng xuất hiện với tư cách là một doanh nhân, kết hợp giữa vai trò công chức và doanh nhân, tức là "doanh nhân chính phủ".
Thuật ngữ này có nguồn gốc từ thời Thanh và ban đầu được sử dụng để mô tả những quan chức nhà nước cũng tham gia vào các hoạt động thương mại. Vào thời đó, giới quan chức giàu có thường đội mũ có gắn viên hồng ngọc. Đại diện tiêu biểu của "thương nhân mũ đỏ" là Hồ Tuyết Nham, một doanh nhân nổi tiếng vào cuối thời Thanh.
Ngày nay, thuật ngữ "thương nhân mũ đỏ" được sử dụng rộng rãi để chỉ những doanh nhân có mối quan hệ tốt với các quan chức chính phủ cấp cao quan trọng.
Tham khảo
Thuật ngữ chính trị Trung Quốc
Thuật ngữ kinh doanh Trung Quốc |
19853179 | https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%202002%20%E2%80%93%20Khu%20v%E1%BB%B1c%20Nam%20M%E1%BB%B9 | Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 – Khu vực Nam Mỹ | Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 khu vực Nam Mỹ là một phần của Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002, được tổ chức bởi Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), diễn ra với sự tham gia của 10 đội bóng là thành viên của FIFA và CONMEBOL.
Thể thức
10 đội bóng là thành viên của CONMEBOL tham dự vòng loại. Khu vực Nam Mỹ được phân bổ 4,5 suất (trong tổng số 32 suất) tham dự FIFA World Cup 2002.
10 đội bóng được xếp vào một bảng, thi đấu vòng tròn hai lượt sân nhà và sân khách. 4 đội đứng đầu giành quyền tham dự FIFA World Cup 2002, đội đứng thứ năm đá 2 trận play-off liên lục địa để giành quyền dự World Cup.
Bảng xếp hạng
Các trận đấu
Vòng 1
Vòng 2
Vòng 3
Vòng 4
Vòng 5
Vòng 6
Vòng 7
Vòng 8
Vòng 9
Vòng 10
Vòng 11
Vòng 12
Vòng 13
Vòng 14
Vòng 15
Vòng 16
Vòng 17
Vòng 18
Play-off liên lục địa
Các đội giành quyền tham dự FIFA World Cup 2002
1 In đậm chỉ năm vô địch. In nghiêng chỉ năm nước chủ nhà.
Danh sácăh ghi bàn
Có 235 bàn thắng được ghi sau 92 trận (bao gồm 2 trận play-off liên lục địa), trung bình 2,55 bàn thắng/trận.
9 bàn thắng
Hernán Crespo
Agustín Delgado
8 bàn thắng
Rivaldo
Romário
6 bàn thắng
Julio César Baldivieso
José Cardozo
Darío Silva
5 bàn thắng
Gabriel Batistuta
Claudio López
Juan Sebastián Verón
Carlos Humberto Paredes
4 bàn thắng
Marcelo Salas
Iván Zamorano
Juan Pablo Ángel
José Luis Chilavert
Nicolás Olivera
Ruberth Morán
3 bàn thắng
Marcelo Gallardo
Ariel Ortega
Joaquín Botero
Líder Paz
Víctor Aristizábal
Jairo Castillo
Iván Kaviedes
Roque Santa Cruz
Federico Magallanes
2 bàn thắng
Walter Samuel
Juan Pablo Sorín
Roger Suárez
Edílson
Luizão
Vampeta
Antônio Carlos Zago
Álex Aguinaga
Ulises de la Cruz
Hugo Brizuela
Juan Pajuelo
Roberto Palacios
Claudio Pizarro
Nolberto Solano
Richard Morales
Wilfredo Alvarado
Juan Arango
Daniel Noriega
Alexander Rondón
1 bàn thắng
Pablo Aimar
Matias Almeyda
Roberto Ayala
Kily González
Claudio Husaín
Gustavo Adrián López
Mauricio Pochettino
José Alfredo Castillo
Milton Coimbra
Percy Colque
Gonzalo Galindo
Raúl Justiniano
Jaime Moreno
Erwin Sánchez
Alexsandro de Souza
Euller
Juninho Paulista
Marcelinho Paraíba
Roque Júnior
Fabián Estay
Javier Margas
Reinaldo Navia
Jaime Riveros
Héctor Tapia
Rodrigo Tello
Gerardo Bedoya
Víctor Bonilla
Rafael Arlex Castillo
Iván Córdoba
Jersson González
Freddy Grisales
Frankie Oviedo
Iván Valenciano
Arnulfo Valentierra
Alexander Viveros
Cléber Chalá
Ángel Fernández
Luis Gómez
Ariel Graziani
Eduardo Hurtado
Édison Méndez
Wellington Sánchez
Roberto Acuña
Francisco Arce
Celso Ayala
Jorge Luis Campos
Gabriel González
Gustavo Morínigo
Delio Toledo
Guido Alvarenga
Piero Alva
Pedro Alejandro García
Juan José Jayo
Flavio Maestri
Andrés Mendoza
Gabriel Cedrés
Pablo Gabriel García
Paolo Montero
Álvaro Recoba
Darío Rodríguez
Juan Enrique García
Héctor Gonzalez
Miguel Mea Vitali
Ricardo Páez
Giovanni Savarese
Edson Tortolero
1 bàn phản lưới nhà
Walter Samuel (trong trận gặp Peru)
Cris (trong trận gặp Argentina)
Ítalo Díaz (trong trận gặp Uruguay)
Marco Antonio Sandy (trong trận gặp Brasil)
Denis Caniza (trong trận gặp Chile)
José del Solar (trong trận gặp Paraguay)
2 bàn phản lưới nhà
Roberto Ayala trong trận gặp Uruguay và Brasil)
Ghi chú
Đây là lần đầu tiên và cho đến nay (tính đến hết Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2022), thua hơn 2 trận và không kết thúc với tư cách là đội dẫn đầu (thứ nhất) của vòng loại, tại Vòng loại FIFA World Cup.
Tham khảo
Bóng đá Nam Mỹ năm 2001
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới khu vực Nam Mỹ |
19853196 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%9D%20gi%E1%BA%ADu | Bờ giậu | Bờ giậu hoặc hàng rào cây là hàng cây bụi hoặc cây cao nằm cách đều nhau, được vun trồng và cắt tỉa để tạo thành hàng rào hoặc đánh dấu ranh giới một khu vực. Bờ giậu được sử dụng để ngăn cách con đường với cánh đồng liền kề hoặc giữa cánh đồng này với cánh đồng khác. Đôi khi cây cối phát triển theo chiều cao, tạo nên hàng rào cây có vai trò chắn gió để tạo vi khí hậu cho các cây trồng. Cắt tỉa bờ giậu là một hình thức trang trí.
Bờ giậu được coi là "hàng rào sống". Có thể trồng cây theo mật độ dày dặc mà không cần dây nối với nhau. Nông dân có thu nhập thấp ở vùng nhiệt đới có thể sử dụng bờ giậu phân định ranh giới đất đai và hạn chế việc tốn chi phí bảo trì hàng rào xuống cấp.
Tham khảo
Kiến trúc cảnh quan
Đặc trưng sân vườn |
19853198 | https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%202002%20%28v%C3%B2ng%20play-off%20OFC%20%E2%80%93%20CONMEBOL%29 | Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 (vòng play-off OFC – CONMEBOL) | Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 (vòng play-off OFC – CONMEBOL) là vòng loại cuối cùng của Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 diễn ra với 2 trận sân nhà và sân khách giữa đại diện đến từ OFC () và đại diện đến từ CONMEBOL ().
Trận lượt đi diễn ra ngày tại Melbourne (Úc) và trận lượt về diễn ra sau đó 5 ngày tại Montevideo (Uruguay).
đang hy vọng góp mặt tại FIFA World Cup kể từ lần gần nhất vào năm 1974, còn lần gần nhất dự FIFA World Cup là ở kỳ FIFA World Cup 1990.
Ở trận lượt đi, đã đánh bại 1–0, nhưng ở trận lượt về thì Uruguay đã giành chiến thắng 3–0. Chung cuộc, giành chiến thắng với tổng tỉ số 3–1 và giành quyền tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 (diễn ra ở Nhật Bản và Hàn Quốc).
Địa điểm thi đấu
Hành trình
Chi tiết trận đấu
Lượt đi
Lượt về
Chú thích
Tham khảo
Bóng đá Úc năm 2001
Trận đấu của đội tuyển bóng đá quốc gia Úc
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới (vòng play-off liên lục địa)
Giải đấu thể thao Melbourne
Trận đấu của đội tuyển bóng đá quốc gia Uruguay |
19853202 | https://vi.wikipedia.org/wiki/LCK%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202023 | LCK mùa giải 2023 | LCK mùa giải 2023 là mùa giải thứ 12 của League of Legends Champions Korea (LCK), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của Hàn Quốc dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Mùa Xuân và Mùa Hè. Giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu vào ngày 18 tháng 1 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 9 tháng 4 năm 2023. Giải Mùa Hè bắt đầu vào ngày 7 tháng 6 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 20 tháng 8 năm 2023.
Đội quán quân giải Mùa Xuân, Gen.G, và á quân, T1, đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2023. Gen.G cũng đã vô địch giải Mùa Hè, trực tiếp giúp họ đủ điều kiện tham dự Chung kết thế giới 2023. T1 đủ điều kiện tham dự Chung kết thế giới 2023 thông qua điểm tích lũy, trong khi cả KT Rolster và Dplus KIA cũng đủ điều kiện tham dự Chung kết thế giới 2023 thông qua vòng loại khu vực.
Thể thức
Thể thức mùa giải thông thường là thi đấu vòng tròn 2 lượt.
Bắt đầu từ mùa giải 2023, LCK đã đưa ra thể thức mới cho vòng loại trực tiếp, trong đó hình thức loại trực tiếp nhánh thắng - thua sẽ được áp dụng bắt đầu từ trận bán kết.
Giải Mùa Xuân
Vòng bảng của Giải Mùa Xuân diễn ra từ ngày 18 tháng 1 đến ngày 19 tháng 3 năm 2023. Sáu đội đứng đầu vòng bảng sẽ tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 22 tháng 3 đến ngày 9 tháng 4 năm 2023. Trận chung kết tổng được tổ chức tại Jamsil Indoor Stadium ở Seoul. Hai đội đứng đầu vòng loại trực tiếp đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2023.
Vòng bảng
Vòng loại trực tiếp
Giải Mùa Hè
Vòng bảng của Giải Mùa hè bắt đầu vào ngày 7 tháng 6. Sáu đội đứng đầu của vòng bảng tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 8 đến ngày 20 tháng 8 năm 2023. Trận chung kết diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Daejeon ở Yuseong, Daejeon.
Vòng bảng
Vòng loại trực tiếp
Điểm tích luỹ
Vòng loại khu vực
Vòng loại khu vực là giải đấu bao gồm bốn đội đứng đầu LCK dựa trên số điểm vô địch (trừ 2 đội đã đủ điều kiện trực tiếp tham gia Chung kết thế giới 2023). Hai đội đứng đầu đối đầu với nhau, đội chiến thắng giành được một suất tham dự Chung kết thế giới. Đồng thời, hai đội đứng sau thi đấu với nhau, đội thua sẽ bị loại. Hai đội còn lại sau đó tranh giành suất LCK cuối cùng tại Chung kết thế giới 2023.
Giải thưởng
Giải Mùa Xuân
MVP: Keria, T1
Đội hình tiêu biểu 1:
Đội hình tiêu biểu 2:
Đội hình tiêu biểu 3:
Giải Mùa Hè
MVP: Lehends, KT Rolster
Đội hình tiêu biểu 1:
Đội hình tiêu biểu 2:
Đội hình tiêu biểu 3:
Mùa giải
Tuyển thủ của năm: Faker, T1
Tuyển thủ của năm theo từng vị trí:
Giải thưởng của nhà tài trợ:
Giải thưởng Vua Hỗ trợ Secret Lab: Delight, Gen.G
Giải thưởng Thợ săn quái vật: Peanut, Gen.G
Giải thưởng Lối chơi Logitech G: Deft, Dplus
Giải thưởng Tầm nhìn JW Pharmaceutical: Kael, Liiv Sandbox
Giải thưởng Vua Tìm kiếm OP.GG: Faker, T1
Giải thưởng Cướp rừng LG Ultragear: Cuzz, KT Rolster
Giải thưởng LCK Tiếp thị Toàn cầu: Morgan, Fredit Brion
Giải thưởng KDA HP Omen: Aiming, KT Rolster
Giải thưởng Chiến công đầu BBQ: Oner, T1
Giải thưởng Vua Vàng Woori WON Banking: Gumayusi, T1
Giải thưởng kỉ niệm 10 năm LCK: Seong Seung-heon và CloudTemplar
Giải thưởng Tinh thần thể thao: Kwangdong Freecs
Giải thưởng Meme của năm: CloudTemplar
Tham khảo
Liên Minh Huyền Thoại năm 2023 |
19853204 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Alexander%20Shulgin%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29 | Alexander Shulgin (định hướng) | Alexander Shulgin có thể đề cập đến:
Alexander Shulgin (1925–2014), nhà hóa học Mỹ
Alexander Shulgin (nhạc sĩ) (sinh 1964), nhạc sĩ Xô viết và Nga
Alexander Shulgin (doanh nhân), doanh nhân Nga
Oleksander Shulhyn (1889—1960), nhà chính trị Ukraina
Xem thêm
Aleksandr Shulginov |
19853212 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%E1%BA%A1t%20%C4%91%E1%BB%99ng%20c%C3%A1ch%20m%E1%BA%A1ng%20c%E1%BB%A7a%20V.I.%20Lenin | Hoạt động cách mạng của V.I. Lenin | Nhà cách mạng và chính khách cộng sản người Nga Vladimir Ilyich Lenin khởi sự các hoạt động cách mạng của mình từ năm 1892 cho tới thắng lợi cuối cùng của Cách mạng Nga vào năm 1917. Tiếp nối những năm tháng kỳ thủy làm quen với các tư tưởng chống đối chế độ Sa hoàng của Đế quốc Nga và sau đó là giác ngộ chủ nghĩa Marx, Lenin chuyển tới Sankt-Peterburg sinh sống và hành nghề luật sư. Tại đây, ông gia nhập một tổ cách mạng, ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Marx bên trong phong trào xã hội chủ nghĩa. Ông sau đó sang Tây Âu để thiết lập liên kết với những nhóm người Nga đào vong có tư tưởng cách mạng, đồng thời tìm hiểu thêm về phong trào Marxist quốc tế. Ít lâu sau khi về Nga, ông bị bắt giữ vì tội danh xúi giục nổi loạn, rồi bị phát lưu đi Shushenskoye thuộc miền Đông Siberia trong vòng ba năm. Trong khoảng thời gian an trí, ông viết và dịch sách, kết hôn với nữ đồng chí Nadezhda Krupskaya vào tháng 7 năm 1898.
Sau khi án lưu đày mãn hạn, vào năm 1900, Lenin sang Tây Âu và gia nhập ban biên tập Iskra, tờ báo Marxist của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDRP). Trụ sở của Iskra được di dời từ München tới London và rốt cuộc tới Geneva. Tại Đại hội II RSDRP ở London 1903, Lenin và những người ủng hộ ông (phái Bolshevik) tách rẽ với Yuli Martov và những người ủng hộ ông (phái Menshevik); sở dĩ bởi vì Lenin muốn tập trung quyền lực vào Trung ương Đảng trong khi Martov ủng hộ sự tự do tư tưởng của từng đảng viên. Lenin quay lại Nga với sự thành công của Cách mạng 1905, nhưng lại nhanh chóng phải rời đi vì ngay sau đó chính quyền Sa hoàng đã mạnh tay đàn áp những người làm cách mạng và bất đồng chính kiến.
Lưu lạc ở Paris và Kraków, Lenin tập trung giải quyết các vấn đề nội bộ của phong trào Marxist, phản bác các ý tưởng của Menshevik và Alexander Bogdanov. Thời Thế chiến I, ông chuyển tới Thụy Sĩ, nơi ông kêu gọi những người xã hội chủ nghĩa tìm cách biến chuyển "chiến tranh đế quốc" thành cuộc "nội chiến" toàn châu lục, tạo điều kiện cho giai cấp vô sản lật đổ giai cấp tư sản. Ông kết tinh luận điểm của mình trong cuốn Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, đồng thời tái diễn giải chủ nghĩa Marx dựa trên cơ sở triết học duy tâm của Hegel. Khi Cách mạng Tháng Hai 1917 truất ngôi Sa hoàng và dựng lên Chính phủ Lâm thời Nga, Lenin trở về Sankt-Peterburg, bấy giờ có tên là Petrograd. Tại đây, ông đã dẫn dắt phái Bolshevik và các xô viết giành lấy chính quyền và chuẩn bị cho một cuộc cách mạng vô sản toàn cầu.
1893–1895: Sankt-Peterburg và các chuyến du khảo ngoại quốc
Mùa thu năm 1893, Lenin tới Sankt-Peterburg. Tại đây, ông thuê một căn hộ trên đường Sergievsky thuộc quận Liteiny, trước khi chuyển sang sống ở số nhà 7 trong hẻm Kazachy, gần Quảng trường Sennaya. Được thuê làm trợ lý luật sư, ông tranh thủ thời gian rảnh rỗi tham gia tổ cách mạng do S.I. Radchenko điều hành với thành phần chủ yếu là sinh viên tới từ Viện Công nghệ Sankt-Peterburg. Giống Lenin, họ đều là những người Marxist, tự xưng là "những nhà Dân chủ Xã hội" theo tên Đảng Dân chủ Xã hội Marxist ở Đức lúc bấy giờ. Ấn tượng trước hiểu biết sâu rộng của Lenin, ông được họ hoan nghênh và chẳng bao lâu đã leo lên vị trí cao cấp trong nội bộ tổ. Vận dụng thành thạo chủ nghĩa Marx, ông tự tin tranh biện với nhà lý luận Marxist Vasily Vorontsov tại một cuộc họp bí mật vào tháng 1 năm 1894, sự kiện mà đã thu hút sự chú ý của cảnh sát. Với ý định truyền bá chủ nghĩa Marx ở Nga, Lenin bắt liên lạc với Petr Struve, một cảm tình viên Marxist giàu có, với hy vọng được đài thọ xuất bản sách báo khuyến khích sự thành lập của các tổ cách mạng bên trong các trung tâm công nghiệp trong Đế quốc Nga.
1895–1900: Đày ải ở xứ Siberia
1900–1905: München, London và Genève
1905–1914: Cách mạng 1905 và hệ quả
1914–1917: Thế chiến thứ nhất
1917: Cách mạng Tháng Hai và những ngày Tháng Bảy
1917: Cách mạng Tháng Mười
Tham khảo
Thư mục
Phong trào cách mạng
Cách mạng Nga
Vladimir Lenin |
19853216 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0nh%20cung%20nh%C3%A0%20Nguy%E1%BB%85n | Hành cung nhà Nguyễn | Hành cung nhà Nguyễn là các kiến trúc mà các vua nhà Nguyễn cho xây dựng để nghỉ lại mỗi lần đi tuần quanh khu vực kinh thành Huế.
Danh sách các hành cung
Hành cung Hương Giang
Hành cung Hương Giang nằm bên bờ bắc của sông Hương trước mặt Phu Văn Lâu, được xây dựng từ năm Tự Đức thứ 5 (1852). Ở đây xây dựng Lương Tạ, có kết cấu kiến trúc kiểu phương đình 1 gian 4 chái, gần giống như Trường Du Tạ. Nhưng phía trước và phía sau đều có nhà vỏ cua nối dài ra. Bộ khung gỗ ở phần trên, nhất là các vì vỏ cua cùng hệ thống liên ba được chạm trổ công phu. Mái nhà chính lợp ngói ống lưu li vàng, hai nhà vỏ cua lợp ngói liệt men vàng. Nền Lương Tạ cao 90cm, bó vỉa bằng gạch vồ và đá Thanh. Phía bờ sông có 13 bậc cấp dẫn xuống một hành lang xây sát mặt nước sông Hương. Từ thời Khải Định về sau gọi nhà tạ này là Nghênh Lương đình. Đây là công trình kiến trúc còn nguyên vẹn trong tất cả các hành cung ở Huế.
Hành cung Thuận Trực
Hành cung Thuận Trực nằm ở bờ hữu sông Lợi Nông thuộc địa phận xã Hà Trung, huyện Phú Lộc, thuộc phủ Thừa Thiên (nay là huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế), là nơi các vua Nguyễn nghỉ lại khi đi tuần trên sông Lợi Nông từ Kinh thành về phá Hà Trung – đầm Cầu Hai. Ban đầu hành cung Thuận Trực được vua Minh Mạng cho dựng tạm bằng tre tranh để dùng khi vua đi tuần du, dựng rồi lại phá. Hành cung này được xây dựng kiên cố vào năm Minh Mạng thứ 21 (1840) gồm ba gian hai chái lợp ngói âm dương, xà và cột nhà đều dùng loại gỗ thiết, những bộ phận còn lại được làm bằng các loại gỗ bền rắn có tiếng và gỗ có sắc hồng.
Hành cung Thúy Vân
Hành cung Thúy Vân được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 18 (1837) trên núi Thúy Hoa (tên cũ của núi Thúy Vân). Vua Minh Mạng, Thiệu Trị thường đi tuần ở cửa biển Tư Hiền, ngự chơi núi Thúy Vân, hành hương về chùa Thánh Duyên và nghỉ dưỡng ở hành cung Thúy Vân. Đặc biệt, vua Tự Đức lại thường xuyên đưa Thái hậu đến hành cung Thúy Vân nghỉ mát, nhân tiện xem xét việc phòng vệ biển nơi đây, mỗi đợt nghỉ mát tại hành cung khoảng 5 đến 7 ngày.
Hành cung Thuận An
Hành cung Thuận An là hành cung nghỉ mát ở kinh thành của các vua đầu triều Nguyễn, được xây dựng ở cửa biển Thuận An thuộc địa phận ấp Thai Dương Hạ, huyện Hương Trà nay thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vào mùa đông, năm Minh Mạng thứ 18 (1837), nhà vua cho xây dựng hành cung ở cửa Thuận An gồm 1 tòa 3 gian 2 chái làm bằng gỗ rắn chắc, trên lợp ngói, 4 bề xung quanh xây tường gạch.
Hành cung Thần Phù
Hành cung Thần Phù nằm tại làng làng Thần Phù (nay thuộc phường Thủy Châu, thị xã Hương Thủy) là nơi vua nghỉ chân mỗi lần đi tuần trên sông Lợi Nông và về rừng Đông Lâm dạo chơi săn bắn. Theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, hành cung này ban đầu làm bằng tranh tre nhưng đến năm 1839 thì được thay thế bằng một toà nhà 3 gian 2 chái, mái lợp ngói âm dương, bốn mặt chung quanh đều xây tường gạch và trổ 2 cửa hai bên. Mặt sau có một dãy hành lang. Đặc biệt là ở ngay trên mặt nước lại dựng thêm một toà nhà 5 gian, lợp ngói liệt. Hành cung này được gọi là hành cung Lợi Nông. Đến năm 1843, vua Thiệu Trị đổi tên thành hành cung Thần Phù. Ngoài các kiến trúc vừa nói, vua còn cho dựng một toà nha 3 gian 2 chái, mái lợp cỏ tranh để làm chỗ nghỉ ngơi cho quan viên theo hầu.
Chú thích
Di tích Cố đô Huế |
19853217 | https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Pintado | USS Pintado | Hai tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Pintado, theo tên loài cá thu Cero thuộc họ Cá thu ngừ:
là một nhập biên chế năm 1944 và xuất đăng bạ năm 1967
là một nhập biên chế năm 1971 và xuất đăng bạ năm 1998
Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ |
19853221 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn%20kh%E1%BA%A3i | Thiên khải | Thiên khải hay Thiên Khải có thể đề cập đến:
Khải thị
Minh Hy Tông, vị hoàng đế thứ 16 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc
Chử Thiên Khải, tham chính thời Lê sơ
Thôi Thiên Khải, nhà ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Thiên Khải, nhân vật trong Thiên Cổ Quyết Trần |
19853222 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Della%20Duck | Della Duck | Della Duck (đôi khi có tên Dumbella Duck) là một nhân vật hoạt hình được Al Taliaferro và Ted Osborne tạo ra năm 1937. Cô là thành viên cốt lõi của Gia đình Duck của Disney, với vị thế là cháu gái của Scrooge McDuck, chị em sinh đôi với Donald Duck và là mẹ của Huey, Dewey và Louie Duck. Della là một con vịt trắng hình người có mỏ và chân màu vàng-cam.
Cô ấy là một trong những nhân vật chính của DuckTales phiên bản 2017, với trang phục là một chiếc mũ phi công, một cái áo khoác bay, khăn quàng cổ màu xanh nhạt và quần nâu, cùng với một cái chân robot lúc trưởng thành. Della nổi tiếng với tinh thần phiêu lưu mạo hiểm của một nữ thám hiểm. Della là một người bị cụt chân trong series 2017, và cô là một hình mẫu tích cực cho những phụ nữ khác và những người khuyết tật.
Lịch sử
Della Duck được nhắc đến lần đầu tiên trong truyện tranh Donald Duck năm 1937 dưới tên gọi "Cousin Della". Lần được nhắc đến thứ hai, và là lần đầu tiên trên màn ảnh, là trên phim hoạt hình ngắn "Donald's Nephews" (1938) với tên gọi "Sister Dumbella". Trước khi được ra mắt trong series DuckTales năm 2017, Della chưa bao giờ xuất hiện trong bất kỳ bộ phim hoạt hình hoặc phim truyền hình nào, và chỉ xuất hiện hạn chế trong truyện tranh Disney. Vì vậy, về cơ bản, hầu như không có bất kỳ thông tin gì về nhân vật này trước năm 2017.
Giai đoạn đầu của nhân vật
Della Duck xuất hiện lần đầu tiên trong truyện tranh Chủ Nhật Donald Duck bản ngày 17 tháng 10 năm 1937, trong đó cô viết một lá thư giải thích cho Donald rằng cô sẽ gửi các con trai của mình đến ở với anh. Lần xuất hiện đầu tiên này mô tả Della là em họ của Donald, mặc dù những mô tả sau này cho biết cô ấy là chị em gái của Donald. Một năm sau, Della được nhắc đến theo cách tương tự trong phim hoạt hình Donald's Nephews (1938). Bộ phim hoạt hình này đánh dấu sự ra đời của ba người con trai của Della (và các cháu trai của Donald), Huey, Dewey và Louie Duck, và mở đầu bằng cảnh Donald nhận được một tấm bưu thiếp từ Della (ghi địa chỉ "Dear Brother" và ký tên "Sister Dumbella"), cho biết rằng ba đứa cháu đang đến thăm anh ấy.
Della xuất hiện là một đứa trẻ trong series The Life and Times of Scrooge McDuck (thập niên 1990), trong đó cô và Donald mặc bộ đồ thủy thủ giống hệt nhau. Cô cũng được Don Rosa đưa vào cây gia phả nhà Duck. Lần xuất hiện đầu tiên của cô trong truyện tranh lúc trưởng thành là trong truyện tranh Donald Duck bằng tiếng Hà Lan năm 2014, 80 is Prachtig!, kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của Donald. Trong truyện tranh này, Donald cuối cùng đã kể cho các cháu trai câu chuyện về mẹ của chúng trong những đoạn hồi tưởng: Della được miêu tả là một phi công thử nghiệm thành công, là người phụ nữ đầu tiên bay qua Đại Tây Dương và bị mắc kẹt trong không gian sau khi bay thử một tên lửa vô tình đẩy cô lên gần tốc độ ánh sáng.
Thời thơ ấu trong truyện tranh tiếng Hà Lan (2017)
Suốt năm 2017, Della xuất hiện hàng tháng trong bộ truyện tranh Donald Duck bằng tiếng Hà Lan. Cô xuất hiện trong tổng cộng 22 truyện, bắt đầu với "Donalds eerste schaatsles" ("Donald's First Skating Lesson") xuất bản tháng 1, đến "Donalds eerste skiles" ("Donald's First Skiing Lesson") xuất bản tháng 12. Những câu chuyện về Della chủ yếu tập trung vào thời thơ ấu của cặp song sinh, ngoại trừ hai câu chuyện được xuất bản vào tháng 3, "Donalds eerste liedje" ("Donald's First Song") và "Donalds eerste afspraakje" ("Donald's First Date"), khi cả hai tiến gần hơn đến tuổi thiếu niên. Sau đó, Della xuất hiện trở lại vào tháng 6 năm 2019 trong truyện "Haring met roomijs" ("Herring and Ice Cream") của bộ truyện Donnie Duck, xoay quanh thời thơ ấu của Donald.
DuckTales (2017–2021)
Della đóng một vai nổi bật, mặc dù ban đầu ngoài màn ảnh, trong series truyền hình DuckTales 2017. Cô là mẹ của các nhân vật chính Huey, Dewey, and Louie. Trong mùa 1, cô được tiết lộ là một phi công lành nghề và là đồng đội phiêu lưu dũng cảm của chú Scrooge McDuck và anh em trai sinh đôi Donald. Della xuất hiện lần đầu tiên trong loạt phim ở cuối tập mở màn "Woo-oo!", trên một bức tranh mà Dewey phát hiện ra. Dewey nhận thấy một người giống mẹ mình ở góc trên bức tranh, đang chiến đấu với bọn cướp biển cùng với Scrooge và Donald. Phát hiện này khởi đầu một cuộc tìm kiếm, đầu tiên là của Dewey và Webby Vanderquack, trước khi cuối cùng liên quan đến cả ba anh em, để tìm thông tin về mẹ của họ và sự mất tích của cô. Điều này tạo thành bí ẩn trung tâm của mùa đầu tiên của chương trình.
Lần xuất hiện đầu tiên của Della khi trưởng thành ở Hoa Kỳ là vào tháng 11 năm 2017, trong loạt truyện hồi tưởng số 2 và số 3 của truyện tranh DuckTales do IDW xuất bản, gắn liền với loạt phim truyền hình phiên bản 2017. Della được miêu tả đầy đủ lần đầu tiên trong phim hoạt hình, một lần nữa trong đoạn hồi tưởng, trong tập DuckTales mùa 1 "Last Crash of the Sunchaser!". Trong đó Scrooge kể câu chuyện về Della Duck với Huey, Dewey, và Louie: Della phát hiện ra một chiếc tên lửa mà Scrooge đang chế tạo như một món quà cho cô ấy, nhưng cô đã lén lút phóng nó và vướng vào một cơn bão vũ trụ. Della được cho là đã lạc vào vực thẳm vũ trụ sau khi Scrooge tiến hành một chiến dịch giải cứu quy mô và tốn kém, nhưng cuối cùng vẫn không thể tìm được cô.
Ngày 18 tháng 8 năm 2018, trong tập cuối cùng của DuckTales mùa 1 ("The Shadow War!"), Della chính thức xuất hiện lần đầu tiên khi cô xem bản tin về gia đình mình, cho thấy cô vẫn sống sót sau cơn bão vũ trụ và đang sống trong phần còn lại của chiếc tên lửa. Della Duck xuất hiện định kỳ trong mùa 2 của loạt phim, bắt đầu với tập "Last Christmas!", một tập du hành thời gian mô tả phiên bản trẻ hơn của Della và Donald. Trong tập này, Donald có lúc gọi Della là "Dumbella", có ý xúc phạm nhưng cũng ám chỉ đến tên thay thế của Della từ những năm 1930.
Tháng 2 năm 2019, Disney bắt đầu quảng bá, như một sự kiện đặc biệt, buổi ra mắt tập đầu tiên của DuckTales tập trung vào Della. Tập phim hứa hẹn sẽ tiết lộ đầy đủ những gì đã xảy ra với Della lần đầu tiên kể từ khi cô bị lạc trong không gian. Tập phim có tựa đề "What Ever Happened to Della Duck?!" và lên sóng vào ngày 9 tháng 3 năm 2019. The A.V. Club đánh giá tập phim "ly kỳ, bi thảm, mạnh mẽ và đầy quyết đoán" và viết rằng nó đã "đi vào vấn đề cốt lõi của Della với tư cách là một nhân vật ngay cả trước khi tiêu đề xuất hiện trên màn ảnh". Entertainment Weekly đã đưa tập này vào danh sách cuối năm gồm 30 tập phim truyền hình hay nhất năm 2019, ca ngợi sự tiết lộ về Della Duck và viết rằng "suốt thời gian qua, DuckTales đã che giấu nhân vật xuất sắc nhất của mình ngoài màn ảnh". Sau đó, Della đã quay trở về Trái Đất trong chiếc Spear of Selene đã được sửa chữa, nhưng rồi cô lại gặp khó khăn khi cố gắng hòa hợp với ba đứa con của mình, bởi cô ấy không có kinh nghiệm thực tế khi là một người mẹ. Với lại, thái độ của cô ấy tập trung hơn vào việc cố gắng gắn kết với họ với vai trò là "người mẹ tuyệt vời". Nửa sau của mùa khám phá vai trò khác của cô, chẳng hạn như khuyến khích Huey khám phá các hoạt động đa dạng hơn và cấm túc Louie sau kế hoạch làm giàu nhanh chóng mới nhất của anh ta nhằm đánh cắp những kho báu bị mất trong quá khứ, và việc này gần như gây ra một nghịch lý nghiêm trọng về thời gian. Trong tập cuối của mùa 2, người Mặt Trăng cố gắng thực hiện một cuộc xâm lược bằng công nghệ được thiết kế ngược từ tên lửa của Della. Mặc dù Della cố gắng đưa các con mình bỏ trốn, Donald, quay trở lại trên một hòn đảo hoang, thuyết phục cô tham gia cùng mọi người chống lại cuộc xâm lược. Kết quả là tàu mẹ của người Mặt Trăng mắc kẹt trên quỹ đạo giữa Trái Đất và Mặt Trăng trong khi phần còn lại của quân xâm lược đầu hàng.
Tập "What Ever Happened to Della Duck?!" tiết lộ rằng Della buộc phải cắt cụt một bên chân của mình do bị thương trong vụ tai nạn tên lửa và cô ấy đã chế tạo một chiếc chân robot giả để thay thế. Những người tham gia chương trình DuckTales đã tham khảo ý kiến của Amputee Coalition về cách thể hiện Della như một người bị cụt chi. Nhà sản xuất chương trình Francisco Angones giải thích rằng điều quan trọng là chấn thương và việc cắt cụt chi của Della không định nghĩa được cô ấy, và rằng thay vì chỉ đơn giản miêu tả cô ấy là "người hùng bị cụt chân", ông ấy muốn chương trình làm rõ rằng "cô ấy là một người phải đeo chân giả và cô ấy đang phải đối mặt với tình trạng mất đi chân tay, nhưng cô ấy cũng đang phải đối mặt với rất nhiều thứ khác".
Della sử dụng một trong những cụm từ đặc trưng của anh trai cô, "Aw, phooey!". Giống như Donald, cô ấy cũng khá nóng nảy và có thể sử dụng cụm từ này để biểu thị rằng cô đã từ bỏ điều gì đó mà cô đang cố gắng làm (chẳng hạn như khi cô ấy nhận ra rằng mình không thể kéo chân mình khỏi đống đổ nát của tên lửa), hoặc nhận ra mọi thứ sau đó đã trở thành một sai lầm khủng khiếp (chẳng hạn như sau khi vô tình đánh thức một kẻ thù robot cổ đại). Ngoài ra, để phản ánh thái độ không thể ngăn cản của mình, Della cũng có câu cửa miệng đặc trưng của riêng mình, "Nothing can stop Della Duck!".
Đặc điểm
Lồng tiếng
Lời nói đầu tiên của Della xuất hiện trong tập cuối cùng của mùa 1 DuckTales 2017. Paget Brewster lồng tiếng cho Della trong tập cuối này trước cô khi tham gia dàn nhân vật DuckTales với tư cách là nhân vật xuất hiện định kỳ trong mùa 2 và nhân vật chính trong mùa 3. Brewster nói với Entertainment Weekly rằng cô ấy thực sự muốn có vai diễn này và muốn được tham gia đoàn làm phim DuckTales. Cô nói rằng "thật thú vị khi có thể trở thành một phần trong việc tạo ra cốt truyện [của Della] và định nghĩa cô ấy là ai". Ban đầu, Brewster lo lắng rằng, vì Della là chị em song sinh với Donald Duck, cô ấy có thể được yêu cầu lồng giọng giống Donald cho nhân vật, và cô nói với Entertainment Tonight rằng "Tôi không thể làm được."
Entertainment Weekly nói rằng Brewster "làm cho Della Duck nghe giống như ai đó đang tạo ra nhiên liệu tên lửa bằng năng lượng thuần túy". Kể từ khi lồng tiếng cho Della trong lần xuất hiện chính thức đầu tiên của cô ấy, Brewster đã được khen ngợi về diễn xuất của cô ấy cho vai diễn này. Den of Geek viết rằng "cống hiến tuyệt vời của Paget Brewster" đã giúp xây dựng "tinh thần phiêu lưu và tình yêu thương vào Della", trong khi The A.V. Club viết rằng Brewster đang "thổi hồn vào Della qua mỗi dòng đọc say mê, biến cô ấy trở thành một sự bổ sung hoàn hảo cho dàn nhân vật." Paget Brewster đã được đề cử Giải Daytime Emmy năm 2020 với hạng mục Nữ diễn viên xuất sắc trong chương trình hoạt hình cho vai diễn nhân vật Della Duck.
Tính cách
Mọi hiểu biết về tính cách của Della là cực kỳ ít ỏi tính đến trước series DuckTales 2017. Trong truyện tranh Hà Lan 80 is Prachtig!, Della được miêu tả trong đoạn hồi tưởng là một phi công dũng cảm và thích phiêu lưu. Trên thực tế, lần đầu tiên cô tuyên bố muốn trở thành phi công cùng lúc với khi Donald của cô tuyên bố muốn trở thành thủy thủ. Những thành tựu của Della với tư cách là một phi công bao gồm việc trở thành nữ phi công đầu tiên bay qua Đại Tây Dương, bay với vai trò là một phi công thử nghiệm (và hạ cánh thành công một chiếc máy bay bốc cháy) và lái một chiếc tên lửa thử nghiệm. Cô cũng được miêu tả là người quan tâm và luôn nhớ nhung gia đình mình khi đi phiêu lưu. Do ảnh hưởng của sự giãn nở thời gian trong chuyến du hành tên lửa gần tốc độ ánh sáng của Della, vậy nên trong khi Huey, Dewey và Louie sống với Donald trong vài năm, Della tin rằng cô ấy mới đi chưa đầy một giờ. Thông qua đường truyền vô tuyến, Della tiết lộ rằng cô rất háo hức hoàn thành chuyến bay thử nghiệm của mình và trở về nhà với các con trai của mình mà không biết rằng thời gian trên Trái Đất sẽ trôi qua thêm vài năm nữa khi cô tiếp tục hành trình.
Trong DuckTales 2017, Della cũng được miêu tả tương tự là một phi công thích phiêu lưu và là một người mẹ chăm sóc và yêu thương gia đình mình, nhưng đồng thời chương trình cũng chứng minh rằng Della có những đặc điểm tính cách giống với người thân của cô trong loạt phim mới. Giống như Donald, Della có tính khí thất thường. Ví dụ, sau khi nhìn thấy hình minh họa chế nhạo của Gyro Gearloose trong sách hướng dẫn sử dụng tên lửa, Della nổi cơn thịnh nộ. Cô không chỉ xé toạc quyển sách mà còn dẫm nát đống giấy vụn còn sót lại. Della cũng có chung những đặc điểm tính cách với các con trai của mình, bao gồm cả sự dũng cảm và tinh nghịch của chúng. Những đặc điểm chung này giúp chúng chấp nhận và gắn bó với Della khi mẹ mình trở về. Giống như con trai Huey của mình, Della là một Junior Woodchuck, bằng chứng là cô ấy đã mang theo Sách hướng dẫn Junior Woodchuck của mình lên Mặt Trăng và đọc thuộc lòng các quy tắc của Junior Woodchuck. Della cũng mang trong mình tinh thần phiêu lưu của Dewey và sự thông minh trong ăn nói nhanh nhẹn của Louie, và cũng có xu hướng gây rắc rối mà không màng đến hậu quả.
Hơn nữa, Della còn tỏ ra là một người có thái độ không thể ngăn cản. Điều này biểu hiện khá sớm từ tập "What Ever Happened to Della Duck?!", mở đầu bằng cảnh Della làm rơi tên lửa của mình trên Mặt Trăng và chợt tỉnh khi thấy chân mình bị mắc kẹt bên dưới đống đổ nát. Sau khi xem bức ảnh gia đình và đánh giá tình hình, cô xác định đống đổ nát quá nặng để kéo chân mình ra, vậy nên cô phải cắt bỏ chân mình và khẳng định mục tiêu trở về nhà. Theo mô tả của nhà sản xuất DuckTales Francisco Angones, "Della sẽ quét bay mọi điều kỳ quặc, và cô ấy sẽ chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Cô đã lựa chọn cắt bỏ chân của mình [trên Mặt Trăng], và điều đó đã chứng minh rằng không gì có thể ngăn cản cô ấy".
Cho dù mang trong mình sự ngoan cường và quyết tâm, sau khi trở về nhà, Della lại phải vật lộn với việc tái hòa nhập nền văn minh và gia đình mình. Mặc dù Della có nhiều kinh nghiệm làm nhà thám hiểm, nhưng cô lại có ít kinh nghiệm làm mẹ và cần thời gian để thích nghi với trách nhiệm của một người mẹ. Các nhà đồng sản xuất DuckTales Angones và Matt Youngberg cho biết họ muốn thông qua Della để miêu tả việc làm mẹ khó khăn nhưng cũng xứng đáng như thế nào. Tập "The Lost Harp of Mervana!" tiết lộ rằng Della mắc hội chứng ichthyophobia (hội chứng sợ cá), thông qua hành vi và thái độ ghê tởm cá cực độ của mình.
Chú thích
Liên kết ngoài
Truyện tranh năm 1937
Giới thiệu năm 1937
Nhân vật truyện tranh Disney
Nhân vật giả tưởng bị khuyết tật
Nhân vật hoạt hình |
19853226 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ecsenius%20yaeyamaensis | Ecsenius yaeyamaensis | Ecsenius yaeyamaensis là một loài cá biển thuộc chi Ecsenius trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1954.
Từ nguyên
Từ định danh yaeyamaensis được đặt theo tên gọi của quần đảo Yaeyama, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–ensis: hậu tố trong tiếng Latinh biểu thị nơi chốn).
Phân bố và môi trường sống
Từ Lakshadweep và Sri Lanka, E. yaeyamaensis có phân bố rộng khắp khu vực Đông Ấn - Tây Thái, trải dài về phía đông đến Vanuatu, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu, xa về phía nam đến Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, E. yaeyamaensis được ghi nhận tại cồn Cỏ (Quảng Trị), Ninh Thuận, và cù lao Câu (Bình Thuận).
E. yaeyamaensis sống trên các rạn san hô, phổ biến ở đới mào rạn mà san hô phát triển phong phú, độ sâu đến ít nhất là 21 m.
Mô tả
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở E. yaeyamaensis là 6 cm. Loài này có màu nâu nhạt. Sọc đen đứt đoạn nằm phía sau mắt, phía dưới của má có sọc đen. Gốc vây ngực có vệt chữ Y, đôi khi có thêm vệt đốm trắng ở bên hông.
Số gai vây lưng: 11–13; Số tia vây lưng: 13–15; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 14–17; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 3.
Sinh thái
Trứng của E. yaeyamaensis có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ.
Thương mại
E. yaeyamaensis được nuôi làm cá cảnh.
Tham khảo
Y
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Sri Lanka
Cá Maldives
Cá Nhật Bản
Cá Việt Nam
Cá Malaysia
Cá Philippines
Cá New Guinea
Cá Palau
Cá Nouvelle-Calédonie
Cá Vanuatu
Động vật được mô tả năm 1954 |
19853229 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sachsen-Coburg | Sachsen-Coburg | Công quốc Sachsen-Coburg (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Coburg) là một nhà nước của Đế chế La Mã Thần thánh, được cai trị bởi dòng Ernestine thuộc nhánh trưởng của Nhà Wettin. Phần lớn các lãnh thổ Công quốc của dòng Ernestine đều nằm ở bang Thuringia ngày nay, nhưng Sachsen-Coburg thì lại có lãnh thổ nằm trong bang Bayern, Đức.
Qua quá trình chia tách lãnh thổ của các công quốc Ernestine, Công quốc Sachsen-Coburg được lập ra 2 lần, lần đầu tiên là từ quá trình phân chia lãnh thổ giữa Công tước Johann Casimir và người em trai Công tước Johann Ernst, lúc đầu cả hai anh em là công tước đồng cai trị Sachsen-Coburg-Eisenach, đến năm 1596, họ quyết định chia đất và Johann Casimir nhận Coburg và trở thành công tước của xứ Sachsen-Coburg, trong khi đó người em trai Johann Ernst nhận Eisenach và trở thành công tước xứ Sachsen-Eisenach.
Năm 1633, Công tước Johann Casimir xứ Sachsen-Coburg qua đời mà không có con trai thừa tự, nên Sachsen-Coburg được thừa kế bởi em trai là công tước Johann Ernst xứ Sachsen-Eisenach, thế là Coburg và Eisenach lại có cơ hội tái thống nhất thêm một lần nữa, nhưng rất ngắn ngủi, chỉ 5 năm sau thì công tước Johann Ernst qua đời và lại không có con thừa tự, vì thế Sachsen-Coburg-Eisenach bị phân chia cho Sachsen-Weimar và Sachsen-Altenburg.
Tham khảo
Biography
Carl-Christian Dressel, Die Entwicklung von Verfassung und Verwaltung in Sachsen-Coburg 1800 - 1826 im Vergleich [The Development and Comparison of the Constitution and Administration of Saxe-Coburg 1880 – 1826] (Berlin: Duncker & Humblot, 2007), .
Thomas Nicklas, Das Haus Sachsen-Coburg – Europas späte Dynastie [The House of Saxe-Coburg — Europe's Last Dynasty] (Stuttgart: Verlag W[ilhelm]. Kohlhammer Verlag, 2003), .
Johann Hübner, Drey hundert drey und dreyßig Genealogische Tabellen: nebst denen darzu gehörigen genealogischen Fragen zur Erläuterung der politischen Historie, mit sonderbahrem Fleiße zusammen getragen, und vom Anfange der Welt biß auff diesen Tag continuiret; Nebst darzu dienlichen Registern [Three Hundred and Thirty Three Genealogical Tables: Together with those Related Questions of Genealogy to Explain the Political History, Compiled with Great Diligence, and Continuing from the Beginning of the World to This Day; Added Herein with Relevant Records] (Leipzig: Johann Friedrich Gleditsch, 1708) Table No. 164
Công quốc Thánh chế La Mã
Các công quốc Ernestine
Vương tộc Wettin
Cựu quốc gia quân chủ châu Âu
Công tước xứ Sachsen-Coburg
Coburg
Cựu quốc gia và lãnh thổ Bayern
Lịch sử cận đại Đức |
19853230 | https://vi.wikipedia.org/wiki/We%20choose%20to%20go%20to%20the%20Moon | We choose to go to the Moon | "We choose to go to the Moon" (tạm dịch: "Chúng ta chọn lên Mặt Trăng"), cách gọi chính thức là Address at Rice University on the Nation's Space Effort (nghĩa đen: Bài phát biểu tại Đại học Rice về Nỗ lực Không gian của Quốc gia), là một bài diễn văn được Tổng thống Mỹ John F. Kennedy phát biểu vào ngày 12 tháng 9 năm 1962 trước đám đông tại Đại học Rice ở Houston, Texas, nhằm mục đích thúc đẩy sự ủng hộ từ công chúng đối với đề xuất của ông là đưa người lên Mặt Trăng trước năm 1970 và mang người đó trở lại Trái Đất an toàn. Phần lớn bài phát biểu do cố vấn tổng thống kiêm người viết diễn văn Ted Sorensen soạn thảo. Trong buổi diễn thuyết, Kennedy mô tả không gian như một biên giới mới, khơi dậy tinh thần tiên phong đã thống trị truyền thống dân gian Mỹ. Ông truyền tải bài phát biểu với một cảm xúc cấp bách và định mệnh, đồng thời nhấn mạnh quyền tự do của người Mỹ trong việc quyết định vận mệnh của mình thay vì để mặc cho số phận định đoạt. Dù ông đã kêu gọi sự cạnh tranh với Liên Xô, Kennedy cũng đề xuất biến cuộc đổ bộ Mặt Trăng thành một dự án chung. Bài phát biểu đã gây được tiếng vang rộng rãi và vẫn được nhớ đến cho tới ngày nay, mặc dù vào thời điểm đó người ta hãy còn băn khoăn về chi phí và giá trị của nỗ lực đặt chân lên Mặt Trăng. Mục tiêu của Kennedy đã được hiện thực hóa sau khi ông qua đời, đó là vào tháng 7 năm 1969 khi chương trình Apollo đánh dấu sự thành công của sứ mệnh Apollo 11.
Bối cảnh
Khi John F. Kennedy trở thành Tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1961, rất nhiều người Mỹ nhận thấy rằng họ đang hụt hơi trong cuộc chạy đua vào không gian với Liên Xô khi nước này đã phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên, Sputnik 1, lên quỹ đạo Trái Đất gần bốn năm trước đó. Sự nhận thức càng tăng lên khi nhà du hành vũ trụ Liên Xô Yuri Gagarin trở thành người đầu tiên bay vào vũ trụ vào ngày 12 tháng 4 năm 1961, trước cả khi Hoa Kỳ có thể phóng phi hành gia thuộc dự án Mercury. Uy tín của nước Mỹ tiếp tục bị tổn hại bởi thất bại ở vịnh Con Heo năm ngày sau đó.
Bị thuyết phục bởi nhu cầu chính trị về một thành tựu có thể chứng minh rõ ràng ưu thế vượt trội về không gian của nước Mỹ, Kennedy đã yêu cầu phó tổng thống của mình là Lyndon B. Johnson, với tư cách là chủ tịch Hội đồng Hàng không và Vũ trụ Quốc gia, xác định một thành tựu như vậy. Ông đặc biệt yêu cầu Johnson điều tra xem liệu Hoa Kỳ có thể đánh bại Liên Xô trong việc đưa một phòng thí nghiệm vào không gian, hay cho người bay quanh Mặt Trăng, thậm chí là đưa con người đổ bộ lên thiên thể này hay không, và tìm hiểu xem một dự án như vậy sẽ tốn bao nhiêu chi phí. Johnson đã tham khảo ý kiến của các quan chức thuộc Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Quốc gia (NASA). Trưởng quản lý mới của cơ quan là James E. Webb nói với ông rằng, họ không có cơ hội đánh bại người Nga trong việc phóng trạm vũ trụ, và ông không chắc được liệu NASA có thể đưa con người bay vòng quanh Mặt Trăng trước tiên hay không, vì vậy lựa chọn tốt nhất là cố gắng hạ cánh con người xuống đó. Đây cũng đồng thời là phương án tốn kém nhất; Webb tin rằng thành tựu này cần khoảng 22 tỷ đô la Mỹ (tương đương tỷ đô la Mỹ năm ) để có thể đạt được trước năm 1970. Johnson cũng tham khảo ý kiến của Wernher von Braun; các nhà lãnh đạo quân sự bao gồm Trung tướng Bernard Schriever; và ba giám đốc kinh doanh: Frank Stanton từ CBS, Donald C. Cook từ American Electric Power, và George R. Brown từ Brown & Root.
Kennedy đã đứng trước Quốc hội Mỹ vào ngày 25 tháng 5 năm 1961 và đề xuất rằng Hoa Kỳ "nên cam kết đạt được mục tiêu là trước khi thập kỷ này kết thúc, phải đưa được con người lên Mặt Trăng và trở về Trái Đất an toàn." Không phải tất cả mọi người đều bị ấn tượng; một cuộc thăm dò của Gallup cho thấy có đến 58% người Mỹ đã phản đối đề xuất này.
Mục tiêu của Kennedy đã đưa ra một hướng đi cụ thể cho chương trình Apollo, vốn yêu cầu sự mở rộng từ nhóm kỹ sư Space Task Group của NASA thành Trung tâm Tàu vũ trụ có người lái. Houston, Texas được chọn làm địa điểm cho trung tâm mới và được công ty Humble Oil and Refining hiến đất vào năm 1961 thông qua trung gian là Đại học Rice. Kennedy đã có chuyến thăm hai ngày vào tháng 9 năm 1962 tới cơ sở mới. Ông được hộ tống bởi các phi hành gia Scott Carpenter và John Glenn của nhóm Mercury Seven, đồng thời được chiêm ngưỡng các mô hình của tàu vũ trụ Gemini và Apollo. Kennedy cũng tham quan Friendship 7, tàu vũ trụ Mercury mà Glenn đã sử dụng để thực hiện chuyến bay vào quỹ đạo đầu tiên của nước Mỹ. Ông tận dụng cơ hội này để có bài phát biểu nhằm kêu gọi ủng hộ nỗ lực không gian của quốc gia. Bản thảo ban đầu của bài phát biểu được viết bởi Ted Sorensen, với một số những chỉnh sửa từ Kennedy.
Phát biểu
Vào ngày 12 tháng 9 năm 1962, Tổng thống Kennedy đã phát biểu bài diễn văn trước đám đông gần 40.000 người tại sân vận động của Đại học Rice. Rất nhiều người trong số đó là sinh viên của đại học này. Phần giữa của bài diễn văn được trích dẫn khá rộng rãi, với nội dung như sau:We set sail on this new sea because there is new knowledge to be gained, and new rights to be won, and they must be won and used for the progress of all people. For space science, like nuclear science and all technology, has no conscience of its own. Whether it will become a force for good or ill depends on man, and only if the United States occupies a position of pre-eminence can we help decide whether this new ocean will be a sea of peace or a new terrifying theater of war. I do not say that we should or will go unprotected against the hostile misuse of space any more than we go unprotected against the hostile use of land or sea, but I do say that space can be explored and mastered without feeding the fires of war, without repeating the mistakes that man has made in extending his writ around this globe of ours. There is no strife, no prejudice, no national conflict in outer space as yet. Its hazards are hostile to us all. Its conquest deserves the best of all mankind, and its opportunity for peaceful cooperation may never come again. But why, some say, the Moon? Why choose this as our goal? And they may well ask, why climb the highest mountain? Why, 35 years ago, fly the Atlantic? Why does Rice play Texas? We choose to go to the Moon. We choose to go to the Moon... We choose to go to the Moon in this decade and do the other things, not because they are easy, but because they are hard; because that goal will serve to organize and measure the best of our energies and skills, because that challenge is one that we are willing to accept, one we are unwilling to postpone, and one we intend to win, and the others, too.Tạm dịch:
Chúng ta giương buồm trên vùng biển mới này vì ở đó có kiến thức mới cần phải đạt được, có những quyền mới cần phải giành được, và chúng phải được giành lấy và sử dụng vì sự tiến bộ của tất cả mọi người. Khoa học vũ trụ, như khoa học hạt nhân và tất cả mọi công nghệ, không có lương tâm riêng của nó. Việc nó sẽ trở thành một lực lượng tốt hay xấu là tùy thuộc vào con người, và chỉ khi Hoa Kỳ chiếm được vị trí ưu việt thì chúng ta mới có thể giúp quyết định liệu đại dương mới này sẽ là một vùng biển hòa bình hay một mặt trận chiến tranh đáng sợ. Tôi không nói rằng chúng ta nên hoặc sẽ không được bảo vệ trước việc lạm dụng không gian một cách thù địch, cũng như chúng ta không được bảo vệ trước việc sử dụng đất hoặc biển một cách thù địch, nhưng tôi nói rằng không gian có thể được khám phá và làm chủ mà không cần tiếp thêm ngọn lửa chiến tranh, không cần lặp lại những sai lầm mà con người đã mắc phải khi mở rộng quyền lực của mình trên Địa Cầu này. Chưa có tranh chấp, thành kiến, hay xung đột quốc gia ngoài vũ trụ. Những mối nguy hiểm của nó là thù địch đối với tất cả chúng ta. Cuộc chinh phục của nó xứng đáng nhận được những điều tốt đẹp nhất của nhân loại, và cơ hội hợp tác hòa bình của nó có thể không bao giờ đến nữa. Nhưng một số người hỏi, tại sao lại là Mặt Trăng? Tại sao chọn đây là mục tiêu? Và họ cũng có thể hỏi, tại sao lại leo lên ngọn núi cao nhất? Tại sao lại bay qua Đại Tây Dương vào 35 năm trước? Tại sao đội Rice lại đấu với đội Texas? Chúng ta chọn lên Mặt Trăng. Chúng ta chọn lên Mặt Trăng... Chúng ta chọn lên Mặt Trăng trong thập kỷ này và làm những điều khác, không phải vì chúng dễ dàng, mà bởi vì chúng khó khăn; bởi vì mục tiêu đó sẽ phục vụ cho việc tổ chức cũng như đo lường nghị lực và kỹ năng tốt nhất của chúng ta, bởi vì thử thách đó là một thứ mà chúng ta sẵn sàng chấp nhận, một thứ mà chúng ta không muốn trì hoãn, một thứ mà chúng ta dự định giành chiến thắng, và những điều khác nữa.
Trò đùa đề cập đến kình địch bóng bầu dục Rice–Texas đã được Kennedy viết tay vào bài phát biểu, và là phần được nhiều người hâm mộ thể thao ghi nhớ. Mặc dù kình địch Rice–Texas có tính cạnh tranh cao vào thời điểm Kennedy diễn thuyết, với việc Rice dẫn trước Texas 18-17-1 từ năm 1930 đến năm 1966, họ chỉ đánh bại Texas vào các năm 1965 và 1994 kể từ bài phát biểu của Kennedy.
Tu từ học
Bài phát biểu của Kennedy sử dụng ba chiến lược: "mô tả đặc điểm của không gian như một biên giới đang vẫy gọi; sự khớp nối về thời gian giúp định vị nỗ lực trong một thời điểm lịch sử cấp bách và hợp lý; và chiến lược tích lũy cuối cùng là mời gọi khán giả sống xứng đáng với di sản tiên phong của họ bằng cách lên Mặt Trăng."
Khi phát biểu trước đám đông tại Đại học Rice, ông đặt ngang hàng mong muốn khám phá không gian với tinh thần tiên phong đã thống trị truyền thống dân gian Mỹ kể từ khi lập quốc. Điều này cho phép Kennedy nhắc lại bài phát biểu nhậm chức của mình lúc ông tuyên bố với thế giới "Cùng nhau chúng ta khám phá các vì sao". Khi gặp Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô và Thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev vào tháng 6 năm 1961, Kennedy đã đề xuất biến cuộc đổ bộ lên Mặt Trăng thành một dự án chung, nhưng Khrushchev lại không chấp nhận lời đề nghị này.
Có sự đối lập khoa trương trong bài phát biểu về việc mở rộng quân sự hóa không gian. Kennedy đã cô đọng toàn bộ lịch sử loài người thành năm mươi năm, trong đó "chỉ mới tuần trước chúng ta phát triển penicillin, truyền hình và năng lượng hạt nhân, và bây giờ nếu tàu vũ trụ mới của Mỹ thành công trong việc tiếp cận Sao Kim (Mariner 2), theo đúng nghĩa đen, chúng ta sẽ chạm tới các vì sao trước nửa đêm nay." Với phép ẩn dụ mở rộng này, Kennedy đã tìm cách truyền tải cảm giác cấp bách và nhận thức về sự thay đổi tới người nghe. Nổi bật nhất là việc cụm từ "Chúng ta chọn lên Mặt Trăng" trong bài phát biểu ở Đại học Rice được lặp lại ba lần liên tiếp, theo sau là lời giải thích lên đến đỉnh điểm trong tuyên bố của ông rằng thách thức của không gian là "một thứ mà chúng ta sẵn sàng chấp nhận, một thứ mà chúng ta không muốn trì hoãn, và một thứ mà chúng ta dự định giành chiến thắng."
Xét câu chữ trước khi ông hỏi khán giả một cách cường điệu rằng tại sao họ lại chọn tranh tài trong những nhiệm vụ đầy thách thức, Kennedy đã nhấn mạnh ở đây bản chất của quyết định du hành vũ trụ là một sự lựa chọn, một lựa chọn mà người dân Mỹ đã quyết định theo đuổi. Thay vì khẳng định điều đó là cần thiết, ông lại nhấn mạnh những lợi ích mà nỗ lực đó có thể mang đến – đoàn kết quốc gia và mặt cạnh tranh của nó. Như Kennedy đã phát biểu tại Quốc hội trước đó, "bất cứ điều gì nhân loại phải đảm nhận, những người tự do đều phải chia sẻ đầy đủ". Những lời này nhấn mạnh sự tự do mà người Mỹ được hưởng trong việc lựa chọn số phận của mình thay vì để nó định đoạt sẵn cho họ. Kết hợp với việc sử dụng tổng thể các biện pháp tu từ của Kennedy trong bài phát biểu, chúng đặc biệt thích hợp như một lời tuyên bố bắt đầu cuộc chạy đua vào không gian của Hoa Kỳ.
Kennedy đã mô tả một khái niệm lãng mạn về khám phá vũ trụ khi diễn thuyết tại Đại học Rice, trong đó tất cả người dân Hoa Kỳ, và thậm chí toàn thế giới, đều có thể tham gia, làm tăng thêm đáng kể số lượng công dân quan tâm đến thám hiểm không gian. Ông bắt đầu bằng việc nói về vũ trụ như một biên giới mới cho toàn thể nhân loại, khơi dậy ước mơ trong lòng người nghe. Sau đó, ông cô đọng lịch sử loài người để chứng minh rằng trong một khoảng thời gian rất ngắn, du hành không gian sẽ trở nên khả thi, đồng thời thông báo cho khán giả rằng ước mơ của họ có thể thực hiện được. Cuối cùng, ông sử dụng ngôi thứ nhất số nhiều "chúng ta" để đại diện cho tất cả mọi người trên thế giới, những người được cho là sẽ cùng nhau khám phá không gian, nhưng cũng bao gồm sự tham gia của đám đông tại Đại học Rice.
Đón nhận
Paul Burka, tổng biên tập của tạp chí Texas Monthly, cũng là một cựu sinh viên Rice có mặt trong đám đông ngày hôm đó, nhớ lại 50 năm sau rằng bài phát biểu "nói lên cách người Mỹ nhìn về tương lai vào thời điểm đó. Nó là một bài phát biểu tuyệt vời, một bài diễn văn gói gọn toàn bộ lịch sử được ghi lại và tìm cách đưa nó vào lịch sử của thời đại chúng ta. Không giống như các chính trị gia ngày nay, Kennedy nói đến những động lực tốt nhất của chúng ta với tư cách là một quốc gia, chứ không phải những điều tồi tệ nhất." Ron Sass và Robert Curl nằm trong số nhiều giảng viên của Đại học Rice có mặt. Curl đã rất ngạc nhiên trước chi phí của chương trình thám hiểm không gian. Họ nhớ lại rằng mục tiêu đầy tham vọng này dường như không quá đáng chú ý vào thời điểm đó, và bài phát biểu của Kennedy không được coi là quá khác biệt so với bài phát biểu của Tổng thống Dwight D. Eisenhower tại nhà thi đấu Autry Court của Rice năm 1960; nhưng nó đã bị lãng quên từ lâu, trong khi bài phát biểu của Kennedy vẫn được người ta nhớ đến.
Bài phát biểu không ngăn được làn sóng lo lắng ngày càng tăng về nỗ lực đổ bộ lên Mặt Trăng. Có rất nhiều thứ khác mà số tiền đó có thể được tiêu vào. Eisenhower tuyên bố: "Chi 40 tỷ đô để tới Mặt Trăng thật là điên rồ." Thượng nghị sĩ Barry Goldwater lập luận rằng chương trình không gian dân sự đang đẩy chương trình quân sự quan trọng hơn sang một bên. Thượng nghị sĩ William Proxmire thì lo ngại các nhà khoa học sẽ chuyển hướng từ nghiên cứu quân sự sang thám hiểm không gian. Việc cắt giảm ngân sách chỉ được ngăn chặn trong gang tấc. Kennedy có bài phát biểu trước Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc vào ngày 20 tháng 9 năm 1963, trong đó ông lại đề xuất một chuyến thám hiểm chung lên Mặt Trăng. Khrushchev vẫn thận trọng về việc tham gia và đáp lại bằng một tuyên bố vào tháng 10 năm 1963, trong đó ông phát biểu rằng Liên Xô không có kế hoạch đưa phi hành gia lên Mặt Trăng. Tuy nhiên, các cố vấn quân sự của Khrushchev đã thuyết phục ông đây là một lời đề nghị tốt vì nó sẽ giúp Liên Xô có được công nghệ của Mỹ. Kennedy ra lệnh xem xét lại dự án Apollo vào tháng 4, tháng 8 và tháng 10 năm 1963. Báo cáo cuối cùng được nhận vào ngày 29 tháng 11 năm 1963, một tuần sau vụ ám sát Kennedy.
Di sản
Ý tưởng về một sứ mệnh Mặt Trăng chung đã bị hủy bỏ sau cái chết của Kennedy, nhưng dự án Apollo đã trở thành đài tưởng niệm tới vị tổng thống quá cố. Mục tiêu của ông được hoàn thành vào tháng 7 năm 1969 với cuộc đổ bộ thành công lên Mặt Trăng của sứ mệnh Apollo 11. Thành tựu này vẫn là một di sản lâu dài từ bài phát biểu tại Đại học Rice, song thời hạn của Kennedy đòi hỏi ông phải đưa ra một trọng tâm thu hẹp, và đã không có dấu hiệu nào về những gì nên làm tiếp theo sau khi đạt được mục tiêu. Apollo đã không mở ra kỷ nguyên thám hiểm Mặt Trăng, và không có sứ mệnh phi hành đoàn nào được gửi lên đó kể từ sau Apollo 17 vào năm 1972. Các sứ mệnh Apollo tiếp theo trong kế hoạch đã bị hủy bỏ.
Các chương trình tàu con thoi cũng như Trạm vũ trụ Quốc tế chưa bao giờ chiếm được trí tưởng tượng của công chúng như cách dự án Apollo đã làm, và NASA đã phải vật lộn để hiện thực hóa tầm nhìn của mình với nguồn lực thiếu thốn. Những tầm nhìn đầy tham vọng về khám phá không gian đã được đề xuất bởi các Tổng thống George H. W. Bush vào năm 1989 (với Sáng kiến Khám phá Không gian) và George W. Bush vào năm 2004 (với chương trình Constellation). Sau khi Constellation bị hủy bỏ, tương lai của chương trình không gian Hoa Kỳ dường như trở nên bấp bênh.
Trưng bày
Bục phát biểu mà Kennedy đã đứng diễn thuyết hiện được trưng bày tại Trung tâm vũ trụ Houston.
Ghi chú
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Bản ghi âm và video của bài phát biểu.
Bản thảo của bài phát biểu, với phần bổ sung viết tay từ Kennedy.
Khẩu hiệu chính trị Mỹ
Chương trình Apollo
Diễn văn trong Chiến tranh Lạnh
John F. Kennedy
Nhiệm kỳ tổng thống John F. Kennedy
Đại học Rice
Sự kiện tháng 9 năm 1962 |
19853233 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20s%C3%A2n%20bay%20t%E1%BA%A1i%20M%C3%A9xico | Danh sách sân bay tại México | Đây là danh sách sân bay tại México, được sắp xếp theo vị trí.
Danh sách này chỉ bao gồm các sân bay lớn hoặc sân bay quốc gia.
Sân bay
Xem thêm
Giao thông tại México
Không quân México
Danh sách khác:
Danh sách sân bay bận rộn nhất México
Danh sách sân bay tại Baja California
Danh sách sân bay tại Baja California Sur
Tham khảo
Great Circle Mapper: Airports in Mexico, reference for airport codes
Airport Guide: Mexico Airports, reference for airport codes
Sân bay México
México |
19853235 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sachsen-Coburg-Eisenach | Sachsen-Coburg-Eisenach | Công quốc Sachsen-Coburg-Eisenach (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Coburg-Eisenach) là một nhà nước thuộc Đế chế La Mã Thần thánh, được cai trị bởi dòng Ernestine, nhánh trưởng của Nhà Wettin. Nó tồn tại trong 2 thời kỳ khá ngắn: 1572-1596 và 1633-1638. Lãnh thổ của công quốc là một phần của các bang hiện đại Bayern và Thuringia của Đức.
Sachsen-Coburg-Eisenach được thành lập dựa trên quyết định của Đại hội đế chế Speyer năm 1570, nhầm tách Coburg và Eisenach khỏi Công quốc Sachsen-Weimar và trao chúng cho 2 người con của Johann Friedrich II là Công tử Johann Casimir và Công tử Johann Ernst. Tuy nhiên, vì lúc đó hai công tử vẫn còn ở tuổi vị thành niên nên đất nước được cai trị bởi August, Tuyển hầu xứ Sachsen.
Năm 1586, chế độ nhiếp chính vương của Tuyển đế hầu August chấm dứt, 2 anh em Johann trực tiếp đứng ra đồng cai trị công quốc của mình. Năm 1595, hai anh em quyết định phân chia lãnh thổ để độc lập cai trị và Công tước John Casimir nhận Coburg và lập ra Sachsen-Coburg còn người em trai Ernst nhận Eisenach và lập ra Sachsen-Eisenach.
Năm 1633, Công tước Johann Casimir của Sachsen-Coburg qua đời mà không có con trai nối dõi, toàn bộ tài sản và lãnh thổ đã được thừa kế bởi em trai là công tước Ernst xứ Sachsen-Eisenach, một lần nữa Coburg và Eisenach được hợp nhất trong một thời gian ngắn, cho đến khi Công tước Ernst qua đời vào năm 1638 và cũng không có người thừa kế, vì thế Sachsen-Coburg-Eisenach bị phân chia cho Sachsen-Weimar và Sachsen-Altenburg.
Tham khảo
Các công quốc Ernestine
Công quốc Thánh chế La Mã
Cựu quốc gia quân chủ châu Âu
Công tước xứ Sachsen-Coburg-Eisenach
Vương tộc Wettin |
19853236 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Karlstein%20am%20Main | Karlstein am Main | Karlstein am Main (chính thức là Karlstein a. Main) là một đô thị nằm ở huyện Aschaffenburg, Regierungsbezirk Unterfranken, thuộc bang Bayern, Đức.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của cộng đồng
Aschaffenburg (huyện) |
19853237 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Kleinkahl | Kleinkahl | Kleinkahl là một đô thị nằm ở huyện Aschaffenburg, thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức. Dân số nơi đây vào khoảng 1.800 người.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Aschaffenburg (huyện) |
19853238 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Kleinostheim | Kleinostheim | Kleinostheim là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg, thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức.
Tham khảo |
19853239 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Laufach | Laufach | Laufach là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg, thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của cộng đồng |
19853240 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Mainaschaff | Mainaschaff | Mainaschaff là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg, thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức. Nơi đây có dân số khoảng 9.000 người (2020).
Tham khảo
Thư mục
Matthias Thiel: Das Privileg Papst Lucius' III. für das Stift Aschaffenburg vào năm 1184 . Geschichts-u. Kunstverein, Aschaffenburg 1984,
Liên kết ngoài |
19853241 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Mespelbrunn | Mespelbrunn | Mespelbrunn là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg, thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức.
Nơi đây có Lâu đài Mespelbrunn, một trong những địa danh nổi tiếng nhất của vùng Spessart và Wallfahrtskirche Hessenthal, trong hơn 700 năm là điểm đến của một cuộc hành hương đạo Thiên chúa.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lâu đài Mespelbrunn |
19853242 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A9%20Lang%20th%C3%A1m%20m%E1%BA%ABu | Tứ Lang thám mẫu | Tứ Lang thám mẫu () là một vở Kinh kịch lấy cảm hứng từ Dương gia tướng. Tác phẩm nhiều lần bị cấm ở Trung Quốc.
Tình tiết
Lấy cảm hứng từ các tình tiết trong tiểu thuyết lịch sử triều đại nhà Minh Dương gia tướng, vở kịch lấy bối cảnh thời nhà Tống dưới sự trị vì của Tống Thái Tông gồm mười ba đoạn riêng biệt.
Nhân vật chính của vở kịch là , còn được gọi Dương Tứ Lang (), là một vị tướng quân nhà Tống bị quân Liêu bắt giữ. Ông che dấu thân phận của mình và thành hôn với con gái của hoàng hậu nhà Liêu, Thiết Kính Công chúa (). Mười lăm năm sau, hai triều đại tiếp diễn xung đột; Tứ Lang về thăm gia đình với sự giúp sức của vợ nhưng rồi quay trở lại lãnh thổ của quân địch. Lúc đầu ông bị nhạc mẫu tuyên án tử nhưng được miễn phạt cùng lời cảnh cáo sau khi công chúa thay mặt can thiệp.
Nguồn gốc
Sách hướng dẫn sớm nhất về kinh kịch ban đầu được lan truyền vào năm 1845. Tác phẩm có sự góp mặt của nhiều diễn viên và các vở kịch mà họ đã biểu diễn; Tứ Lang thám mẫu được lập danh sách bảy lần, nhiều hơn bất kỳ vở kịch nào khác.
Không rõ lai lịch của tác giả vở kịch này. Kịch bản sớm nhất còn sót lại từ năm 1880 và được tìm thấy trong Lê Viên tập thành () của Lý Thế Trung (). Bản dịch tiếng Anh vở kịch này của A. C. Scott, với tựa đề Ssu Lang Visits his Mother, được đưa vào quyển đầu tiên của Traditional Chinese Plays (1967).
Biểu diễn
Tứ Lang thám mẫu lần đầu được dàn dựng vào giữa triều đại nhà Thanh, mặc dù dưới dạng "tỉnh lẻ" của kinh kịch. Vì khắc họa một vị tướng lĩnh đầu hàng quân địch, vở kịch đã nhiều lần bị cấm ở Trung Quốc; Cơ quan chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phụ trách chính sách văn hóa ở Thiên Tân đã cấm vở kịch vào năm 1945 vì tác phẩm "bóp méo luân thường đạo lý và đạo đức". Tác phẩm tiếp tục bị cấm lần nữa sau Cách mạng Cộng sản Trung Quốc và thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Lệnh cấm được nới lỏng trong thời gian ngắn vào năm 1956, như một phần của chiến dịch Trăm hoa đua nở, dù vậy các nhà viết kịch buộc phải chỉnh sửa một số lời thoại. Buổi diễn Tứ Lang thám mẫu đầu tiên sau lệnh cấm vào tháng 5 cùng năm thu hút khoảng hai nghìn khán giả theo dõi. Vở kịch tiếp tục được biểu diễn đến năm 1960, sau đó tác phẩm dường như "hứng chịu sự phản đối chính thức một lần nữa".
Cải biên
Vở kịch được biểu diễn dưới nhiều hình thức như Hý khúc, gồm Hà Bắc bang tử, Tấn kịch, Tần khang, Mân kịch và Xuyên kịch.
Một bộ phim tiếng Quảng Châu cải biên từ vở kịch (), được phát hành năm 1959. Bộ phim do Hoàng Hạc Thanh đạo diễn với sự tham gia của Mã Sư Tằng, Dư Lệ Trân, Lâm Gia Thanh, Phượng Hoàng Nữ và Bán Nhận An. Trong phim, Tứ Lang bị ép buộc thành hôn với công chúa nhà Liêu. Cô sau đó được một trong những chị dâu của Tứ Lang đến thăm, họ thuyết phục cô cho phép Tứ Lang trở về nhà để thăm người mẹ đau ốm. Đoạn tiếp theo được phát hành cùng năm.
Ghi chú
Tham khảo
Chú thích
Trích dẫn
Kịch Trung Quốc |
19853243 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sachsen-Jena | Sachsen-Jena | Công quốc Sachsen-Jena (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Jena) là một nhà nước thuộc Đế chế La Mã Thần thánh, được cai trị bởi dòng Ernestine, nhánh trưởng của Nhà Wettin. Nó được lập ra vào năm 1672, từ việc phân tách của Sachsen-Weimar sau cái chết của Wilhelm, Công tước xứ Sachsen-Weimar, vùng Jena được trao cho người con trai thứ 4 của Wilhelm là Công tử Bernhard để lập ra Công quốc Sachsen-Jena. Nhưng công quốc chỉ tồn tại đến năm 1690 thì chấm dứt, vì con trai của Bernhard là Công tước Johann Wilhelm qua đời mà không có con trai thừa tự. Sachsen-Jena trở lại với Sachsen-Weimar.
Tham khảo
Các công quốc Ernestine
Vương tộc Wettin
Công quốc Thánh chế La Mã
Cựu quốc gia quân chủ châu Âu
Công tước xứ Sachsen-Jena |
19853245 | https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20Chaloem%20La%2056 | Cầu Chaloem La 56 | Cầu Chaloem La 56 (), còn được gọi là Cầu Hua Chang (สะพานหัวช้าง; nghĩa đen: cầu đầu voi), là một cây cầu ở phó quận Thanon Phetchaburi, quận Ratchathewi và phó quận Wang Mai, quận Pathum Wan thuộc Bangkok. Cây cầu bắc qua Khlong Saen Saep (kênh Saen Saep) trên Đường Phaya Thai.
Cầu Chaloem La 56 là một trong ba cây cầu còn sót lại trong chuỗi cầu Chaloem. Hai cây cầu còn lại là Cầu Chaloem Phan 53 ở quận Bang Rak và Sathon, với Cầu Chaloem Lok 55 nằm gần đó. Vào ngày 18 tháng 3 năm 1975 nó đã được đăng ký là một trong những di tích cổ của Bangkok.
Tham khảo
Khởi đầu năm 1909 ở Xiêm
Chaloem La 56
Quận Pathum Wan
Quận Ratchathewi
Di tích cổ đã được đăng ký ở Bangkok |
19853262 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20t%C3%A2m%20V%C4%83n%20h%C3%B3a%20v%C3%A0%20Ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20Bangkok | Trung tâm Văn hóa và Nghệ thuật Bangkok | Trung tâm Văn hóa và Nghệ thuật Bangkok (tiếng Anh: Bangkok Art and Culture Centre, viết tắt BACC; ) là một trung tâm nghệ thuật đương đại ở Bangkok, Thái Lan. Các sự kiện nghệ thuật, âm nhạc, điện ảnh, phim, thiết kế và văn hóa/giáo dục chọn địa điểm này để tổ chức sự kiện và trình diễn. Trung tâm bao gồm cà phê, tranh ảnh nghệ thuật thương mại, hiệu sách, cửa hàng thủ công, và thư viện tranh. Nó được thiết kế như một địa điểm trao đổi văn hóa, mang lại cho Bangkok một địa điểm hoạt động dựa trên trường nghệ thuật quốc tế. Số lượt khách tăng từ 300.000 trong năm đầu tiên 2007 tại BACC lên đến 1,7 triệu lượt khách vào năm 2017.
Lịch sử
Vào năm 1995, Thống đốc Băng Cốc ông Bhichit Rattakul bắt đầu dự án gọi là "trung tâm nghệ thuật". Sau chấp thuận Trung tâm Văn hóa và Nghệ thuật Bangkok phải nằm gần nút giao Pathumwan, dự án tạm dừng vào năm 2001 khi Samak Sundaravej trở thành thống đốc mới. Ông muốn không gian mua sắm thương mại và tư nhân đầu tư. Tổ chức văn hóa, nghệ sĩ, hoạc sinh, và truyền thông đã tham gia phản đối việc đình chỉ. Vào năm 2004, Apirak Kosayodhin trở thành thống đốc Băng Cốc. Dự án được tiếp tục trưng cầu và thống đốc đồng ý với dự án ban đầu rằng trung tâm nghệ thuật phải được thiết kế như dự tính ban đầu.
Vào ngày 19 tháng 8 năm 2005 a "Tuyên bố hợp tác trong lĩnh vực nghệ thuật và văn hóa bởi Chính quyền Đô thị Bangkok (BMA) và Các tổ chức liên minh trong lĩnh vực nghệ thuật và văn hóa" đã được ký tại công viên Benjasiri. Vào ngày 29 tháng 7 năm 2008 Trung tâm Văn hóa và Nghệ thuật Bangkok đã mở cửa sau nhiều lần trì hoãn.
Mục tiêu
Mục tiêu của BACC để tạo ra nơi hội họp cho các nghệ sĩ và công chúng, cung cấp chương trình văn hóa cho cộng đồng coi trọng sự tiếp nối văn hóa từ quá khứ đến hiện tại. Nó nhằm mục đích khơi dậy những con đường mới cho đối thoại văn hóa, kết nối, và tạo ra nguồn văn hóa mới từ cộng đồng đến tư nhân. Mục tiêu chính của BACC trở thành địa điểm trao đổi văn hóa.
Giờ làm việc
Trung tâm Văn hóa và Nghệ thuật Bangkok đóng cửa vào Thứ Hai và mở cửa từ 10:00 sáng đến 9:00 tối từ Thứ Ba đến Chủ Nhật. Không thu phí vào cổng.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bảo tàng ở Bangkok
Bảo tàng và triển lãm nghệ thuật ở Thái Lan
Khởi đầu năm 2008 ở Thái Lan
Quận Pathum Wan |
19853273 | https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BA%A8m%20th%E1%BB%B1c%20Luxembourg | Ẩm thực Luxembourg | Ẩm thực Luxembourg phản ánh vị thế của đất nước với các quốc gia Latinh và German, chịu ảnh hưởng từ ẩm thực của các nước láng giềng như Pháp, Bỉ và Đức. Bên cạnh đó, gần đây, nó còn bị ảnh hưởng bởi nhiều người nhập cư Ý và Bồ Đào Nha. Giống như ở Đức, hầu hết các món ăn truyền thống hàng ngày của Luxembourg đều có nguồn gốc từ những người nông dân, trái ngược với các món ăn Pháp cầu kỳ và phức tạp.
Món ăn
Mô tả
Luxembourg có rất nhiều món ăn ngon. Ngoài pâtisserie, bánh ngọt và bánh trái cây của Pháp, các loại bánh ngọt địa phương bao gồm Bretzel, một đặc sản trong Mùa Chay; bánh tart Quetschentaart, zwetschge; verwurelt Gedanken hoặc Verwurelter, chiếc bánh rán nhỏ được phủ một lớp đường bột; và Äppelklatzen, en croûte táo. Đặc sản pho mát của Luxembourg là Kachkéis hoặc Cancoillotte, một loại phô mai phết mềm.
Các loài thủy sản từ các con sông địa phương như cá hồi, cá chó và tôm càng là nguyên liệu cho các món ăn như F'rell am Rèisleck (cá hồi xốt Riesling), Hiecht mat Kraiderzooss (cá chó xốt xanh) và Kriibsen (tôm càng), thường được chế biến với xốt Riesling. Một món được yêu thích khác là Fritür hoặc Friture de la Moselle, món cá chiên nhỏ đánh bắt từ sông Mosel, đi kèm với rượu vang trắng.
Các món thịt bao gồm Éisleker Ham, nghĩa đen là giăm bông Éislek ở vùng núi phía bắc đất nước, được ướp trong vài tuần và sau đó hun khói trong vài ngày. Nó thường được phục vụ với khoai tây thái lát mỏng và salad trộn. Có lẽ món thịt truyền thống nhất của Luxembourg là Judd mat Gaardebounen, thịt cổ heo hun khói với đậu răng ngựa. Thịt lợn được ngâm qua đêm, sau đó luộc cùng rau và gia vị. Được phục vụ thành nhiều lát cùng với đậu và khoai tây luộc, nó được coi là món ăn quốc gia của Luxembourg. Hong am Rèisleck, tương tự như món Coq au Riesling, bao gồm các miếng thịt gà chín vàng được ninh trong rượu trắng với rau củ, gia vị và nấm. Huesenziwwi hay Civet de lièvre là món thịt thỏ hầm được phục vụ trong mùa săn bắn.
Các món ăn khác bao gồm bánh bao gan (quenelle) với dưa cải bắp và khoai tây luộc, Träipen (bánh pudding đen) với xốt táo, xúc xích với khoai tây nghiền và củ cải ngựa, xúp đậu xanh (Bouneschlupp). Ẩm thực Pháp nổi bật trong nhiều thực đơn, cũng như một số món ăn từ Đức và Bỉ.
Hình ảnh tượng trưng
Một số món ăn nổi tiếng
Một số đặc sản của Luxembourg bao gồm:
Thüringer— Xúc xích có vị như phiên bản cay của món bratwurst. Việc sử dụng từ "Thüringer" hiện được dành riêng cho xúc xích được sản xuất tại bang Thüringen. Bây giờ, chúng có tên chính thức là Lëtzebuerger Grillwurscht hay xúc xích nướng Luxembourg.<ref>[http://www.mycitycuisine.org/wiki/L%C3%ABtzebuerger_Grillwurscht Lëtzebuerger Grillwurscht"] , Mycitycuisine.org. Retrieved 30 November 2011</ref>
Gromperekichelcher— Bánh khoai tây chiên được tẩm gia vị cẩn thận với hành và ngò tây cắt nhỏ, sau đó chiên giòn.
Tierteg— Một loại bánh khoai tây chiên khác được làm từ dưa cải bắp.
Rieslingspaschtéit— Một loại bánh nhân thịt có hình ổ bánh mì phổ biến được chế biến với rượu vang Riesling và aspic, thường được phục vụ theo từng lát.
Pâté — một loại thực phẩm hay món ăn có dạng nhuyễn được chế biến từ thịt và gan động vật cùng các loại gia vị khác
Quetschentaart— Bánh tart mận; cùng với đào, anh đào và lê là một món tráng miệng điển hình và có thể tìm thấy ở bất kỳ cửa hàng bánh ngọt hoặc nhà hàng nào.
Miel luxembourgeois de marque nationale— Một loại mật ong Luxembourg được bảo vệ theo luật pháp của Liên minh châu Âu.
Öennenzop — Xúp hành tây thường được ăn kèm với bánh mì nướng phô mai.
Rượu vang và bia
Rượu vang, chủ yếu là rượu vang trắng khô và rượu vang sủi được sản xuất ở Luxembourg, dọc theo bờ bắc của sông Mosel, nơi có lịch sử sản xuất rượu vang từ thời La Mã. Các loại chính là Riesling, Pinot gris, Pinot blanc, Chardonnay, Auxerrois, Gewürztraminer, Rivaner, Elbling, Pinot noir và Crémant de Luxembourg. Chữ Marque Nationale ở phía sau mỗi chai rượu vang khẳng định nguồn gốc và chất lượng của rượu.
Bia, một loại đồ uống khá phổ biến ở Luxembourg, được sản xuất ở địa phương với 3 nhà máy bia lớn cũng như ở một số cơ sở nhỏ hơn. Hầu hết bia được ủ ở Luxembourg là bia nhẹ nhưng cũng có một số loại bia đặc biệt cũng như bia không cồn và bia Giáng sinh vào tháng 12."Wine and Beers of Luxembourg" , Anglo Info Luxembourg. Retrieved 2 December 2011. Các nhãn hiệu bia chính là Bofferding, hãng sản xuất Battin; Mousel và Diekirch, những người có chung nhà máy bia ở Diekirch; và Simon. Kể từ những năm 2000, đã có sự hồi sinh của các nhà máy bia nhỏ địa phương sản xuất bia thủ công như Beierhaascht, Ourdaller và Grand Brewing.
Tham khảo
Đọc thêm
Georges Hausemer: Culinary Luxembourg: Country, People & Cuisine, nhiếp ảnh: Guy Hoffman, biên tập: Guy Binsfeld, Luxembourg, 2009, pp. 240
Léa Linster và Simone van de Voort: Best of Lea Linster Cuisiniere'', 2003, Munsbach: Ottweiler Druckerei, 177 pp.
Liên kết ngoài
Ẩm thực Luxembourg từ Mycitycuisine.org có liên kết đến nhiều công thức nấu ăn truyền thống.
Bài viết về ẩm thực Luxembourg trên trang web chính thức của Tổng thống Luxembourg năm 2005
Các công thức nấu món ăn Luxembourg từ trang web 2travelandeat.com (bằng tiếng Pháp)
Ẩm thực Luxembourg
Văn hóa Luxembourg
Ẩm thực châu Âu |
19853275 | https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B6mbris | Mömbris | Mömbris là một xã và là một phố chợ nằm ở huyện Aschaffenburg thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức. Với dân số hơn 11.000 người, Mömbris là khu dân cư lớn thứ năm của huyện.
Thư mục
Josef August Eichelsbacher: Heimatbuch des Kahlgrundes, I.Teil, Geschichte und Sagen, 1928
Josef August Eichelsbacher: Heimatbuch des Kahlgrundes, II. Teil, Land und Leute, 1930
Arbeitsgemeinschaft für Heimatforschung: Heimatjahrbuch Unser Kahlgrund, 1956–2007
Arbeitsgemeinschaft für Heimatforschung: Bildstöcke und Flurdenkmäler des Landkreises Alzenau, 1971
Emil Griebel: Chronik des Marktes Mömbris, 1982
Geschichtsverein Mömbris: Beiträge zur Geschichte der Marktgemeinde Mömbris, 1. Heft 1991, 2. Heft 1993
Wilhelm Bierschneider: Unterfranken Historische Daten von Städten, Gemeinden und Ortsteilen, 2003
Tham khảo
Liên kết ngoài |